Hoa Tư dẫn - Phần III - Chương 3 - Phần 2
Trên
khắp Đại Triều, đây là một đôi uyên ương quan hệ phát triển nhanh chóng nhất sau
lần gặp đầu tiên mà tôi từng thấy, không hiểu tiếng sét ái tình là thế nào, làm
sao biết người mình cần là người này chứ không phải người kia, không phải một người
khác, lời hứa lúc này về sau quên hết? Tôi có ý nghĩ như vậy, chủ yếu là nhớ tới
người vợ chính thức của Công Nghi Phỉ tám năm sau chính là Công Nghi San, con gái
của nhị thúc chàng. Đã biết kết cục như vậy, cuộc cầu thân này sao có thể thuận
buồm xuôi gió?
Nhưng
bất luận thế nào, mười ngày cũng trôi qua rất nhanh.
Sáng
sớm hôm đó, xung quanh chiếc đài cao tế thần của Khanh gia ở Vĩnh An tụ tập rất
đông các bậc công tử thế gia trong thiên hạ, Khanh Tửu Tửu toàn thân áo trắng giản
dị, mặt dửng dưng đứng trên đài cao trước một đỉnh hương lớn bốc khói.
Những
chàng công tử bên dưới tế đàn có người đến đây vì tài sản của Khanh gia, có người
vì nhan sắc của cô, duy nhất một người đến vì cô. Nhưng khi cô tìm thấy chàng trong
đám đông chàng lại không tỏ vẻ vui mừng, trái lại tay chống vào trán, đôi môi đỏ
chỉ khẽ mấp máy, mệt mỏi nhắm mắt như bị kiệt sức. Cầm sư bên cạnh bắt đầu tấu nhạc.
Tôi nghe rất rõ, cô nói: “Vẫn đến sao?”.
Đồng
thời tôi sực nhớ đến một tin đồn từ mấy năm trước, rằng họ Khanh ở Trần quốc có
một thiên kim có tài múa nức tiếng thiên hạ, thầm nghĩ chắc là Khanh Tửu Tửu này.
Chỉ là về sau không nghe thấy tin tức gì về tài nhảy múa của cô, cho nên thiên hạ
không bị chấn động hơn nữa, nhưng ca khúc phối với điệu múa của cô gọi là “Thanh
hoa huyền tưởng” một thời rất nổi tiếng, ngay đến một vùng hẻo lánh như núi Quân
Vũ thỉnh thoảng cũng nghe thấy người ta ngân nga vài câu, có thể thấy nó vô cùng
thịnh hành.
Điều
bất ngờ là ca khúc được đồn thổi thần kỳ đó thực ra cũng bình thường, cơ hồ chỉ
hơn các ca khúc của ca kỹ đệ nhất Đại Triều chút đỉnh, chỉ có vậy mà đã chấn động
thiên hạ, có thể thấy thiên hạ quá dễ chấn động.
Càng
bất ngờ hơn đó là hôn sự của hai người lại không hề gặp trở ngại, tất cả các thủ
tục rườm ra như vấn danh, ăn hỏi, đều được giản lược loại bỏ, lập tức định ngày
thành hôn, thuận lợi đến mức khó tưởng tượng. Nhưng tôi biết kết cục của câu chuyện,
kết cục là Khanh Tửu Tửu chết.
Điểm
lại một lượt, tôi cơ hồ ngửi thấy hơi hướng của âm mưu nào đó, nhưng do bản tính
tương đối thuần khiết, lại cho chẳng qua do mình hay nghĩ lung tung.
Mặc
dù ngày thành hôn đã định vào tháng sau, nhưng đêm đó, Công Nghi Phỉ không về ngay
Bối Trung để chuẩn bị. Tôi từng đọc một cuốn tiểu thuyết của Quân Vỹ, kể về một
vị công tử phong lưu, đang đêm khuya nhảy tường vào hậu viên của ý trung nhân, hái
một cành mai trắng để trước cửa sổ phòng cô. Nhưng không ngờ hái phải cành dị mai,
khiến ý trung nhân ngủ suốt ngàn đêm.
