Giấc mơ Trung Quốc - Chương 02 - Phần 01
Chương II: ĐỌ SỨC THẾ KỶ:
CUỘC CHIẾN GIÀNH GIẬT “QUỐC GIA QUÁN QUÂN” GIỮA TRUNG QUỐC VỚI MỸ
Quốc gia quán quân là quốc gia giàu mạnh nhất xuất
hiện trong quá trình cạnh tranh giữa các quốc gia trên phạm vi toàn cầu kể từ
sau khi hình thành hệ thống thế giới cận đại, là quốc gia dẫn đầu thế giới
trong một thời gian, là quốc gia in dấu ấn sâu đậm trên toàn thế giới, là quốc
gia có sức ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới.
I. Đổi ngôi Quán
quân: 100 năm quay một vòng
Sự xuất hiện và thay thế quốc gia quán quân có đặc
điểm và quy luật của nó. Quốc gia quán quân khác loại hình thì có những bộ mặt
khác nhau. Địa vị và tác dụng của quốc gia quán quân thể hiện ở giá trị của nó
đối với thế giới. Đại diện điển hình các quốc gia quán quân xuất hiện trên thế
giới cận đại trong 500 năm qua là Bồ Đào Nha ở thế kỷ XVI, Hà Lan ở thế kỷ
XVII, Anh Quốc ở thế kỷ XVIII và XIX, nước Mỹ thế kỷ XX. Trung Quốc sẽ trở
thành quốc gia quán quân ở thế kỷ XXI.
Động lực của nước lớn trỗi dậy
Động lực chủ yếu làm cho thế giới phát triển tiến
lên là sự cạnh tranh giữa các quốc gia. Nếu nói rằng động lực phát triển trong
nội bộ một nước là sự cạnh tranh giữa các giai cấp, tập đoàn, tầng lớp, thì sau
khi hình thành hệ thống quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia chính là động
lực phát triển thế giới, là động lực nước lớn trỗi dậy.
Giáo sư Joseph Nye ở Học viện chính trị Kennedy thuộc
Đại học Harvard từng nói: “Một số sử gia cho rằng giữa các quốc gia châu Âu có
sự cạnh tranh, đúng là điều này đã làm cho các quốc gia đó luôn luôn tự phát
triển. Tại châu Á, Trung Quốc có địa vị chủ đạo, không nước nào có thể cạnh
tranh với Trung Quốc, vả lại trên vấn đề đối phó với sự xâm lược của các quốc
gia phương Bắc, Trung Quốc chỉ giải quyết nội bộ, vì thế họ không có động lực
bành trướng lãnh thổ”. “Không nghi ngờ gì nữa, cách đây 1.500 năm Trung Quốc là
nước siêu lớn ở Đông Á. Hồi đó người châu Âu bắt đầu thám hiểm hàng hải, còn
người Trung Quốc thì giảm hoạt động này. Bởi vậy bạn sẽ thấy đa số các nước lớn
bành trướng sức mạnh tới mấy châu lục đều bắt nguồn từ châu Âu”.
Theo quan điểm của Nye, sở dĩ thế giới phương Tây
phát triển nhanh đó là do giữa các quốc gia phương Tây có sự cạnh tranh kịch liệt.
Sự cạnh tranh gay gắt ấy giữa các quốc gia đem lại động lực và sức sống cho thế
giới phương Tây. Nhưng trong thời kỳ cận
đại sở dĩ phương Đông phát triển chậm, thậm chí trì trệ không tiến lên, đó là
do chưa hình thành sự cạnh tranh giữa các quốc gia. Trên thế giới ngày nay, số lượng quốc gia
tham gia cạnh tranh tăng lên rất nhiều so với ngày trước. Trong thế kỷ XX, số
lượng quốc gia có chủ quyền hợp pháp và giành được sự độc lập chính trị tăng
lên một cách ổn định: thập niên 30 thế kỷ XX chỉ có khoảng 60 nước, đến cuối thế
kỷ XX có chừng 190 nước. Đến tháng 9 năm 2002 số nước thành viên Liên Hợp Quốc
lên tới 191 nước. Theo các tài liệu liên quan, tính đến năm 2008 trên thế giới
tổng cộng có 225 quốc gia và lãnh thổ, gồm 194 quốc gia và 31 lãnh thổ. Thế giới
đang phát triển và tiến bộ trong sự cạnh tranh và ganh đua giữa các quốc gia. Sức
sống, động lực, sức sáng tạo của cộng đồng quốc tế bắt nguồn từ động lực thúc đẩy
của sự cạnh tranh giữa các quốc gia. Cạnh tranh giữa các quốc gia, nhất là cạnh
tranh chiến lược giữa các nước lớn, là động lực lớn nhất làm cho thế giới tiến
lên.
