Hoa Tư dẫn - Phần IV - Chương 1 - Phần 1
Phần
4: Trọn đời bình an
Trong
khoảnh khắc bị trường kiếm của chàng đâm vào ngực, tôi đã nghĩ người này là phu
quân tôi, tôi chỉ muốn cùng chàng sống trọn đời bình an.
Chương 1
Ngày
hôm sau chúng tôi rời Bối Trung, Chấp Túc đi theo còn được, nhưng Bách Lý Tấn một
mực đòi đi theo thì quả rất thú vị.
Tôi
và Quân Vỹ dự định giữa đường tìm cách bỏ rơi Chấp Túc và đám ảnh vệ, cho nên biện
pháp cuối cùng nghĩ ra là để Bách Lý Tấn đeo mặt nạ đóng giả tôi, còn tôi đeo mặt
nạ đóng giả anh ta, ra khỏi Bối Trung đoàn sẽ chia làm hai ngả, Bách Lý Tấn đưa
Chấp Túc, Tiểu Hoàng và đám hộ vệ tìm một lý do nào đó đi về hướng bắc, về hướng
bắc, lại tiếp về hướng bắc, còn tôi và Quân Vỹ cưỡi ngựa truy phong đi Hạo thành,
kinh đô Trần quốc gặp Quân sư phụ.
Lúc
đầu Bách Lý Tấn phản đối rất dữ, nhưng ngoài anh ta chỉ có cách để Tiểu Hoàng đóng
giả tôi, nếu vậy quả là quá khó.
Chuyện
hành thích Trần vương tôi đã suy nghĩ rất nhiều, làm người phải giữ chữ tín, tôi
được Quân sư phụ tái sinh trở lại nhân gian, sau khi chết vẫn có thể viên tròn ước
nguyện mà suốt cả cuộc đời trước luôn day dứt tiếc nuối, cho nên bất luận thế nào
cũng không thể nuốt lời, cho nên nhất định phải hành thích Trần vương.
Nhưng
Mộ Ngôn là tướng quân Trần quốc, tôi biết, từ thượng cổ lương tướng trung thần có
người trung thành với xã tắc, có người trung thành với quân vương, nhưng quả thực
không thể đoán Mộ Ngôn thuộc loại nào, không dám hình dung chàng sẽ thế nào nếu
biết tôi sẽ giết quân vương của chàng.
Ở
đời có khi chuyện càng đơn giản càng khiến người ta đau đầu. Bất luận suy tính thế
nào, đều khẳng định là thật thà chỉ có đường chết, muốn vẹn toàn cả hai, chuyện
này chỉ có thể giấu Mộ Ngôn. Tôi nghĩ chỉ cần hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng này
là đời này tôi không nợ ai nữa, từ đó có thể theo chàng suốt đời đến tận chân trời
góc bể.
Trên
đường một lần nữa nghe tin thừa tướng Khương quốc Bùi Ý bị giết, dư luận xôn xao,
cơ hồ thiên hạ đều cho rằng chuyện do Triệu quốc gây ra, bàn tán rất nhiều, rằng
Triệu vương bản tính nham hiểm, hành xử hà khắc. Trước giết Tô Dự, sau giết Bùi
Ý, lòng lang dạ sói, tôi chứng rành rành.
Những
lời đồn đó từ đâu ra đại khái có thể đoán được, Bùi Ý thực ra là bị Công Nghi Huân
giết, Công Nghi Phỉ nói đó vốn là nhiệm vụ của chàng ta, tất cả đều vì Trần quốc,
xem ra Tô Dự bắt đầu báo thù.
Ngày
trước Khương vu cho Triệu giết Tô Dự, lúc này Trần giết Khương thừa tướng, lại tung
ra tin đồn như vậy nhất định khiến Khương rối loạn, dễ cho rằng đó là đòn báo thù
của Triệu, đâu có ngờ người đứng sau âm mưu này lại chính là Trần quốc từng được
thiên tử phong thưởng.