Khi
nhìn thấy bóng áo trắng của Công Nghi Phỉ vọt qua tường cao nhảy vào hoa viên của
Khanh gia, giơ tay hái một bó phong linh thảo(*) màu tím trên tường, tôi cảm thấy
hôm nay đã gặp được một độc giả nhiệt thành của Quân Vỹ.
Đáng
tiếc người trong lòng Công Nghi công tử không ốm yếu như cô gái trong truyện đó,
đâu ngủ sớm như vậy. Dưới một gốc cây to trong hoa viên, đại tiểu thư Khanh gia
đang một mình tập múa, giọng rất lạnh, ca từ đúng là ca khúc “Thanh hoa huyền tưởng”,
nhưng nghe khang khác.
Đột
nhiên cô cảm giác phía sau có người nhìn, khi quay lại, con dao nhỏ kẹp giữa hai
ngón tay tức thì phi ra, lúc nhìn rõ là Công Nghi Phỉ, con dao đã ở cách chàng ba
thốn(**), một cái né người rất đẹp, con dao sượt qua tóc, cô tái mặt, ngẩng đầu
nhìn chàng: “Chàng làm gì ở đây?”.
(*) Phong linh thảo hay còn gọi là hoa
chuông, một họ thực vật trong bộ cúc, chủ yếu là cây thân cỏ, không độc.
(**) Đơn vị đo chiều dài của Trung Quốc,
một thốn xấp xỉ bằng 3,3 cm.
Công
Nghi Phỉ tư phong ngời ngời đứng trên bờ tường, trong tay là bó phong linh thảo
vừa hái, chỉ bị bay mất mấy sợi tóc: “Còn nàng đang làm gì?”. Hơi cúi xuống nhìn
cô, “Ca khúc nàng hát dường như là ca khúc hôm nay ta trình lên nhạc phụ”. Ngừng
lại, bổ sung thêm, “Đừng nói với ta nàng không biết ca khúc đó do ai soạn”.
Vừa
nói vừa nhảy từ trên tường xuống, cẩn thận cài bông phong linh thảo lên tóc cô,
càng làm nổi bật mái tóc đen dài óng mượt của cô. Cô ngẩng đầu nhìn chàng, mắt long
lanh, nhưng chỉ thoáng qua, tay chàng đặt lên vai cô, cô nghiêng đầu nhìn cảnh sắc
trong vườn, “Do chàng soạn thì sao? Cha lại chọn khúc này, trình độ thưởng thức
của cha quả đã giảm sút rồi”.
Chàng
cười càng tươi, cúi đầu ghé sát tai cô: “Thế đêm khuya nàng hát ca khúc kém cỏi
của ta, rồi biên ra điệu múa phối hợp với nó, rồi tập múa một mình, rốt cuộc nàng
đang đợi ai?”.
Cô
hơi cau mày: “Chẳng đợi ai hết”.
Chàng
lẩm bẩm: “Thì ra đúng là điệu múa soạn riêng cho ca khúc này...”.
Cô
ngây người, mặt lạnh lùng tỏ ra phẫn nộ, quay người định bỏ đi, bị chàng kéo lại,
ngược ánh trăng nhìn ra, trong ánh sáng mờ mờ là một khuôn mặt dịu dàng thâm tình:
“Ta muốn xem nàng múa, Tửu Tửu. Sáng nay là múa cho bọn họ xem, đêm nay ta muốn
nàng múa cho mình ta xem”.
Những
lời tình tứ thẳng thắn như thế có thể sẽ khiến các cô gái bình thường khó xử, nhưng
Khanh Tửu Tửu không phải là cô gái bình thường, trên mặt không hề có vẻ ngượng ngùng,
trái lại nhìn chàng đăm đăm, cất giọng thanh thanh: “Chàng nói phải, thiếp tập múa
nhiều năm như vậy là muốn múa cho chàng xem, quả thực thiếp đang đợi chàng đến”.
