Yêu thương và tự do - Chương 01 - 02
Chương 1
CÁC EM BÉ MANG
THEO ĐIỀU GÌ
ĐẾN THẾ GIỚI
NÀY
Có bao nhiêu người tin rằng trẻ sơ sinh đã có tinh thần? Tin
rằng ngay từ khi sinh ra bản thân các em đã ẩn chứa một sức mạnh tinh thần to lớn
và sẽ trưởng thành theo quy luật trưởng thành nội tại của bản thân các em? Trong
một giai đoạn ở một độ tuổi nhất định, trẻ em chỉ thích chơi nước, chơi cát, nếu
như bị người lớn ngăn cản, chúng sẽ phản đối đến cùng. Điều này rốt cuộc có ý nghĩa
như thế nào?
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho
người yêu sách.]
Chúng ta vốn không tin và cũng không biết rằng, ngay từ giây
phút hình thành trong bụng mẹ, bản thân thai nhi đã tồn tại một sức mạnh tinh thần,
sức mạnh ấy sẽ chỉ dẫn bé nên phát triển như thế nào, nên sờ mó khám phá thế giới
bên ngoài ra sao… Montessori(*) gọi đó là “Phôi thai tinh thần”. Dường như điều
này đang yêu cầu chúng ta tin rằng ẩn trong thể xác trẻ sơ sinh đã có tinh thần,
tinh thần ấy phát triển theo sơ đồ đã được vạch sẵn. Trẻ em dường như rất yếu ớt,
nhưng bản thân chúng ẩn chứa một sức mạnh và tiềm năng tinh thần vô cùng to lớn,
đủ sức để phát triển mà không cần người lớn phải thêm vào bất cứ nội dung mới nào,
mà chỉ cần cung cấp cho chúng môi trường và điều kiện phát triển.
(*) Maria Montessori (31/8/1870-6/5/1952) là một bác sĩ và
cũng là một nhà giáo dục nổi tiếng người Ý. Bà nổi tiếng với phương pháp giáo dục
mang tên mình, được sử dụng phổ biến trên toàn thế giới. Montessori chia sự phát
triển con người làm bốn giai đoạn; từ sơ sinh đến 6 tuổi; từ 6-12 tuổi; từ 12-18
tuổi và từ 18-24 tuổi. Mỗi giai đoạn có những đặc trưng không giống nhau và tương
ứng là các phương pháp tiếp cận giáo dục khác nhau cho từng giai đoạn.
Có kinh nghiệm mười năm sống cùng con trẻ, chúng tôi ngày càng
kiên định niềm tin này. Tiếp nhận quan niệm này cũng có nghĩa là trong bản thân
chúng ta đang xảy ra một cuộc cách mạng tư tưởng, bởi vì chúng ta luôn tin rằng
trẻ em dựa vào người lớn để hình thành và phát triển tính cách; tiếp nhận quan niệm
này cũng có nghĩa là chúng ta không có chỗ để phát huy tính tự cao tự đại được sinh
ra từ chính sự tự ti và cảm giác bị kìm nén của mình. Thời kỳ vị thành niên của
con người khá dài, dài hơn thời kỳ tiền trưởng thành của tất cả các loài vật khác.
Nói ngắn thì có thể là từ 0 đến 6 tuổi, nói dài khoảng đến 12 tuổi. 12 tuổi vẫn
chưa thể rời khỏi mẹ, pháp luật quy định tuổi trưởng thành thực sự của một đứa trẻ
là 18 tuổi. Còn trong thời kỳ này, các em vẫn đang ở trạng thái yếu ớt cần đến sự
giúp đỡ của người lớn để trưởng thành. Giúp các em trưởng thành không có nghĩa là
người lớn có quyền nhào nặn tinh thần của các em. Nếu như thế, trình độ của cả nhân
loại sẽ bị hạ thấp. Vấn đề ở đây là, chúng ta đã tự gán cho mình vai trò “Thượng
đế”, “Thượng đế” của con trẻ.
Thời kỳ này trẻ cũng không cần sự “nhồi nhét” của người lớn,
mà cần sự chuẩn bị về điều kiện để tự tiếp thu. Tuân theo quy luật phát triển này,
trẻ sẽ được phát triển hoàn thiện.