Mộ
Ngôn đi Triệu chuyến này có lẽ là phụng mật lệnh của Tô Dự liên minh với Triệu vương,
chắc chắn sẽ tiết lộ với Triệu vương chuyện Khương vu oan cho Triệu, từ đó xúi bẩy
Triệu gây chiến với Khương, có lẽ không lâu nữa, chiến tranh Triệu, Khương sẽ khai
hỏa.
Theo
tôi, chọc vào người khó chọc còn nguy hiểm hơn yêu người không nên yêu, Bùi Ý cả
gan chọc vào Tô Dự, quả nhiên bị mất mạng.
Thế
tử Tô Dự của Trần quốc, con người luôn khiến thiên hạ xoay như chong chóng, đằng
sau tiếng thơm nhân hậu hiền đức che giấu bao thủ đoạn hiểm ác, vậy mà trên thiên
tử dưới lê dân, ai cũng cho là thanh liêm chính trực, trượng nghĩa, thủ tín, đóng
kịch giỏi như vậy quả thật là bậc quân vương bẩm sinh, Vệ quốc bị diệt dưới tay
anh ta tôi tâm phục khẩu phục.
Nhưng
nói vậy thôi, lúc đó Vệ đã hủ bại đến thế, bị diệt bởi tay ai tôi cũng tâm phục
khẩu phục.
Phóng
ngựa đi hai ngày đường, qua bao nhiêu cảnh vật làng quê, cuối cùng đến Hạo thành.
Ngoại thành có sông bao quanh, rộng mười trượng, hai bên bờ trồng liễu, mùa hè nắng
gắt liễu soi mình tỏa bóng xuống sông, thỉnh thoảng có tiếng ve trong lá. Một tòa
thành thơ mộng như vậy, đâu đâu cũng một cảnh tượng du nhàn, trên đường phố thỉnh
thoảng lại thấy những công tử nhà giàu phóng đãng tay cầm lồng chim dẫn theo vài
ba nô tài đùa giỡn trêu chọc con gái nhà lành.
Quân
Vỹ rất không tán đồng, cho rằng nhất định chúng tôi đi sai phương hướng, làm gì
có vương thành nào phóng túng như vậy, thực ra có lẽ anh ta chưa từng trải. Hạo
thành vương đô Trần quốc, một trong những vương đô phồn thịnh nhất đông lục, nói
trắng ra là người ta thế này là che mắt thiên hạ, sức mạnh ẩn dưới vẻ phù hoa hào
nhoáng bên ngoài, trông càng phong lưu phóng đãng, ý chí càng kiên định khó lay.
Quân
Vỹ nói đùa, nói vậy nghĩa là nơi ý chí kiên định khó lay nhất Đại Triều có lẽ là
kỹ viện. Tôi lại thấy biết đâu đấy, anh ta sao biết không phải thế?
Quân
sư phụ chờ chúng tôi ở Tứ Hải lâu, lữ quán lớn nhất Hạo thành, sư phụ cho rằng ở
nơi hỗn tạp, rồng rắn chen nhau như vậy mới dễ che mắt thiên hạ.
Chúng
tôi được biết, thì ra động tĩnh mới của Trần vương thất chỉ là lễ mừng thọ Trần
vương, lúc đó bá quan vào cung chúc tụng, tương đối dễ trà trộn vào, nhưng rút cục
Quân sư phụ định bố trí thế nào, tôi và Quân Vỹ cũng chưa biết, chỉ đoán đây chính
là nguyên do sư phụ từ núi Quân Vũ cách xa ngàn dặm đích thân lặn lội đến đây.
Đang
đêm Quân sư phụ gọi tôi và Quân Vỹ đến phòng, vốn tưởng bàn chuyện cơ mật gì, không
ngờ sư phụ dùng dao rạch nhẹ ngón tay tôi, thản nhiên uống mấy giọt máu của tôi
pha với nước trà lạnh, giống như Tống Ngưng đã làm ngày trước.