Có thể chia mục tiêu sự cạnh tranh giữa các quốc gia
làm mục tiêu thấp nhất và mục tiêu cao nhất. Nhà lý luận quan hệ quốc tế nổi tiếng
người Mỹ Kenneth Neal Waltz cho rằng quốc gia là “thể hành vi tương đồng coi sự
tự bảo tồn mình là mục tiêu thấp nhất, coi tranh giành quyền dẫn dắt thế giới
là mục tiêu cao nhất”. Mục tiêu thấp nhất của cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia
là sự sinh tồn tự thân của quốc gia. Mục tiêu cao nhất của cuộc cạnh tranh này
là trở thành quốc gia quán quân của thế giới, là giành lấy quyền dẫn dắt thế giới.
Trở thành nhất thế giới, thành quốc gia quán quân là mục tiêu cao nhất và mức
phấn đấu cao nhất của cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia.
Cuộc vật lộn, phấn đấu, cạnh tranh của quốc gia trên
vũ đài thế giới gồm bốn tầng nấc:
1. An ninh: An ninh là mục tiêu chiến lược cơ bản nhất,
cũng là quan trọng nhất. Lịch sử phát triển và thế giới tiến bộ đến như ngày
nay, tuyệt đại đa số lợi ích an toàn của các quốc gia dân tộc có được sự bảo đảm.
Hiện nay 194 quốc gia trên thế giới về cơ bản không tồn tại nguy hiểm bị chinh
phục và tiêu vong, chủ quyền quốc gia của họ trên cơ bản là an toàn. Chỉ có mười
mấy nước bị chiến tranh đe dọa và gây nhiễu.
2. Phát triển: Tuy thế giới tiến sang thời đại hòa
bình và phát triển đã được nhiều năm nay, song số quốc gia thực sự có thể thực
hiện phát triển tương đối lớn và nhanh thì chưa chiếm đa số. Cộng tất cả các nước
phát triển và nước mới công nghiệp hóa cũng chẳng qua được 40 - 50 nước, chiếm
chứng 1/4 tổng số quốc gia trên thế giới.
3. Trỗi dậy: Trong nhóm nước đang phát triển, các nước
trỗi dậy là những nước có thể ảnh hưởng tới tình hình thế giới. Xưa nay không tồn
tại và xuất hiện nhiều những nước như vậy. Trên thế giới 500 năm gần đây chỉ
khoảng mười mấy nước có thể trỗi dậy. Hiện nay số nước có cơ hội, có điều kiện
trỗi dậy trở thành cường quốc thế giới cũng chỉ là mấy nước đó.
4. Quốc gia quán quân: Đây là những quốc gia ở tầng
cao tột cùng. Thông thường khoảng 100 năm mới xuất hiện một quốc gia quán quân.
Tuy thế, trên thế giới cận đại 500 năm nay trước sau từng có 7 - 8 quốc gia
tranh giành ngôi báu quốc gia quán quân, nhưng cũng chỉ mấy quốc gia đó thực sự
tiến lên địa vị quốc gia quán quân. Một quốc gia muốn trở thành quốc gia quán
quân trên thế giới tất phải là quốc gia trỗi dậy, nhưng quốc gia trỗi dậy không
nhất định đều trở thành quốc gia quán quân. Từ một quốc gia sinh tồn, quốc gia
đang phát triển, quốc gia đang trỗi dậy cho tới quốc gia quán quân là cả một
quá trình phấn đấu thần kỳ.