Tôi
cảm thấy mỗi lần Công Nghi Phỉ trêu chọc Khanh Tửu Tửu mục đích là muốn cô trêu
chọc lại. Một cô gái như thế, trí tuệ tuyệt đối không kém ai, ngay cách trêu đùa
cũng thật thông minh thú vị.
Những
lời tình tứ thẳng thắn đó được cất lên bởi một giọng thanh lạnh như vậy, giống như
băng tuyết tan khi xuân về, róc rách chảy ra từ khe núi, nghe thật sảng khoái dễ
chịu.
Ngọn
lửa cháy dần trong mắt Công Nghi Phỉ, nhưng cô không nhận ra, thản nhiên nhìn chàng:
“Sau đêm nay thiếp sẽ không múa khúc này nữa”. Cô nhìn sâu vào mắt chàng, “Thực
ra thiếp không hề thích nhảy múa. Những động múa này nhờ chàng nhớ giúp”.
Âm
nhạc quen thuộc vang lên, rất nhiều chỗ khác, nhưng càng dạt dào viên mãn, nhạc
điệu cơ bản vẫn là khúc “Thanh hoa huyền tưởng”, nhưng lúc này lại nhìn thấy một
vũ điệu khác hẳn ban ngày.
Thân
hình mảnh mai của Khanh Tửu Tửu khẽ uốn mềm như sóng, tựa như có ba ngàn sợi tơ
phiền muộn vấn vít gót chân, tựa bị mười trượng hồng trần mềm mại trói chặt, những
ngón tay lại như nở đóa hoa xuân, đây mới là vũ điệu xứng với bốn chữ “danh chấn
thiên hạ”. Những ngón tay thanh tú của Công Nghi Phỉ không ngừng lướt trên dây đàn,
mắt mơ màng phiêu lãng. Âm điệu cuối cùng, cô dừng trước mặt chàng, trán lấm tấm
mồ hôi, khuôn mặt vốn trắng như tuyết giờ ửng hồng. Cô hơi ngẩng đầu nhìn chàng:
“Đây là một đêm vui nhất của thiếp, sau này nhớ lại cũng sẽ rất vui”.
Chàng
cười đứng lên, vuốt tóc cô, mũi chạm vào nhánh hoa phong linh thảo trên tóc cô:
“Đêm vui nhất phải là đêm nàng thành hôn với ta”.
Tôi
đắm chìm trong vũ khúc “Thanh hoa huyền tưởng” đó, mãi không thoát ra được, cảm
thấy đây là điệu múa có hồn duy nhất tôi từng xem. Từ nhỏ sư phụ dạy tôi mỗi môn
nghệ thuật đều có linh hồn, nghệ không có linh hồn, nhưng nghệ thuật có linh hồn.
Hỏi
tôi hiểu được gì từ câu nói này, tôi nghĩ hồi lâu, có thể hiểu nôm na tương tự như
mỹ (cái đẹp) không có linh hồn, mỹ thuật mới có linh hồn. Tôi quyết định sau này
sẽ phát triển con đường mỹ thuật này của sư phụ và kiên quyết theo đuổi đến cùng.
Sư phụ tặng tôi tám chữ “Học hải vô nhai, hồi đầu thị ngạn” tức là sự học là vô
bờ bến, quay đầu lại ắt là bờ thôi.
Một
tháng trước hôn lễ, họ luôn bên nhau. Lúc này ngoài xã hội đang thịnh hành ca khúc
“Trăng bên hiên”, nghe đồn đó là do Công Nghi Phỉ sáng tác trong lúc chếnh choáng
hơi men để tặng vị hôn thê của mình: “Trước hiên lạnh bóng cây lồng bóng nguyệt,
hoa rụng đầy theo gió cuốn về đâu...”, được thanh niên nam nữ truyền nhau hát.
Tôi
cảm thấy yêu nhau hà tất cứ phải ngồi ngoài hiên, nếu thật sự thích một người, người
đó ở đâu, thiên đường ở đó, đừng nói ngắm sao, cho dù trong bóng tối dựa vào nhau
cũng hạnh phúc... nhưng lập tức lại phát hiện so sánh như vậy không đúng lắm, so
với ngắm sao đàn ông đương nhiên càng thích ngồi dựa vào cô gái trong bóng tối hơn.