Không
biết sư phụ định làm gì, tôi và Quân Vỹ băn khoăn nhìn nhau, đột nhiên nghe thấy
sư phụ hỏi: “Lai lịch Hoa Tư dẫn thế nào, chắc hai con đã nghe nói?”. Thấy tôi và
Quân Vỹ lắc đầu, sư phụ hơi ngừng lại, bỏ chiếc cốc trong tay xuống, chậm rãi giải
thích: “Viên giao châu được phong ấn Hoa Tư dẫn thế gian chỉ có độc nhất một viên,
không phải là thánh vật gì của Quân Vũ giáo, mà là di vật của sư phụ ta để lại cho
ta. Sư phụ của ta có lẽ hai con cũng từng nghe, mang họ kép Mộ Dung, tên là An”.
Tôi
sững người. Mộ Dung An. Đã sớm nghe danh sư xuất cao đồ, cao nhân như Quân sư phụ
mặc dù từng nghĩ sư phụ của ông ắt phải là bậc cao nhân, nhưng nghĩ trăm lần cũng
không thể nghĩ ra lại chính là Mộ Dung An.
Cái
tên đã trở thành truyền kỳ, phàm những người liên quan đến bí thuật không ai không
biết. Một trong những bí thuật sĩ cao minh nhất đông lục, có một tư dung siêu phàm
trác việt vượt hết thảy thế gian, sư phụ Huệ Nhất tiên sinh của tôi đã từng vinh
hạnh được gặp, ca tụng là nhan sắc tuyệt thế.
Ngồi
lặng mãi mới cất lên lời, tôi kinh ngạc hỏi: “Nghe đồn Mộ Dung An chết hai mươi
năm trước trong trận chiến Lịch Khâu giữa hai nước Khương - Trần, không biết năm
đó có phải Mộ Dung An bị Trần hầu hãm hại?”.
Ông
nhắm mắt, rất lâu sau, giọng mơ hồ vang lên: “Trần hầu Tô Hoành là sư đệ của ta”.
Tôi lại lần nữa chấn động.
Trong
đêm thu bóng nguyệt chan chứa, Quân sư phụ để cho chúng tôi nhìn thấy Hoa Tư điệu
của ông, nói về quá vãng đã chôn vùi hơn hai mươi năm trước, cũng là nguyên nhân
ông nhất quyết hành thích Trần vương.
Giọng
ông khe khẽ, vang lên trong ánh nến yếu ớt: “Chuyện năm xưa sư phụ chưa bao giờ
nói với ta, người biết chuyện chỉ cảm thấy Tô Hoành còn trẻ tuổi, sư phụ ta đã sai,
nhưng họ quên mất một điều, sư phụ là một vong hồn, không quan tâm đến đạo đức nhân
luân, còn Tô Hoành năm xưa tuy tuổi còn trẻ nhưng chưa chắc trong lòng đã không
hiểu rõ, ta không tin định mệnh, nhưng rất nhiều năm sau hồi tưởng lại cũng không
khỏi cảm thấy, gặp Tô Hoành có lẽ là hung mệnh của sư phụ ta...”.
Trong
tiếng nhạc trầm trầm, từng cảnh trong câu chuyện Quân sư phụ vừa nói tới hiện ra
trước mắt tôi, chuyện bắt đầu từ một đêm giữa hạ hai mươi nhăm năm trước.
Tôi
nhìn thấy một rừng phong lụi tàn, trăng sáng treo trên trời cao, tỏa ánh rạng ngời.
Nhưng rừng phong dưới ánh trăng lại đượm màu chết chóc yêu ma, tháng sáu vốn là
mùa lá phong nảy nở tươi xanh, nhưng ở đây tất cả đều thân khô cành héo, lá úa vàng
lay lắt trên cành, có gió thổi lại không thấy rung lay.
Cả
khu rừng im lìm như chết, không tiếng chim, không tiếng côn trùng, không có hơi
thở của sự sống.