Thay đổi quốc gia quán quân: sự thể hiện tập trung sức
sống của thế giới
Khi các quốc gia cạnh tranh với nhau thì sẽ có quốc
gia đào thải hoặc chiến thắng. Sự sa sút của quốc gia quán quân cũ, sự trỗi dậy
của quốc gia quán quân mới và sự đổi vị trí giữa các nước đó thể hiện sức sống
tiến bộ và phát triển của thế giới này. Sự ra đời của mỗi quốc gia quán quân mới
cũng đánh dấu một lần nhảy vọt và tiến bộ có tính lịch sử của thế giới.
Trong phần mở đầu sách “Ngoại giao lớn”, Kissinger
viết: “Tựa như tồn tại một quy luật tự nhiên nào đó, mỗi thế kỷ đều có một nước
lớn trỗi dậy, họ có sức mạnh, có ý chí, có sự khích lệ về trí thức và đạo đức,
dựa vào giá trị của mình xây dựng lại toàn bộ hệ thống quốc tế”.
Thực ra từ hai nghìn năm trước, sử gia vĩ đại cổ Hy
Lạp Herodotus căn cứ quá trình lịch sử thăng trầm của các thành bang Hy Lạp đã
đưa ra một luận đoán nổi tiếng: sự suy vong của đô thị phồn hoa và sự trỗi dậy
của đô thị nhược tiểu đã hùng hồn nói lên một kết luận: xưa nay tình hình tốt đẹp
không bao giờ lâu dài. Điều này trên thực tế vạch ra quy luật phát triển không
cân bằng trong cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia, cũng là luật chu kỳ bá quyền:
không thể nào bao giờ “phong cảnh bên này duy nhất tốt đẹp”. Quốc gia quán quân
sẽ phải bị thay thế, không thể bị một quốc gia độc quyền lâu dài.
Hồi thập niên 80 thế kỷ XX, nhà chính trị học quốc tế
nổi tiếng người Mỹ George Modelski từng đưa ra lý thuyết “chu kỳ trăm năm” thay
thế quốc gia bá quyền, cũng có thể gọi đó là lý thuyết chu kỳ trăm năm về “quyền
lãnh đạo thế giới”. Ông chia nền chính trị quốc tế 500 năm qua làm năm chu kỳ
có tính thế kỷ (1495 - 2030), cứ cách khoảng 100 năm lại có một nước lớn trỗi dậy,
lại xuất hiện một quốc gia bá quyền dẫn đầu hệ thống thế giới. Trong thời gian
500 năm ấy đã lần lượt xuất hiện các quốc gia bá quyền: Bồ Đào Nha thế kỷ XVI,
Hà Lan thế kỷ XVII, Anh Quốc thế kỷ XVIII-XIX, Mỹ thế kỷ XX.
Dù là chu kỳ trăm năm “quốc gia bá quyền” hay là chu
kỳ trăm năm “quyền lãnh đạo thế giới”, điều đó nói lên trong quá trình rượt đuổi
nhau cạnh tranh giữa các quốc gia, chưa có quốc gia quán quân vĩnh viễn. Nhiệm
kỳ của quốc gia quán quân, tức là “nhiệm kỳ thế kỷ”, “nhiệm kỳ trăm năm”. Người
ta thường nói “thế kỷ Hà Lan”, “thế kỷ Anh Quốc”, “thế kỷ Mỹ”, nhiệm kỳ quán
quân của các quốc gia quán quân này là một thế kỷ. Chế độ nhiệm kỳ hình thành tự
nhiên của quốc gia quán quân là điều tốt đối với thế giới. Dù là muốn giữ vị trí quán quân hay là muốn
tiến lên quán quân, họ đều mang lại cho thế giới sức sống và động lực phát triển.
Sự thay thế quốc gia quán quân thể hiện trình độ vận động tổng thể của thế giới
được nâng cao. Thí dụ sự xuất hiện nước Anh đem lại cho thế giới tin mừng công
nghiệp hóa; nước Mỹ tiến lên vị trí quốc gia quán quân mang lại sự thay đổi mới
cho thế giới; quốc gia quán quân mới xuất hiện sau Mỹ nhất định sẽ đem lại cho
thế giới một cục diện mới.
Ba bộ mặt của “quốc gia quán quân”
Đại để có thể chia quốc gia quán quân thế giới ra
làm ba kiểu loại.