Thực
ra tôi vẫn đang chờ đợi, chờ đợi câu chuyện này lao thẳng xuống vực như xe ngựa
đứt dây cương. Bởi vì kết quả đã biết là thảm khốc, quá trình càng suôn sẻ chỉ càng
khiến người ta thêm hồi hộp thót tim.
May
mà một tháng cũng không lâu, đoạn ký ức này giống như tia sáng vụt qua trước mặt.
Chiếc
xe ngựa mất phanh cuối cùng dừng lại trước đêm thành thân, những chuyện không nên
xảy ra lại lặng lẽ xảy ra như định mệnh.
Khi
Công Nghi Phỉ toàn thân áo chùng tân lang đỏ chói, miệng mỉm cười ngũ quan rạng
rỡ lật khăn trùm đỏ của tân nương, đúng lúc đó thần định mệnh trước nay vẫn ngủ
gật đột nhiên mở mắt.
Dưới
mũ phượng ánh vàng lóng lánh, Khanh Tửu Tửu làn da trắng như tuyết, tóc không vấn,
mặt không trang điểm, hơi nghiêng đầu không biết nghĩ gì. Ánh nến đột ngột chiếu
vào mắt, cô giơ tay, nhắm mắt cơ hồ như vô thức, Công Nghi Phỉ bật cười, đưa chén
rượu hợp cẩn đến trước mặt cô: “Mặc dù trước nay ta vẫn yêu vẻ tố nhã thanh đạm
của nàng, nhưng nàng cũng không nên vì muốn chiều ý ta mà ngay ngày thành hôn cũng
trang điểm giản dị như vậy”.
Cô
ngây người nhìn cốc rượu trước mặt, mắt dần dần trở nên hốt hoảng, lát sau không
trả lời câu hỏi của chàng, mà lại gọi tên chàng: “A Phỉ”.
Cô
hơi ngẩng đầu, lạnh băng nhìn vào đôi mắt tươi cười của chàng, “Đệ định uống rượu
hợp cẩn này với chị ruột của mình sao?”.
Cặp
nến long phượng đốt trên cao đúng lúc bùng ra một nắm hỏa tinh, chiếc cốc bạc trong
tay Công Nghi Phỉ dừng lại trên không, trên trời đột nhiên bùng nổ một tiếng sấm
kinh hoàng, thời gian ngưng lại trong tiếng sấm đó, chỉ có những ngọn nến vẫn cháy
rừng rực. Công Nghi Phỉ vẫn cầm chiếc cốc bạc nghiêng người để lên bàn trà, định
giơ tay buông bức rèm màu trắng trước giường.
Giọng
cô căng thẳng, như níu giữ tay chàng: “Đệ còn nhớ mình có một người chị song sinh,
tôi cũng chưa quên trên đời có một tiểu đệ cùng huyết thống. A Phỉ, thực ra chính
đệ cũng thấy lạ, tại sao trông tôi giống đệ hơn là giống Khanh Ninh, đúng không?”.
Cô chờ chàng từ từ ngoảnh lại, “Bởi vì Khanh Ninh không phải là tiểu đệ của tôi,
đệ mới là tiểu đệ của tôi. Chúng ta cùng huyết thống, là hai người cốt nhục gần
gũi nhất trên thế gian”.
Trong
ánh nến hồng, sắc mặt Công Nghi Phỉ trắng dần, khóe miệng vẫn nở nụ cười dịu dàng:
“Tửu Tửu, nàng mệt rồi”.
Cô
nhìn sâu vào mắt Công Nghi Phỉ, từ từ nhắm mắt như quá mệt mỏi: “Tại sao đệ không
tin?”.
Chàng
không nói.