Tôi
đang nghi ngờ trước mắt là bức tranh hay là cảnh thực, bỗng thấy một thiếu niên
áo đen cưỡi tuấn mã màu đen phi như bay vào rừng phong chết chóc, vó ngựa đạp xào
xạo trên lớp lớp lá khô tích tụ, quạ đêm không biết từ đâu kêu oang oác, vỗ cánh
rào rào như lá rụng.
Tiếng
vó ngựa rầm rập vang lên phía sau chàng thiếu niên, tiếng vó ngựa dồn dập truy bức
gần tới nơi, mấy mũi tên vút qua lá phong cắm vào thân cây, con tuấn mã của chàng
thiếu niên đột nhiên giương vó hí vang một tiếng, có lẽ bị trúng tên. Tôi nhìn mà
sởn da gà, cảm thấy thiếu niên bị truy đuổi cùng đường, chắc chắn phải chết, trong
rừng bất chợt vang lên tiếng lục lạc vang lên.
Tiếng
vó ngựa phi gấp, tiếng tên lao vun vút, tiếng lục lạc đều đều, cảnh tượng trước
mắt không thể dùng từ quái dị để hình dung. Càng quái dị hơn là, cùng với tiếng
lục lạc mỗi lúc càng rõ càng tiến càng gần, rừng phong tàn im lặng như chết trong
chớp mắt như được hồi sinh, như một bức tranh thủy mặc trải ra, rễ đâm tua tủa bên
dưới đám lá mục, trên cành nảy chồi xanh, cảnh tiêu điều từ từ chìm xuống, cả rừng
phong lập tức sống lại tràn trề sinh khí.
Sương
mù từ mặt đất bốc lên, lẩn khuất trong lá cây, tầng không vang vọng tiếng cười,
một cái bóng màu đỏ thoáng vút trong sương mù, nhanh đến không kịp nhận ra, chỉ
có tiếng lục lạc vang vọng, tiếng ngựa hí, tiếng người kêu thảm loạn trong màn sương,
lát sau tất cả đã yên tĩnh không một tiếng động. Sương mù tan dần, một thiếu nữ
áo đỏ lộng lẫy tay cầm trường kiếm đứng trên cành phong, xung quanh hàng đàn bướm
đỏ bay dập dờn.
Thiếu
niên áo đen lặng lẽ ngồi trên lưng ngựa, hơi ngửa mặt nhìn ân nhân cứu mạng, dưới
ánh trăng, đôi đồng tử đen in bóng áo đỏ tuyệt sắc, cặp mày thanh tú, đôi mắt hạnh
đào, trên trán in hình con bướm đỏ giương cánh. Mái tóc đen thướt tha trong gió,
dưới gấu váy đỏ lộ ra đôi chân trần trắng như tuyết, trên cổ chân nhỏ nhắn đeo chuỗi
lắc bạc sáng loáng.
Kiếm
trong tay vẫn nhỏ máu, cô không bận tâm, nghiêng đầu liếc qua những xác chết ngổn
ngang trên mặt đất, ánh mắt dừng lại trên đôi mắt đẹp của thiếu niên đang lặng lẽ
nhìn mình: “Ngươi là ai? Tại sao lại đến đây?”.
Khóe
mắt hơi nhếch lên, tươi cười, lời nói ra lại lạnh như băng: “Lẽ nào ngươi không
biết, tự tiện xông vào rừng lá đỏ Phương Sơn ắt phải chết?”.
Thiếu
niên thúc ngựa tiến lên hai bước, ánh mắt liếc qua gót chân trần của cô, thần sắc
vẫn bình tĩnh và nghiêm túc, nhưng lại thốt ra những lời chẳng liên quan: “Cho dù
là đêm mùa hạ, trong núi vẫn đầy hàn khí, cô nương đi chân trần thế này, e sẽ bị
cảm lạnh”.