Kiểu thực dân
Quốc gia quán quân “kiểu thực dân” là quốc gia thực
hành “chủ nghĩa đế quốc thực dân”; các nước này thông qua sự chiếm đóng quân sự
mà tiến hành trực tiếp thống trị, biến các nước yếu thành thuộc địa của mình,
xây dựng đại đế quốc thực dân. Mấy nước lớn trỗi dậy thời kỳ đầu đều thuộc loại
quốc gia quán quân “kiểu thực dân”, gồm có Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh. Dựa vào
logic kẻ cướp “phát hiện thì chiếm lĩnh”, họ thực hành sự xâm chiếm bằng vũ lực,
xây dựng nên những đế quốc thực dân khổng lồ.
Năm 1549, các thuộc địa ở châu Mỹ của Tây Ban Nha
chiều Bắc Nam dài tổng cộng tới hơn 10 nghìn kilômet, trải rộng trên 67 độ
kinh, tổng diện tích lên tới 25 triệu kilômet vuông.
Hà Lan thế kỷ XVII không những là một nước lớn về
thương mại mà còn là một cường quốc thực dân. Hoạt động thực dân của Hà Lan chủ
yếu tiến hành thông qua hai công ty Đông và Tây Ấn Độ[1]. Phạm vi thực dân của
công ty Đông Ấn chủ yếu ở châu Á. Phạm
vi thực dân của công ty Tây Ấn là ở châu Phi và châu Mỹ. Diện tích các thuộc địa
do hai công ty này xây dựng ở hải ngoại lớn gấp 60 lần chính quốc Hà Lan.
[1] Công ty Ấn Độ
Đông và Tây: ở đây tác giả muốn nói về công ty Ấn Độ Đông và Tây của Hà Lan (xin
chớ nhầm với công ty Ấn Độ của Anh). Công ty Ấn Độ Đông của Hà Lan, tên tiếng
Anh Dutch East India Company (tên đầy đủ là Dutch United East India Com.), tiếng
Hà Lan Vereenig de Oostindische Compagnie, viết tắt VOC, lập 1602, giải tán
1799, là công ty tư nhân lớn nhất thế giới đương thời, có tính chất một nhà nước.
Công ty có quân đội riêng gồm 10 nghìn lính đánh thuê, đội thương thuyền vũ
trang 150 tàu, đội chiến thuyền 40 tàu,
có cả nhà máy đóng tàu; cổ tức của công ty cao tới 40%. Công ty này năm 1624
phát hiện và lập thương cảng tại Mỹ, đặt tên là New Amsterdam, 1664 Anh chiếm
quyền kiểm soát cảng này và đặt tên là New York. Công ty Ấn Độ Tây của Hà Lan
(Dutch West India Com. Lập 1621, là 1 chi nhánh của Công ty Ấn Độ Đông) là công
ty tư nhân mạnh nhất, hiệu quả nhất thế giới xưa nay (hơn cả Microsoft, IBM, GM
thời nay) lợi nhuận cao tới 200-300% (ngày nay công ty có lợi nhuận cao nhất là
20-30%).
Anh Quốc là “đế quốc thực dân” với mục tiêu là chiếm
lĩnh thế giới trong thời kỳ bành trướng tư bản. Các thuộc địa bị Đại Anh đế quốc
xâm chiếm rộng tới hơn 30 triệu kilômet vuông, lớn gấp hơn 100 lần diện tích
chính quốc, chiếm chừng 1/4 diện tích toàn bộ lục địa trên trái đất, số dân gần
400 triệu, gấp 9 lần số dân chính quốc. Trong 50 năm từ 1815 -1865, nước Anh đã
tiến hành mở rộng và khai triển các thuộc địa của họ trên phạm vi thế giới với
tốc độ bình quân mỗi năm 100 nghìn kilômet vuông, xây dựng nên một “đế quốc Mặt
Trời không lặn”, cũng xây dựng một hệ thống thương mại quốc tế phục vụ lợi ích
của “đế quốc Mặt Trời không lặn” này. Các thuộc địa đó một mặt cung cấp nhiều
nguyên liệu quý cho nước Anh, mặt khác cũng cung cấp kênh tiêu thụ ở nước ngoài
cho các sản phẩm do nước Anh chế tạo. Tại nước Anh dần dần hình thành một “tam
giác lành tính” gồm thuộc địa hải ngoại, thương mại quốc tế, và lực lượng hải
quân hùng mạnh. Nước Anh trở thành một thế giới thuộc địa, thế giới buôn bán.