Cô
đứng dậy rời khỏi giường tân hôn, giày mềm bằng tơ đỏ giẫm lên chiếc bậc hình mặt
trời để trước giường: “Ngôi trưởng tộc của Công Nghi gia không dung thứ song sinh,
mười tám năm trước, tôi là kẻ bị vứt bỏ, thập tử nhất sinh sống lại chính là để
hôm nay lấy lại những gì thuộc về mình. Tình cờ gặp gỡ, múa kén chồng, từ đầu đến
cuối tất cả đều được sắp đặt”. Hai người cách nhau không đầy ba bước, cô dừng lại
nhìn thẳng vào chàng, “Chiếc gậy hình đầu rắn màu đỏ khảm hoa phật tang tượng trưng
cho quyền lực của gia tộc Công Nghi do hai mảnh ghép lại, vợ chồng trưởng tộc mỗi
người giữ một nửa. Đệ xem, ngoài lấy đệ, không nghĩ ra cách nào tốt hơn để tôi đường
hoàng quang minh trở về Công Nghi gia, đường hoàng lấy lại những gì thuộc về tôi”.
Không
gian như xẻ làm hai nửa, một nửa trôi chầm chậm, một nửa dừng lại, trong nửa dừng
lại đó, sắc mặt Công Nghi Phỉ càng trắng bệch, cơ hồ không thể giả bộ cười được
nữa.
Những
lời đó sắc tựa dao, hơn nữa mỗi nhát đều là đòn chí mạng, phụt máu tươi, nhưng cô
nhìn thần sắc trắng bợt như bị mất máu quá nhiều của chàng, giọng lại vẫn bình tĩnh
như không: “Tôi đã biết đệ từ trước, từ trước khi đệ nhìn thấy tôi, hôm đó tôi cố
tình đợi đệ ở núi Cô Trúc, cố tình đánh rơi chiếc vòng ngọc, đệ tưởng tất cả là
ý trời, nhưng ý trời lại chỉ là để chúng ta vừa sinh ra đã gánh chịu số mệnh bi
thảm này”.
Công
Nghi Phỉ sững người nhìn cô, đôi mắt hoa đào trong như nước mùa thu sóng sánh, giờ
đây hoa đào không còn, nước mùa thu cũng cạn. Ngũ quan tuấn mỹ ngày xưa giờ đã mất
vẻ phong lưu, trắng nhợt, nhưng vẫn cười một tiếng, nhìn vào khoảng không: “Ta vẫn
nhớ, lúc đó nàng nói với ta, nàng không biết bơi, nếu ta không cứu, nàng sẽ chết”.
Thần
sắc nhàn nhạt, cô nói: “Khi đó lừa đệ thôi”.
Chàng
dừng một lát, lại tiếp: “Khúc ‘Thanh hoa huyền tưởng’ đó, nàng nói là tập đã lâu,
đang chờ ta đến, muốn múa cho ta xem”.
Cô
vẫn lạnh lùng: “Đó cũng lừa là đệ”.
Chàng
như không nghe thấy: “Đêm đó nàng nói đó là đêm vui nhất của nàng, sau này nhớ lại
cũng sẽ...”.
Cô
ngắt lời: “Tất cả đều là lừa đệ”, dừng một lát, trầm tư nhìn chàng, “Bộ dạng đệ
thế này là đang hận vì mắc lừa tôi sao? Tôi đã cho đệ cơ hội, nhưng đệ lại bỏ qua”.
Đứng
đối diện với nhau như vậy, chàng cao hơn cô một cái đầu, trông rất giống một đôi
Kim Đồng Ngọc Nữ. Chàng hơi nhướn mi, mày hơi cau, lại không nói gì. Cô nghiêm nghị
nhìn chàng một lát, bất chợt cau mày: “Cho phép tôi đoán thử, phải chăng là đệ thích
tôi thật?”.
Chàng
ngẩng phắt đầu.
Cô
nhìn thẳng vào mắt chàng: “Tôi nói đúng không?”.
Chàng
nhếch mép: “Nàng nói xem?”.
Cô
lạnh lùng nhìn chàng: “Buồn nôn”.