Bướm
đỏ quanh cô gái đã bay mất từ lúc nào, trường kiếm nhỏ máu lúc nãy cũng không thấy
đâu, tiếng lục lạc lại vang lên trong không trung, gót hồng đã đậu trên đầu tuấn
mã chàng thiếu niên đang cưỡi, nhưng tuấn mã chàng thiếu niên cưỡi vẫn đứng yên.
Cô
hơi cúi xuống, tay phải nâng cằm chàng thiếu niên: “Ngươi không sợ chút nào ư?”.
Chàng
hơi ngẩng đầu, sắc mặt không biểu lộ tình cảm nhìn cô: “Tại sao ta phải sợ?”.
Cô
ngây ra một lúc đột nhiên bật cười: “Thật là một thiếu niên thú vị, ngươi nói thế
khiến ta không muốn giết ngươi nữa”.
Chàng
trai thấy mình được an toàn vẫn không đổi sắc mặt, ánh mắt một lần nữa liếc qua
gót chân trần của cô: “Cô không đi giày”.
Cô
nghiêng đầu: “Thế thì sao?”.
Ánh
trăng chiếu lên khuôn mặt nghiêm trang hơi lạnh của chàng thiếu niên, giọng nói
nhẹ như tuyết bay gió thoảng, chàng ta nhìn cô: “Trông cô thế này, cô định đi đâu?”,
hơi dừng lại: “Để tôi đưa cô về nhà”.
Thiếu
niên thúc ngựa phóng về phía tay cô vừa chỉ, rừng phong phía sau chớp mắt lại trở
về cảnh tượng chết chóc ban đầu. Vó ngựa vừa vút qua, một thiếu niên áo xanh từ
sau cây phong chỗ cô gái vừa đứng ló ra, tay cầm đôi giày lụa màu đỏ thêu chỉ trắng,
khẽ thở dài, nhìn kỹ tôi nhận ra đó chính là Quân sư phụ lúc tuổi đôi mươi.
Thời
gian vụt trôi, thì ra cô gái áo đỏ đó chính là Mộ Dung An, còn thiếu niên áo đen
chắc là Trần vương Tô Hoành thuở thiếu niên. Chăm chú xem cảnh đó, hai mươi tư năm
trước Tô Hoành mười sáu tuổi, đúng rồi, lúc đó ông ta vẫn chưa là Trần vương, mà
là công tử Hoành của Trần quốc.
Nghe
nói tự cổ chí kim, phàm những trang giai nhân tuyệt sắc tình trường đều trắc trở,
nhưng Mộ Dung An mà sử sách ghi chép cơ hồ không bị vướng vào oan nghiệt đó, trái
lại chính những trang nam nhi gặp cô, đường tình ai nấy đều trở nên truân chuyên,
trắc trở.
Trong
số đó người nghĩ quẩn nhất phải kể đến tứ công tử Trang Kế của Hạ quốc. Không nhớ
rõ bộ dã sử nào ghi chép, nói Trang Kế muốn cưới Mộ Dung An, sự không thành, đành
ôm hận mà chết, mẫu thân chàng muốn xin Mộ Dung An một món tóc để táng theo chàng,
nhưng vị công tử đã chết vì mình là ai Mộ Dung An cũng không biết.
Sử
sách chỉ dừng ở đó, vốn tưởng chỉ là truyền thuyết dân gian không đáng tin, lúc
này thông qua Hoa Tư điệu của Quân sư phụ mới thấy hóa ra chuyện có thật.
Ba
tháng sau khi công tử Trang Kế qua đời, Mộ Dung An xuất hiện ở lầu xanh lớn nhất
Hạo thành, mỗi ngày đều tiếp hai vị khách, khách lên lầu thù tạc họa thơ thưởng
nguyệt không cần ngàn kim vạn bạc, nhưng nhất thiết phải kể cho cô nghe một câu
chuyện tình. Bởi vong hồn trở lại trần thế đương nhiên không hiểu thế thái nhân
luân, điều đó nói lên cái chết của công tử Trang Kế đã làm cô xúc động, ít nhất
cũng khiến cô bắt đầu hiểu chữ tình rốt cuộc là gì?