Ở nhà trẻ của Montessori, các bé nhỏ nhất là 1,5 tuổi, chúng
tôi đã tiến hành khảo sát trên các bé từ 1,5 tuổi đến 6 tuổi, đưa ra những đồ dùng
học tập có trình độ trí lực vượt quá độ tuổi của các bé, nếu các cô không ép buộc,
không gây áp lực, các bé sẽ chỉ làm theo những gì mà bản thân mách bảo. Ví dụ như
bé thích chơi nước và chơi cát, nếu đưa bé ra khỏi đó, thì cho dù là những đồ chơi
và trò chơi có hấp dẫn đến mấy cũng không thu hút bé, bé chỉ muốn chơi cát với khuôn
mặt vô cùng ngây ngô, giảng giải thế nào vẫn vậy và với nét mặt ấy thì người lớn
còn biết nói gì được nữa. Trẻ em biết mình muốn gì, nếu người lớn ngăn cản, chúng
sẽ kháng cự đến cùng.
Con tôi cũng đã trải qua một quá trình như thế. Khi cháu hơn
hai tuổi, bố cháu mua hai bắp ngô, nói với cháu: “Con một bắp, mẹ con một bắp”.
Cháu đi đến rồi nói: “Bố bảo cho con ăn cả hai bắp ngô này”. Tôi hỏi lại, chồng
tôi nói: “Không phải, em một bắp, con một bắp”. Tôi lại nói: “Bố con nói con một
bắp, mẹ một bắp, chứ đâu phải con ăn hết”. Ý của tôi là con đã nói dối, nhưng con
tôi nghe xong khuôn mặt vẫn không hề thay đổi, cu cậu vẫn đứng yên ở đó suy nghĩ
một phút, rồi lại cứ thế mà bỏ đi. “Sao lại thế nhỉ?”. Thật không hiểu nổi. Nhưng
rồi có một ngày, cu cậu bỗng có cảm giác với những việc mình đã làm sai, khuôn mặt
vô cùng bối rối và xấu hổ, không cho người khác nhắc đến. Điều này không phải do
người lớn dạy dỗ, mà là quy luật phát triển nội tại của trẻ đã đến bước này. Nếu
người lớn không để con trẻ phát triển theo đúng quy luật tự nhiên, mà ra sức áp
đặt, ép buộc chúng sẽ khiến sơ đồ phát triển của con mình bị rối loạn, đánh mất
luôn cả cơ hội thiết lập cảm giác đạo đức đích thực.
Quy luật phát triển thời kỳ đầu của trẻ sơ sinh cũng tương tự
như một số loài động vật khác. Ví dụ như loài bướm, bướm mẹ thường hay đẻ trứng
trên chồi cây, khi bướm non vừa sinh ra phải được ăn loại lá non nhất. Vậy bướm
non làm thế nào để ăn được lá non? Bướm non nhạy cảm nhất với ánh sáng, vì thế khi
vừa sinh ra nó đã bò về phía sáng nhất, phía đó cũng chính là những lá non nhất.
Nhưng đến khi bướm non dần trưởng thành, có thể ăn được lá già hơn thì cũng là lúc
nó không còn nhạy cảm với ánh sáng. Quá trình này tuân theo quy luật phát triển
nội tại của bản thân loài bướm, không chịu khống chế bởi bất cứ lực tác động bên
ngoài nào.
Chúng ta chưa từng lo lắng rằng một đứa trẻ không thể trưởng
thành, nhưng chúng ta lại không tin rằng có những hạt giống tinh thần từng tồn tại
trong nội tâm trẻ, không tin rằng bản thân trẻ cũng có một quá trình trưởng thành
tự nhiên, theo đúng trật tự, và trẻ chỉ cần chúng ta chuẩn bị cho chúng một môi
trường phát triển thích hợp. Trong tinh thần của con trẻ, chúng ta vẫn đang đóng
vai trò - “Đấng tạo hóa”.