Anh Quốc dùng hạm đội để hộ tống tàu buôn và kiểm soát thế giới. Năm 1865 nhà
kinh tế Anh W. Stanley Jevons mô tả: “Những đồng bằng ở Bắc Mỹ và nước Nga là
nơi trồng ngô của chúng ta, Canada và biển Baltic là khu rừng của chúng ta,
châu Úc có những bãi chăn gia súc của chúng ta; Peru cho chúng ta bạc trắng,
vàng của Nam Phi và Australia chảy về London; người Ấn Độ và người Trung Quốc
trồng trà cho chúng ta; cà phê, mía và hương liệu của chúng ta trồng khắp quần
đảo Đông Ấn Độ. Bông của chúng ta lâu nay trồng tại miền Nam nước Mỹ, hiện nay
đang mở rộng đến tất cả mọi vùng ấm áp trên trái đất”.
Kiểu bá quyền
Quốc gia quán quân “kiểu bá quyền” là quốc gia không
coi chiếm đất và thôn tính đất đai nước khác là mục tiêu, mà thông qua sự dẫn dắt
và kiểm soát thế giới để thực hiện lợi ích bá quyền của mình. Nếu nói quốc gia
quán quân “kiểu thực dân” thuộc loại “kẻ cướp dã man” thế thì quốc gia quán
quân “kiểu bá quyền” thuộc loại “kẻ cướp văn minh”. Hai kẻ cướp ấy tuy có khác
nhau nhưng đều thuộc hàng kẻ cướp. Nước Mỹ là một tiêu bản của quốc gia quán
quân “kiểu bá quyền”. Chuyên gia lịch sử ngoại giao Mỹ Khổng Hoa Nhuận[2] viết
trong “Lịch sử mối quan hệ đối ngoại Mỹ Cambridge” như sau: “Từ năm 1776 trở đi
người Mỹ luôn luôn xây dựng một bộ chế độ của mình nhằm thích ứng với nhu cầu tự
thân không ngừng biến đổi của họ. Đúng thế, họ tranh giành quyền lực thế giới với
người châu Âu. Chẳng khác gì người châu Âu, họ không thắng nổi tham vọng giành
quyền lực thế giới, thậm chí cả sự thối nát của quyền lực đó. Đó cũng là sự thực.
Người Philippines, người Cuba, người Trung Quốc và người Trung Mỹ có đầy đủ lý
do để cho rằng Mỹ chẳng khác gì các nước đế quốc khác, đây cũng là sự thực.
[2] Khổng Hoa
Nhuận: tên chữ Hán của Warren Cohen, người Mỹ, tác giả cuốn The Cambridge
History of American Foreign Relations.
Thế nhưng khác với các nước lớn khác, nước Mỹ có một
đại lục lớn để sinh sôi nẩy nở và khai thác, nó không vì thừa dân mà khát khao
chiếm thuộc địa, cũng không vì thiếu nguyên vật liệu mà thèm khát có những lãnh
địa bảo hộ rộng lớn, đồng thời cũng không cần (như nước Nga) khát khao chiếm
lĩnh những vùng đất rộng để làm đường đi tới các cảng biển mới xây dựng nhằm tạo
dựng một hệ thống vận chuyển quan trọng”. “Nước Mỹ không muốn tham gia hàng ngũ
của người châu Âu và người Nhật Bản tìm kiếm lãnh thổ và trở thành đế quốc thực
dân. Các quan chức Mỹ chỉ muốn giành được những mảnh đất phân tán, diện tích
tương đối nhỏ để dùng làm cơ sở bành trướng thương mại cần thiết. Khi sáng tạo
và đánh giá thành tích công nghiệp, người Mỹ cũng không muốn bắt chước người
châu Âu, không muốn dùng tiêu chuẩn của người châu Âu hoặc người Nhật... Xét về
mặt sáng tạo cái mới và xây dựng quy chế, những người lãnh đạo tổ hợp công ty
kiểu Mỹ vượt xa các đối thủ nước ngoài. Mối quan hệ giữa các tổ hợp đó với
chính quyền và các yêu cầu chính sách ngoại giao họ nêu ra với các quan chức
nhà nước cũng khác hẳn các đối thủ của họ”. “Nghe nói nước Mỹ là quốc gia dân tộc
đầu tiên của thế kỷ XX. Đổi mới khoa học, dây chuyền công nghiệp hợp lý hóa và
toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia, quyền lực chính trị tập quyền hóa với cơ sở
là hệ thống thông tin hiện đại, chủ nghĩa can thiệp quân sự, chủ nghĩa dân tộc
cuồng nhiệt, chủ nghĩa chủng tộc cực đoan và cuộc cách mạng có ý nghĩa sâu xa -
tất cả những cái đó đã cùng tạo dựng nên tiến trình phát triển của thế kỷ XX”.