Nhưng
tình duyên của Mộ Dung An và Tô Hoành một khi đã bén không gì ngăn được, có ai ngờ,
một con người lãnh đạm kiêu ngạo như Tô Hoành lại đến lầu xanh, gọi đích danh Mộ
Dung An, mặc dù lầu chủ nói rõ, cô gái này hơi đặc biệt, không bán thân không bán
nghệ, cô đến nơi này thuần túy chỉ vì muốn kiểm nghiệm khổ ải của nhân sinh...
Mộ Dung An trí nhớ không tốt. Theo những gì tôi
nhìn thấy thì khi Tô Hoành vén rèm bước vào mặc dù dung quang chẳng khác lần gặp
ban đầu, ngoài không cưỡi tuấn mã đen, thậm chí xiêm áo cũng giống hệt đêm đó, nhưng
cô ngẩn người không nhận ra chàng, vẫn ung dung co gối ngồi trên ghế quý phi, thần
thái khoan thai, không nhìn khách thêm một lần: “Đêm nay chàng đến là để kể chuyện
cho ta? Chàng mang đến câu chuyện thế nào?”.
Tô
Hoành ngồi đối diện với cô: “Nàng muốn ta kể chuyện gì?”.
Mắt
cô vẫn nhìn đi nơi khác: “Ta biết một chàng công tử yêu một cô gái, mắc bệnh tương
tư mà chết, câu chuyện của chàng liệu có ly kỳ như thế?”.
Chàng
để cốc trà bằng gốm xuống bàn: “Chuyện đó có gì ly kỳ, chẳng qua là một người yếu
đuối, vì không được thỏa mãn tham vọng, chết bất đắc kỳ tử mà thôi”.
Cô
ngẩn người, cuối cùng quay lại nhìn chàng: “Vậy chàng đến đây không phải để kể chuyện
ư?”.
Chàng
nhìn qua cửa sổ, một khuôn mặt nhìn nghiêng vô cùng tuấn tú, thong thả nói: “Nàng
nói đúng, ta xưa nay không biết kể chuyện. Chỉ là hai tháng trước ta không cẩn thận
xông vào một khu rừng phong, được một cô gái áo đỏ cứu mạng, về sau khi chia tay,
ta không thể nào tìm thấy nàng. Ta đến đây để hỏi có lẽ nàng biết cô gái ta cần
tìm ở đâu?”.
Mắt
cô lộ vẻ mơ màng, chăm chú nhìn chàng một lát, nhếch môi cười: “Là chàng sao?”.
Chàng
không nói.
Cô
hơi nghiêng đầu, như hồ nghi, tôi không nhận ra động tác của cô, khi định thần đã
thấy cô chân trần đứng trước mặt chàng, giống như lần đầu họ gặp nhau, cô cúi xuống
nhìn chàng, trước khi mở miệng còn giả bộ suy nghĩ nghiêm túc: “Chàng tìm ta...
chàng tìm ta... là muốn gì?”.
Chàng
bình tĩnh ngẩng đầu: “Nàng nói xem?”.
Nhìn
cô hình như băn khoăn thật, chàng chậm rãi nói: “Một người đàn ông trăm phương ngàn
kế tìm một cô gái, ngoài muốn có được cô ấy, còn có thể vì cái gì?”.
Cô
như giật mình: “Có được cô ấy? Chàng định làm gì để có được cô ấy?”.
Nụ
cười tinh nghịch dâng lên trong mắt chàng: “Cho nên ta đến thỉnh giáo nàng, phải
làm thế nào để có được cô ấy”.
Cô
quả thật sững ra một lát, lát sau, cuối cùng hiểu ra chàng định nói gì, nụ cười
hiện dần trong mắt: “Thật thú vị!”.