Chúng ta hãy xem xem con trẻ làm thế nào để thiết lập quan hệ
hài hòa với môi trường để tự phát triển. Ví dụ như ngôn ngữ, trẻ em của bất cứ quốc
gia và dân tộc nào đều có thể nghe thấy và học được ngôn ngữ của loài người trong
thế giới đầy ắp âm thanh này. Trong ba năm đầu đời, trẻ có thể nắm được những ngôn
ngữ cơ bản của dân tộc mình, học được các chi tiết trong ngôn ngữ đó. Quá trình
phát triển này tuyệt đối không ai kể cả người có chuyên môn cao có thể dạy cho trẻ.
Không khó để chúng ta nhận ra rằng, trẻ em trước 6 tuổi thích nhìn người lớn làm
hơn là nghe người lớn nói. Năng lực ngôn ngữ của trẻ em được hình thành từ quá trình
tương tác với môi trường xung quanh. Thế nên các nhà tâm lý học mới nói, những thứ
mà trẻ học được trong ba năm đầu đời, người lớn cần đến sáu mươi năm nỗ lực mới
có thể hoàn thành. Tại sao chúng ta không suy nghĩ xem điều này là vì sao? Loài
người đã phát hiện ra được bí mật này - TRẺ EM TỰ PHÁT TRIỂN.
Tôi có thể đưa ra một ví dụ ngược lại. Một vị giáo sư tâm lý
học của Đại học Havard sinh được một người con trai, ông đã chuẩn bị mọi thứ để
bồi dưỡng con mình thành thiên tài. Khi đứa trẻ 3, 4 tuổi đã có thể nói được đến
ba, bốn thứ tiếng; 6 tuổi thi vào trung học; 10 tuổi vào học ở Đại học Havard; 16
tuổi làm nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Havard. Từng giây, từng phút nhà tâm
lý học đó liên tục bắt con trai mình “tiếp nhận và tiếp nhận” thêm các tri thức
mới. 18 tuổi, cậu trở thành nhân viên bán hàng tại một cửa hàng ở London nước Anh. Nhưng cậu
không làm gì hết, cậu từ chối mọi “hoạt động mang tính tri thức” và cảm thấy vui
khi làm một nhân viên bán hàng. “Một bồ kiến thức” không hề có tác dụng gì với cậu,
trên thực tế, “tri thức” khiến cậu vô cùng đau khổ. Tôi thấy rằng, nếu con người
chỉ có khối óc mà không có cơ quan cảm giác, rồi biến khối óc trở thành công cụ
phục vụ thế giới này, thì nỗi đau khổ của chúng ta sẽ giảm bớt đi rất nhiều. Nhưng
chúng ta vẫn có cảm giác, tâm lý, tinh thần và tâm hồn, chúng ta phải tìm thấy chính
mình thì mới không đau khổ. Sự phát triển của con người, tinh thần của con người
phải được phát triển từ cảm giác, để cảm giác luôn là người bạn đường của chúng
ta.
Trên thực tế, quá trình trưởng thành của con người là một quá
trình trưởng thành tâm lý chứ không phải quá trình trưởng thành trí lực. Sự trưởng
thành về trí lực phải dựa trên sự trưởng thành về tâm lý.
Nếu chúng ta hiểu được quy luật khoa học trong sự trưởng thành
của con trẻ, để con trẻ phát triển tự nhiên theo quy luật nội tại của phôi thai
tinh thần, chắc chắn con trẻ sẽ trở thành nhân tài. Khi chúng ta phá vỡ quy luật
phát triển tự nhiên của con trẻ, thì cả quá trình phát triển sau đó sẽ lệch lạc,
bao gồm cả trí lực. Vì thế bà Montessori đã nói rằng: “Chúng ta phải trở thành người
đày tớ chứ không phải chủ nhân của tinh thần con trẻ”.
Nhưng hiện giờ, khi chúng ta phân định rạch ròi cái tôi và tri
thức của trẻ, thì cũng có nghĩa là quy luật phát triển tự nhiên của trẻ đang bị
hủy hoại, chúng ta sẽ không thể tìm thấy bí mật nội tại của các con. Suy nghĩ nóng
vội muốn nhồi nhét tri thức cho trẻ đã tự trói chân chúng ta khiến chúng ta có cái
nhìn phiến diện, còn đống rác rưởi của những thứ mang tên kiến thức đã phá hoại
sự phát triển của một con người với sức sống và sức hút nhân cách sẵn có của mình.