Đoạn viết nói trên đã trình bày các đặc điểm nước Mỹ không dùng thủ đoạn thực
dân để tạo dựng bá quyền.
Cho dù trong thời đại chiến tranh và cách mạng hay
là trong thời đại hòa bình và phát triển, nước Mỹ bao giờ cũng là một “đế quốc
bá quyền” lấy việc kiểm soát thế giới làm mục tiêu. Bá quyền Mỹ thể hiện trên
các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa.
Sau Đại chiến thế giới lần II, nước Mỹ xuất hiện với
tư cách lãnh tụ chống chiến tranh phát xít của thế giới, có cái vốn chính trị
to lớn, chủ đạo việc cấu trúc và xây dựng cơ chế quốc tế: xây dựng cơ chế an
ninh tập thể của Liên Hợp Quốc, xác lập địa vị chủ đạo trong nền chính trị quốc
tế, xây dựng Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, xác lập hệ thống tài
chính thế giới lấy đồng USD làm hạt nhân; xây dựng hệ thống thương mại tự do quốc
tế lấy cơ sở là hiệp định thuế quan thương mại; thực hành chiến lược ngăn chặn,
đề xuất chủ nghĩa Truman, kế hoạch Marshall, xây dựng Tổ chức Công ước Đại Tây
Dương NATO.
Mỹ là nước đề xướng, kiến tạo Liên Hợp Quốc và là
nhà tài trợ lớn nhất cho Liên Hợp Quốc, cũng là nước hưởng lợi lớn nhất từ Liên
Hợp Quốc. Mỹ luôn luôn thông qua việc thực hành bá quyền chế độ và bá quyền quyền
lực để thực hiện lợi ích quốc gia của họ. Mỹ từng gọi Liên Hợp Quốc là “chính
trị bạo tàn của đa số” và dựa theo nguyên tắc nước lớn nhất trí để thiết kế,
xây dựng, lãnh đạo và kiểm soát tổ chức
quốc tế quan trọng nhất thế giới này - Liên Hợp Quốc. Trong các hoạt động thời
kỳ đầu của Liên Hợp Quốc, Mỹ kiểm soát và chi phối đa số ổn định trong Liên Hợp
Quốc, thông qua cỗ máy biểu quyết này biến ý chí và nguyện vọng của họ thành
hành động. Trong thời gian 1946 - 1953, đại hội Liên Hợp Quốc thông qua hơn 800
nghị quyết, tỷ lệ thành công của Mỹ là 97%, bất kỳ vấn đề an ninh quan trọng
nào có liên quan tới Mỹ đều chưa bị thất bại. Mỹ còn là nước ủng hộ và lập nên
nhiều tổ chức có tính khu vực. Cái gọi là nguyên tắc nước lớn nhất trí, thực chất
là nguyên tắc nhất trí với Mỹ.