Dưới
ánh đèn, con bướm đỏ trên trán lạnh lẽo yêu mị, ánh mắt cô dừng lại trên bàn tay
thanh tú của chàng: “Nếu chàng đánh bại cô ấy, đương nhiên sẽ có được cô ấy. Còn
nếu không đánh bại cô ấy, thì dựa vào cái gì, để có được cô ấy đây?”.
Tôi
thầm nghĩ, thôi rồi, lại một cuộc đấu võ kén chồng. Nhưng cái gọi là đấu võ chẳng
qua cũng chỉ là chinh phục và bị chinh phục. Thực ra, tại sao nhất thiết phải lấy
người chinh phục mình, lấy người mình chinh phục cũng tốt chứ sao, như vậy nếu xảy
ra bạo lực gia đình mình cũng không đến nỗi rơi vào thế hạ phong.
Nhưng
rõ ràng Mộ Dung An không nghĩ thế, có lẽ chỉ là một cách thoái thác, cô vốn không
muốn lấy ai, chắc chắn những lời từ chối đó chính là nguyên nhân mấy người đàn ông
không thể có được cô, như công tử Trang Kế, bởi không ai có thể thắng cô.
Đêm
hôm đó Tô Hoành không nói gì ra về, cũng không rút kiếm thử với cô vài chiêu. Nhìn
bóng chàng rời đi, Mộ Dung An thản nhiên giơ tay vuốt trán, môi lạnh lùng cười khẩy
một tiếng, có lẽ cô cho rằng công tử Hoành của Trần quốc thực ra cũng chỉ thế mà
thôi.
Mộ
Dung An là người thế nào, cả đông lục không ai tường tận, trước đây tôi chỉ biết
qua những truyền thuyết thiên hạ truyền tụng về cô, các vệ đạo sĩ(*) cho rằng may
mà cô quá siêu phàm khó bắt chước, nếu không đã có vô khối nam thanh nữ tú sùng
bái cô mà đi lệch đường.
(*) Vệ đạo sĩ là từ dùng để chỉ một
số người vì bảo vệ một niềm tin, một sự nghiệp hoặc một chế độ nào đó mà viết ra
những bài diễn thuyết hay văn bản mang tính bảo thủ, cố chấp. Họ luôn kiên trì với
một vài nguyên tắc và quan điểm của mình. Đặc biệt là chỉ những người bảo vệ hệ
thống tác phẩm của Cơ đốc giáo.
Bây
giờ nhìn thấy việc làm của cô, cảm thấy mối lo của các vệ đạo sĩ là thừa.
Quân
sư phụ nói gặp Tô Hoành là hung mệnh của Mộ Dung An nhưng xem đến đây cảm thấy tất
cả đều trái ngược.
Mộ
Dung An thần thái ung dung, người đắm đuối mê muội lại là Tô Hoành. Thì ra vốn tưởng
hai người sẽ âm thầm nảy sinh tình cảm do tình sư phụ, đệ tử sớm tối bên nhau, bây
giờ xem ra giả thiết đó đã bị lung lay.
Nửa
năm sau Tô Hoành trở thành đệ tử của Mộ Dung An. Một ân nhân của Mộ Dung An đưa
Tô Hoành đến rừng lá đỏ Phương Sơn bái sư, nói rõ muốn học kiếm thuật của Mộ Dung
An.
Tôi
không biết chuyện này rốt cuộc là do Tô Hoành cố ý bày ra hay là duyên phận. Quân
sư phụ lại không nói, nhưng lần thứ ba gặp lại, nhìn thấy Tô Hoành xuất hiện trong
rừng lá đỏ, Mộ Dung An rõ ràng sững người, lát sau mỉm cười: “Lại là ngươi”.
Cô
vốn là một hồn ma sinh ra từ sát khí ngưng tụ trên chiến trường cổ, bao nhiêu năm
nhân sự như phù vân lướt qua trước mắt, rất ít người khiến cô nhớ được, nhưng cô
lại nhớ được Tô Hoành, không chỉ nhớ chàng, xem ra còn nhớ những lời chàng nói đêm
đó.