Chỉ khi thừa nhận trẻ có phôi thai tinh thần và tin tưởng trẻ, bí mật trưởng thành
của nhân loại mới dần dần hé mở.
Chương 2
BƯỚC ĐẦU NHẬN
BIẾT THẾ GIỚI
“Cảm giác là ngọn nguồn của trí lực”. Một đứa trẻ, một tay cầm
khăn mặt, một tay cầm lược, cháu gặm khăn mặt lại gặm chiếc lược. Chúng ta hiểu
là trẻ đang dùng miệng cảm nhận mềm và cứng. Đáng tiếc là bố mẹ trẻ không hiểu,
không kịp thời nói với cháu hai từ “mềm” và “cứng”; may mắn là họ không giằng khăn
mặt và lược khỏi tay cháu bé.
Quan niệm giáo dục thông thường cho rằng, ấn tượng (một số người
gọi là thông tin) từ bên ngoài tác động tới trẻ, trẻ tiếp nhận ấn tượng hoặc thông
tin đó, lặp đi lặp lại nhiều lần là có thể phát triển trí lực. Cũng giống như việc
học sinh tiểu học về nhà chép lại một chữ năm mươi lần cũng là một cách phát triển
trí lực. Liệu có phải là như vậy? Montessori không đồng ý với quan điểm này. Bà
nói: “Những nhà tâm lý học cứng nhắc đó vẫn có ảnh hưởng rất lớn đến lý luận và
thực tiễn giáo dục. Ảnh hưởng đó là gì? Họ cho rằng, những ấn tượng mà chúng ta
nhận được từ thế giới bên ngoài dường như là gõ cánh cửa của cơ quan cảm giác của
chúng ta rồi ùa vào”.
Tôi đã gặp rất nhiều phụ huynh, trong số đó có một phụ huynh
khá điển hình là hiệu trưởng của một trường mầm non. Cô có hai người con, trong
đó có một cháu sau khi sinh ra không lâu, cô ấy đã dán chữ “cửa” lên trên cửa, dán
chữ “cái bình” lên trên bình… rồi bế đứa trẻ đến đó đọc cho nó nghe, liên tục như
vậy. Khi đứa trẻ hơn 4 tuổi, cháu đã có thể đọc sách, biết làm phép cộng trừ. Cô
ấy tự cho rằng con trai mình vô cùng thông minh vì con cô ấy biết rất nhiều thứ,
đặc biệt là về mặt đọc chữ. Trong quá trình được đào tạo theo phương pháp giáo dục
Montessori, cô ấy không đồng ý với một số quan điểm của phương pháp này. Cô ấy cho
rằng khi liên tục dùng những sự vật bên ngoài kích thích đứa trẻ, để những sự vật
ấy lưu lại ấn tượng trên bộ não chúng, đó chính là trạng thái trí lực.
Montessori cho rằng, cảm giác của trẻ đến từ bên trong. Cũng
có nghĩa rằng trẻ con không phải là một cái bình rỗng, chúng không cần người lớn
nhồi nhét cho đầy cái bình đó. (Chúng ta cứ tưởng rằng những thứ nhét đầy bình chính
là trí lực của trẻ).
Vị phụ huynh này nói: “Phương pháp của tôi cũng có thể giúp con
trẻ đạt được một trạng thái trí lực nhất định”. Tôi nói: “Có thể, nhưng có sự khác
nhau về bản chất”. Vì con trẻ rất lạ lùng, khi người lớn liên tục kích thích chúng
về phương diện nào đó, chúng có thể nhanh chóng nắm bắt được những tri thức của
phương diện ấy, như vậy thì trạng thái nắm bắt như thế nào? Tuần thứ hai cô ấy đưa
con mình đến, tôi ở bên cạnh quan sát. Tôi nói: “Trí lực của cháu phát triển chậm
mất rồi”. Cô ấy hỏi: “Chậm thế nào?”. Tôi nói: “Trạng thái trí lực của cháu hiện
giờ chỉ tương đương với trẻ 2 tuổi”. Quan niệm về trí lực của tôi không giống với
cô ấy, cô ấy quan niệm trí lực là những điều nắm bắt được từ thế giới bên ngoài.