Tổng giá trị sản lượng công nghiệp của Mỹ sau chiến
tranh thế giới lần thứ hai chiếm hơn một nửa tổng sản lượng của toàn thế giới;
Mỹ cho quân đội đến đóng tại 50 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Nước Mỹ
dùng phương thức của họ để chủ đạo trật tự quốc tế. Mỹ và Liên Xô tiến hành cuộc
chiến tranh lạnh kéo dài gần nửa thế kỷ với nội dung là tranh giành bá quyền thế
giới. Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, cuối cùng Mỹ xác lập được địa vị bá
quyền của mình, hơn nữa còn thực hành chủ nghĩa đơn phương, liên tục nhiều lần
phát động chiến tranh, khoe khoang vũ lực trước toàn thế giới.
Một biểu hiện quan trọng của bá quyền Mỹ là muốn
dùng mô hình Mỹ để cải tạo thế giới, muốn mở rộng dân chủ kiểu Mỹ trên toàn thế
giới, muốn tiến hành Mỹ hóa toàn thế giới. Đây là sự mất dân chủ lớn nhất của
bá quyền Mỹ trong mối quan hệ quốc tế, là sự chuyên chế và độc tài của bá quyền
Mỹ.
Kiểu dẫn dắt
Quốc gia quán quân “kiểu dẫn dắt” là loại quốc gia
quán quân không dùng thủ đoạn chinh phục để xây dựng nền văn minh, không thông
qua bá quyền thế giới và phương pháp chinh phục để thực hiện lợi ích quốc gia của
mình. Hiện nay Trung Quốc còn chưa phải là quốc gia quán quân, song Trung Quốc
- quốc gia quán quân tương lai này khẳng định sẽ là một quốc gia quán quân “kiểu
dẫn dắt”.
Sử gia nổi tiếng người Mỹ Brooks Adams cho rằng các
nền văn minh vĩ đại đều được xây dựng bằng phương pháp chinh phục, trung tâm cổ
xúy văn minh thế giới chính là Mỹ chứ không phải ai khác, Mỹ nên nắm cơ hội để
bành trướng ra bên ngoài, nhất là bành trướng về phía châu Á và vùng Thái Bình
Dương, thực hiện ưu thế kinh tế của Mỹ trong phạm vi thế giới. Trên thực tế đây
là một “Thuyết bành trướng có lý”, “Thuyết chinh phục có lý”, “Thuyết bá quyền
có lý”. Trước hết, nền văn minh chủ nghĩa tư bản phương Tây được tạo dựng bằng
phương pháp chinh phục, nhưng điều này không thể chứng minh tất cả mọi nền văn
minh vĩ đại xưa nay đều được xây dựng bằng phương pháp chinh phục. Nền văn minh
Trung Hoa được xây dựng không phải bằng phương pháp chinh phục. Thứ hai, nếu
nói các nền văn minh vĩ đại đều được xây dựng bằng phương pháp chinh phục, thế
thì phương pháp chinh phục cũng trở thành thứ cùng tồn vong với nền văn minh,
không có chinh phục thì không có văn minh, không cần chinh phục là không cần
văn minh, chinh phục cũng trở thành một phần của văn minh. Điều này rất rõ ràng
là thứ logic của kẻ cướp. Thứ ba, một số nền văn minh vĩ đại trong quá khứ được
xây dựng bằng phương pháp chinh phục, điều đó không có nghĩa là các nền văn
minh sau này cũng đều phải được xây dựng bằng phương pháp chinh phục. Nền văn
minh trong tương lai sẽ là nền văn minh không cần dùng phương pháp chinh phục để
tạo dựng. Trung Quốc sẽ sáng tạo một kiểu nền văn minh có tính phi chinh phục.
Chừng nào nền văn minh của nhân loại còn cần thông qua chinh phục để tạo dựng
nên thì loại văn minh ấy là nền văn minh làm bạn với dã man, không phải là nền
văn minh thực sự cao cấp. Dùng phương pháp phi chinh phục để sáng tạo một loại
văn minh phi chinh phục - đó là trách nhiệm của Trung Quốc, là yêu cầu mà tiến
trình phát triển văn minh thế giới và những người yêu chuộng hòa bình, phát triển
và văn minh trên thế giới đặt ra với Trung Quốc, là cống hiến mà người Trung Quốc
cần đóng góp cho văn minh thế giới. Cũng chỉ có truyền thống văn minh Trung Quốc
và nền tảng văn minh Trung Quốc mới có thể gánh vác nổi nhiệm vụ nặng nề nâng cấp
đổi đời văn minh thế giới như vậy.