Câu
này nhất định làm tổn thương Công Nghi Phỉ, dưới ánh nến, mắt chàng thâm trầm như
biển, môi không sắc máu, lát sau bật cười một tiếng, một tay kéo cô ngã vào trong
tấm chăn lớn màu đỏ.
Lại
một tiếng sấm rền, khiến bức rèm châu trước giường rung lên, cũng lóng lánh như
bức rèm châu treo trước sơn môn núi Cô Trúc. Tay chàng chống bên cạnh mái tóc buông
xõa của cô, cúi nhìn cô, đôi môi không sắc máu nhếch lên đường cong theo thói quen,
áp gần miệng cô: “Đêm xuân một khắc ngàn vàng, trước đây ta đã nghĩ câu nói này
quá tục, định trong đêm tân hôn sẽ nói với nàng những lời hay hơn, đêm nay, bỗng
nhiên cảm thấy những ý nghĩ đó thật nực cười, Tửu Tửu, những điều nàng nói, nàng
tưởng là ta sẽ tin sao?”.
Tôi
nghĩ chắc cô không ngờ đột nhiên bị chàng đẩy ngã, đến nỗi mãi không phản ứng được
gì. Thầm nghĩ, Khanh Tửu Tửu thân thủ cao cường, cũng rất có thể một tay đẩy Công
Nghi Phỉ đè lên người mình ra, đánh cho một trận, nếu vậy, cuộc động phòng này quả
thật sẽ vô cùng thú vị.
Nhưng
đợi mãi, không thấy cô ra tay, chỉ bình tĩnh nhìn lên đỉnh màn. Môi chàng áp gần
má cô, cũng không thấy có hành động nào tiếp. Nói không tin là một chuyện, nhưng
tôi nghĩ, chung quy chàng ta vẫn để bụng những điều cô nói, nếu không đã không bị
tổn thương như vậy, nếu không đã vượt qua vạn hiểm hoàn tất đêm động phòng. Mà cái
gọi là vạn hiểm đó rõ ràng không thể bao gồm hai người là chị em ruột thịt. Đây
là số mệnh, nếu chưa nghe chưa biết chưa có khả năng phản kháng thì số mệnh chung
quy vẫn là số mệnh.
Bóng
rèm khẽ lay, vẫn là cô lên tiếng phá vỡ bầu không khí yên lặng, thần thái hoàn toàn
bình thản, như thể chàng lúc này không làm bộ thân mật âu yếm áp sát vào cổ cô,
như thể hai người pha một ấm trà lạnh đang trịnh trọng tâm sự: “Từ lúc tôi hiểu
biết đến giờ, lớn lên trong kỹ viện, hai tuổi đã bắt đầu học múa. Kỹ viện không
phải là chốn bình thường, múa đẹp mới có miếng ăn, múa kém là đói bụng. Hai, ba
tuổi còn đỡ bởi ngoài học múa cũng không phải làm gì, nhưng bốn năm tuổi tôi đã
phải giúp bọn a hoàn làm nụng đủ mọi việc, múa không đẹp thì đừng hòng được ăn,
cuộc sống của tôi ngày càng chồng chất mỏi mệt. Hồi đó thường phải làm lụng mọi
việc trong khi bụng đói. Tôi rất ghét múa. Nhưng ngoài múa, múa đẹp, đẹp nữa, không
còn con đường nào khác, khi sáu tuổi tôi đã nghĩ nên tìm một nghề khác để kiếm sống,
không phải bán thân. Khi sáu tuổi, đệ nghĩ gì, A Phỉ?”. Giọng cô vẫn không đổi.
Đây là lần đầu tôi thấy cô nói nhiều như vậy.