Tôi nói: “Trạng thái này không bình thường. Tôi sẽ đưa cô đi xem những cháu 5 tuổi
ở trường này”. Tâm lý, trí lực của con cô ấy rất yếu, chỉ như một đứa trẻ sơ sinh.
Trông cháu không tự tin, không kiên cường, không quyết đoán, hình như bất cứ sự
việc gì nếu thế giới bên ngoài không phản ứng, cháu sẽ không thể xác định, không
thể hiểu rõ, không thể đào sâu suy nghĩ. Cháu không thể tổng hợp những thứ đã học
để ứng dụng trong những hoàn cảnh thực tế, hễ cất lời là tri thức, nhưng những tri
thức đó lại không liên quan gì đến cuộc sống.
Trường hợp này đã đưa ra cho tôi một gợi ý, đó là: Chúng ta vẫn
luôn lấy việc nắm bắt một kỹ năng nào đó làm tiêu chuẩn phát triển trí lực.
Trên thực tế kỹ năng không quan trọng. Trước 6 tuổi, các bé không
cần phải học bất cứ kỹ năng nào, cái các bé cần học chính là cách để nắm vững các
kỹ năng.
Trong hai cuốn sách của mình, bà Montessori đều nói: “Tất cả
trí lực của trẻ em đều phát triển từ cảm giác đến khái niệm”. Bà đã dùng một câu
của Édouard Séguin(*): “Dẫn dắt trẻ em từ cảm giác đến khái niệm”. Montessori nói:
“Cảm giác là ngọn nguồn của trí lực”.
(*) Édouard Séguin (1812-1880) là một bác sĩ và nhà giáo dục
sinh ra ở Clamecy, Nièvre, Pháp. Ông được ghi nhớ bởi những đóng góp cho các trẻ
em suy giảm nhận thức ở Pháp và Hoa Kỳ.
Chúng ta hãy cùng xem thế nào là cảm giác. Ví dụ chúng ta ngồi
nghe diễn giảng, ấn tượng sâu đậm nhất chính là phần nội dung mà các bạn có thể
hiểu được. Suốt cả buổi diễn giảng, bạn chỉ có thể lĩnh hội được một phần nội dung.
Phần nội dung ấy chắc chắn là phần mà bạn có cảm nhận sâu sắc nhất, liên quan mật
thiết tới trạng thái tâm lý và các sự việc mà bạn đã từng trải qua.
Liên quan đến cảm giác của trẻ em, tôi xin dẫn ra một ví dụ.
Lúc con tôi hơn 1 tuổi, cháu vẫn chưa biết nói. Lúc đó tôi rất sốt ruột, nghĩ bụng
hay là con mình chậm phát triển? Sốt ruột đến nỗi tôi còn đưa con đến bệnh viện
để bác sĩ kiểm tra lưỡi. Nhà tôi có một cái thước dạy học, tôi lấy cái thước, chỉ
vào đèn, nói với con: “Đây là đèn, đèn, đèn!”. Chỉ xong, tôi lại chỉ sang sách nói:
“Đây là sách, sách, sách!”. Ngày ngày tôi bế con, chỉ cho con cái này cái kia, chỉ
tất cả những đồ đạc trong nhà, ngày nào cũng thế. Nhưng con tôi vẫn ngây ra, không
có bất cứ biểu cảm nào. Tôi nghĩ: “Sao thế nhỉ? Sao phương pháp này không hề có
chút tác dụng nào?”. Thính giác của con tôi rất tốt, có những lúc vẫn nói được:
“A, a, a!”. Điều này chứng tỏ cổ họng con tôi hoàn toàn bình thường, thế là tôi
lấy một cái khăn sạch, kéo lưỡi cháu ra, xem dưới lưỡi có bị dính liền hay không?
Không có, chứng tỏ lưỡi cháu cũng bình thường.