Những quốc gia quán quân trước nước Mỹ (kể cả Mỹ),
không nước nào không có tính hai mang: một mặt thuộc vào quốc gia quán quân dẫn
đầu ngọn trào phát triển thế giới và có quốc lực tổng hợp thứ nhất, mặt khác lại
là quốc gia bá quyền sử dụng thủ đoạn chiếm lĩnh và chinh phục để thống trị hoặc
kiểm soát người khác, xưng bá thế giới, áp chế những người bất đồng chính kiến.
Nhưng quốc gia nhất thế giới mà Trung Quốc cần theo đuổi, quốc gia quán quân mà
Trung Quốc cần tranh thủ trở thành lại là một loại quốc gia quán quân kiểu hoàn
toàn mới, chưa từng có trong lịch sử thế giới.
Brzezinski từng nói: “Xét về lâu dài, nền chính trị
toàn cầu nhất định sẽ trở nên ngày càng không tương thích với tình trạng một quốc
gia độc đoán nắm sức mạnh bá quyền. Cho nên nước Mỹ không những là siêu cường
thực sự có tính toàn cầu đầu tiên và duy nhất, mà rất có thể cũng là siêu cường
cuối cùng”. Nhìn từ xu thế phát triển của cộng đồng xã hội và thế giới loài người
cũng thấy nước Mỹ sẽ là quốc gia bá quyền cuối cùng trên trái đất này, thế giới
sau đây sẽ không thể xuất hiện một quốc gia bá quyền mới. Trong cuộc đua phát
triển tiến bộ quốc gia hết vòng này đến vòng khác, bao giờ cũng sẽ xuất hiện
tân quốc gia quán quân dẫn đầu thế giới, đã không thể không có quốc gia quán
quân, cũng chẳng thể có tình trạng một quốc gia mãi mãi độc quyền chiếm ngôi quán
quân. Cho nên sự chấm dứt quốc gia bá quyền không đồng nghĩa với sự chấm dứt quốc
gia quán quân. Trung Quốc không làm quốc gia bá quyền, điều đó không có nghĩa
là không làm quốc gia quán quân. Xét từ góc độ thế giới, quốc gia quán quân kiểu
thực dân đã kết thúc từ lâu, quốc gia quán quân kiểu bá quyền cũng sẽ chấm dứt,
nhưng quốc gia quán quân kiểu thứ ba, tức quốc gia quán quân kiểu dẫn dắt của
Trung Quốc, là quốc gia quán quân kiểu mới, tính chất căn bản của nó không phải
là tranh bá thế giới và xưng bá thế giới, mà là tranh thủ tiến lên phía trước
và dẫn đầu thế giới.
Giá trị của “quốc gia quán quân”
Dù ở thời đại nào, dù là quốc gia quán quân kiểu loại
nào, các quốc gia quán quân đều có những đóng góp trên nhiều mặt cho lịch sử.
Quốc gia quán quân có bảy giá trị như sau: Thúc đẩy nền văn minh có bước tiến mới
Trong lịch sử thế giới cận đại, mỗi lần xuất hiện một
tân quốc gia quán quân bao giờ cũng đem lại cho thế giới một làn gió mới, thúc
đẩy xã hội loài người tiến sang một giai đoạn lịch sử mới, mang lại cho nền văn
minh trái đất một đợt khai hóa và tiến hóa, đem lại tin tốt lành cho loài người.
Tuy rằng quốc gia quán quân kiểu thực dân và quốc gia quán quân kiểu bá quyền
cũng đem lại tai nạn và bất hạnh cho cộng đồng quốc tế, nhưng không thể vì thế
mà phủ định công trạng mà các quốc gia đó đóng góp cho việc xây dựng cộng đồng
quốc tế.
Khi đóng góp của một quốc gia đối với thế giới không
thể tiếp tục xếp hạng thứ nhất thế giới thì quốc gia đó cũng không thể tiếp tục
duy trì vị trí quốc gia quán quân thế giới, nó phải nhường chiếc mũ quốc gia
quán quân cho nước khác, tuy rằng có khi sự chuyển tiếp quốc gia quán quân cũ mới
phải thực hiện bằng chiến tranh.