Công
Nghi Phỉ không trả lời, cơ hồ cô cũng không bận tâm chàng có trả lời hay không:
“Lúc tôi tám tuổi, cha nuôi mua tôi về, tôi mới hiểu thì ra tôi cũng có cha mẹ,
cha tôi vẫn sống yên lành trên đời, ông ấy có thể nuôi tôi nhưng lại vứt bỏ tôi
vì một tội lỗi tôi không gây ra. Cha nuôi tôi nói, tôi là đại tiểu thư của Công
Nghi gia, khi các trưởng bối quyết định ném tôi xuống dòng Đoan Hà, thì mẹ lén cứu
tôi, nhưng vì vậy bị cha lạnh nhạt, sau đó buồn phiền qua đời. Mẹ giấu tôi ở một
nơi tự cho là an toàn, không ngờ cuối cùng tôi phiêu dạt vào kỹ viện. Người duy
nhất muốn tôi sống trên đời đã ra đi, mẹ của chúng ta, đời tôi chưa một lần được
gặp mặt”. Cô ngừng lại, “Nhưng con gái của công chúa Ung Cẩn sao có thể trở thành
ca kỹ, xem ra có vẻ quá hoang đường, nhưng suýt nữa, nếu cha nuôi không tìm thấy
tôi, chuyện như vậy đã xảy ra. Có lẽ đệ sẽ gặp tôi ở một kỹ viện nào đó, bỏ ra ba
ngàn lẻ năm đồng vàng mua đêm đầu tiên của tôi như mua những cô hoa khôi đó...”.
“Đừng
nói nữa”. Công Nghi Phỉ ngẩng đầu khỏi vai cô, một tay ôm trán, nhắm mắt cười một
tiếng, “Hoặc là để người ta chỉ yêu nàng, hoặc là để người ta chỉ hận nàng, Tửu
Tửu, nàng như thế, thật không hay”.
Cổ
áo cô hơi trễ, thản nhiên nhìn chàng. Tôi không biết cô nói vậy rốt cuộc có nên
coi là quyết làm đến cùng hay không, thực ra không phải là cô không bộc lộ tình
cảm mà là hoàn toàn không có tình cảm. Lát sau, cô nhẹ giọng: “Đệ vẫn không tin
tôi là tỷ tỷ của đệ ư? Phải thế nào đệ mới tin?”.
Lời
vừa dứt đột nhiên tay rút chiếc trâm trên đầu. Chàng vội giơ tay ngăn lại, cán châm
nhọn rạch một vết trên tay chàng, chàng để tay cô vào trong chăn: “Trích máu nhận
người thân? Nàng nói đúng, huyết dịch không đánh lừa ai”. Môi chàng áp gần tai cô,
“Ngộ nhỡ nếu đúng thì sao. Tửu Tửu, ta không tin nàng là chị ta. Nàng mệt rồi, ngủ
đi”.
Ánh
nến kéo dài bóng chàng. Cô nằm trong chăn, chiếc trâm vàng nổi bật trên nền chăn
đỏ tràn ngập bầu không khí tân hôn, nhưng phòng tân hôn đã không còn tiếng người.
Cô chớp mắt, giơ chiếc trâm có dấu máu mờ mờ, nắm chặt trong tay.
Khanh
Tửu Tửu nói cô đến đây vì quyền lực, cô đang nói dối. Nếu chỉ vì quyền lực, có thể
dùng cách khác, không cần đánh đổi bằng hạnh phúc cả đời. Nhưng cô đã lựa chọn lấy
Công Nghi Phỉ, đó là sự điên rồ. Nếu có một thứ có thể khiến người ta điên rồ như
vậy, chỉ có thể là lòng hận thù và ý muốn hủy diệt. Quá yêu và quá hận ở một mức
độ nhất định cũng như nhau, lâu dần biến thành tín ngưỡng, nếu vậy, yêu và hận thực
ra đều mất đi ý nghĩa tự thân của nó.
Lần
đầu tiên tôi cảm thấy, có lẽ họ đúng là chị em. Nếu không, tại sao cô phải đánh
lừa Công Nghi Phỉ như thế?
Đoạn
ký ức tiếp theo chỉ lướt qua, nhưng lại giúp tôi nhìn thấy dấu hiệu lụn bại của
gia tộc Công Nghi. Trưởng tộc mất sớm như vậy, đem cả đại gia sản như thế trao vào
tay Công Nghi Phỉ mới mười hai tuổi, do hai vị thúc thúc phò tá.