Dưới
vầng trăng tròn, Mộ Dung An vẫn tư thái ung dung đứng dưới một cây phong khô héo,
hứng thú nhìn đệ tử mới nhập môn trước mặt: “Mặc dù có câu ‘băng vốn từ nước mà
thành nhưng lạnh hơn nước, xanh vốn từ lam nhưng đậm hơn lam’, ngươi không nghĩ
chỉ cần bái ta làm thầy là sẽ có ngày thắng được ta đấy chứ?”.
Thiếu
niên áo chùng đen đi lướt qua cô, đến chỗ sâu trong rừng phong, bóng đổ dài dưới
trăng, giọng nói thanh lạnh tản trong gió: “Sư phụ nghĩ nhiều rồi”. Kính cẩn tới
mức có vẻ như trước nay chàng ta chỉ coi cô là sư phụ, con người ngang nhiên hỏi
cô làm thế nào để có được cô nửa năm trước cơ hồ chưa từng tồn tại trên thế gian.
Trên
Phương Sơn, sau khu rừng lá đỏ kỳ dị đó có một thiên động, có sơn thủy bốn mùa xanh
tươi, có cổ thụ um tùm râm mát, một ngôi lầu trúc thấp thoáng dưới bóng cây, chính
là nơi ở của Mộ Dung An.
Từ
khi bái sư, Tô Hoành cư xử đất đúng đạo, hành vi nghiêm cẩn, đối với Mộ Dung An
rất mực lễ độ, ngoài ăn ngủ, hầu như chỉ chuyên tâm luyện kiếm pháp, như một đồ
đệ tôn sư trọng đạo, say mê kiếm thuật, tư chất thông minh lại chuyên cần nỗ lực.
Tôi
nghi ngờ có lúc Mộ Dung An như đang thăm dò Tô Hoành, có lẽ cô không biết thiếu
niên đó nghĩ gì, hoặc là thái độ một người tại sao trước sau lại khác xa như vậy.
Trước đây tôi có nghe Quân Vỹ kể một câu chuyện, cũng là sư phụ và đệ tử, kể rằng
một buổi tối, đệ tử luyện kiếm trở về nhìn thấy sư phụ nằm ngủ dưới bóng cây, đệ
tử không thể kìm lòng đã mạo phạm sư phụ, sau đó bắt đầu một mối tình nồng nàn dai
dẳng.
Nhưng
rõ ràng Tô Hoành kìm chế hơn nhiều so với đệ tử đó, có một thời gian Mộ Dung An
ngày nào cũng ngủ trưa ở trong khu rừng chàng luyện kiếm, còn đặc biệt cho đặt một
chiếc giường mây ở chỗ chàng thường ngồi nghỉ khi luyện tập mỏi mệt, chàng lại bỏ
đi chỗ khác như một người có giáo dưỡng, không hề có biểu hiện bất kính nào đối
với sư phụ.
Nhưng
càng như thế Mộ Dung An dường như càng hiếu kỳ. Lúc đầu khi Tô Hoành mới bái sư
chỉ thỉnh thoảng cô mới xuất hiện, đa phần là lúc Tô Hoành gặp khó khăn, thong thả
đưa vài câu chỉ giáo đại loại: “Muốn chiêu thức nhanh hơn mắt của mình, thì không
nên nhìn bằng mắt”. Những câu người bình thường nghe không hiểu hoặc nghe rồi cũng
không biết nên làm theo thế nào.
Về
sau lại hầu như ngày nào cũng tập với Tô Hoành, chỉ dẫn kiếm pháp cẩn thận hơn trước
nhiều, thỉnh thoảng hứng lên lại cầm kiếm thử vài chiêu với chàng, nhưng cũng chỉ
dừng ở mức hướng dẫn đồ đệ vận dụng kiếm pháp tốt hơn mà thôi, còn đọ sức chính
thức chưa bao giờ xảy ra.