Hai
vị thúc thúc đó mỗi vị nắm một phương thế lực, nếu không phải do Công Nghi Phỉ khi
làm lễ kế vị trưởng tộc đã cắt máu tuyên thệ với thần hộ vệ Thiên Hà, có khả năng
sai khiến Thiên Hà, thì hai vị thúc thúc đã sớm đuổi đứa cháu mồ côi khỏi ngôi trưởng
tộc. Cũng may Trần vương đời này hiếm con trai, chỉ có hai trai một gái, mà công
chúa duy nhất đó lại nhỏ tuổi hơn Công Nghi Phỉ quá nhiều, vì thế Công Nghi Phỉ
vốn từ lúc ra đời đã được định sẵn sẽ kết hôn với một công chúa của Trần vương sau
đó mới được tự do hôn nhân, có thể tùy ý lựa chọn hôn thê.
Công
Nghi gia xưa nay hành sự bí hiểm, thông hôn cận huyết mà thiên hạ cho là loạn luân
đối với họ cũng bình thường, hơn nữa có thể thông hôn trong cùng một chi và thông
hôn giữa các chi trong tộc. Hai vị thúc thúc mỗi người có một cô con gái, đều toan
tính muốn gả cho đứa cháu trưởng tộc để củng cố quyền lực.
Nhưng
người tính không bằng trời tính, họ quên là thiên hạ rộng lớn, mỹ nhân không hiếm,
hơn nữa với địa vị gia thế và bản thân con người Công Nghi Phỉ sự lựa chọn dành
cho chàng không phải là một, hai, mà là cả biển người. Vậy là trong khi hai vị thúc
thúc đánh nhau vỡ đầu chảy máu để gả con gái cho đứa cháu, thì đứa cháu đã nhẹ nhàng
rước đại tiểu thư Khanh Tửu Tửu của Vĩnh An Khanh thị vào phủ đệ của gia tộc Công
Nghi.
Cô
gái áo trắng lạnh như băng tạc đến đây để báo thù. Những quyền lực mà hai người
đó tranh giành được xây dựng trên cơ nghiệp bao đời của gia tộc Công Nghi, nếu gia
tộc bị hủy hoại phỏng còn gì để tranh giành. Có lẽ khi đó họ không nghĩ đến điều
này.
Ngoài
đêm tân hôn Công Nghi Phỉ ngủ ở trong thư phòng, hôm sau chàng sai gia nhân chuyển
một cái giường mềm vào tân phòng, coi như quên hẳn chuyện đã xảy ra, đêm đêm ngủ
trên chiếc giường đó.
Cô
coi chàng là tiểu đệ, nhưng chàng chưa bao giờ gọi cô là tỷ tỷ, dường như cô là
chính thê thật sự của chàng, để chàng trân trọng cưng chiều, sủng ái.
Mặc
dù ngày ngày gặp mặt, nhưng thỉnh thoảng lại có gia nhân mang quà đến cho cô, một
con châu chấu kết bằng cỏ lau, một con chim yến cắt bằng giấy vàng, những món đồ
chơi tuy vụn vặt nhưng phải dụng công, tỉ mẩn, cô xưa nay chưa bao giờ đề cập đến
từ này, còn những món đồ chàng gửi cũng vẫn đều đặn đến. Nghe đồn Công Nghi Phỉ
từ đó hay nổi nóng, đường hoa ngõ liễu không còn thấy bóng chàng, các cô gái lầu
xanh thở dài.
Khanh
Tửu Tửu cau mày nhìn chàng: “Trước đây đệ thế nào thì bây giờ thế ấy, thích cô ca
kỹ nào, có thể mời về đây mấy ngày, không cần phải giày vò bản thân”. Chàng cười
khẩy: “Nàng thật khoan dung”.
Khanh
Tửu Tửu muốn làm gì, người ta cũng đoán được ít nhiều. Điều tôi quan tâm nhất trong
câu chuyện này ngoài cô và Công Nghi Phỉ còn có Công Nghi San con gái của nhị thúc
chàng.