Nhưng con tôi vẫn không nói gì. Vào hôm cháu được 2 tuổi 1 tháng,
cháu chạy ra ngoài chơi, bên ngoài có một chiếc xe tải đang đỗ, cháu muốn trèo lên
thùng xe, tôi đưa cháu lên. Lúc đó đúng vào mùa hè, trời chiều Ninh Hạ xanh thăm
thẳm lay động lòng người. Tầng không cao vời vợi, mênh mông không thấy đường chân
trời. Con tôi vịn vào thành xe, ngẩng lên nhìn bầu trời. Cháu cứ đứng nhìn thế rất
lâu, tôi không hiểu trên bầu trời đang có gì thu hút cháu. Tôi nói: “Trời!”. Con
tôi liền nói: “Tời(*)”. Từ đầu tiên cháu biết nói lại là “trời”. Cái miệng bé bỏng
của cháu nói liền một mạch: “Tời, tời, tời”. Lúc đó tôi thực sự bất ngờ. Một lúc
sau cháu vẫn không ngừng chỉ lên trời nói: “Trời, trời, trời!”. Từ lúc đó trở đi,
hễ gặp ai là cháu lại kéo tay người đó nói: “Trời, trời!”. Liên tục trong ba ngày.
Sau đó tôi chỉ xuống đất, giậm chân nói: “Đất, đất!”. Con tôi nói: “Đất!”. Đây là
từ thứ hai. Lúc đó tôi nghĩ, nên nói thêm cho cháu một thứ giữa trời và đất. Tôi
nói: “Cây, cây!”. Cháu không nói, kiên quyết không nói “Cây”. Tôi nói: “Người, người”.
Hình như cháu có cảm giác với người, nên nói: “Người, người”. Cháu đã nắm được ba
khái niệm đầu tiên: trời, đất, người. Trước đó, trên thực tế tôi đã liên tục chỉ
cho cháu “đèn” và “sách”. Lúc nhỏ, con trai tôi thích nhất một việc đó là đến cạnh
giá sách, rồi lôi từng quyển sách vứt xuống đất. Khi nào dưới đất đầy sách thì chơi
thêm một lúc rồi tè một bãi, tè xong thì đi chỗ khác chơi. Ngày nào cũng như vậy,
đến nỗi đống sách nhà tôi lộn xộn hết lên, đành phải đóng thêm cái cửa tủ mà khóa
lại. Trong quá trình này, cháu đã tiếp cận sách, sờ mó sách, nhưng khi tôi chỉ cho
cháu và nói “sách”, cháu lại không nói. Điều này càng chứng tỏ rằng cháu không quan
sát sách, không cảm nhận được sách. Nhưng khi cháu quan sát trời, cháu cảm thấy
xúc động, có cảm giác với trời, đúng vào lúc đó thì tôi dạy cho cháu từ này.
(*) Nguyên văn tác giả nói là Thiên (Tiàn/trời), em bé phát
âm ngọng thành Điên (Diàn/Đỉnh), dịch giả dịch thành “Trời” và “Tời” để chuyển tải
cách phát âm ngọng của cháu bé.
Từ ngữ nắm bắt cảm giác, củng cố cảm giác, diễn giải cảm giác,
tô đậm cảm giác, khiến những cảm giác mơ hồ, sắp tan biến trở thành những đối tượng
rõ ràng cụ thể. Montessori nói, đó chính là trí lực. Trí lực chính là từ cảm giác
phát triển thành khái niệm.
Trí lực là một quá trình, mọi cảm giác gia tăng trong quá trình
này đều gắn liền với kinh nghiệm và thể nghiệm, từ khi sinh ra trẻ em đã có được
năng lực này. Năng lực này ở mỗi người đều không giống nhau, quá trình này ở mỗi
người cũng không giống nhau.
Giờ chúng ta đã hiểu được bản chất của cách “dạy” theo quan niệm
thông thường: Hướng cho trẻ tập trung chú ý về một thứ, và “dạy” trẻ thứ đó. Nhưng
sức chú ý không phải là cảm giác, càng không phải là cảm giác sâu sắc. Bạn biết
cảm giác của trẻ phải cần đến bao nhiêu thời gian không? Hơn nữa, bạn bảo trẻ chú
ý vào một đóa hoa, nhưng có thể trẻ lại tập trung sự chú ý vào một vết lốm đốm trên
hoa. Tôi dám nói cách “dạy” này e rằng sẽ làm rối con trẻ, bạn không biết dùng từ
ngữ để khái niệm hóa cái gì; đối với con trẻ từ ngữ của bạn đều không biết biểu
đạt cho cái gì. Khi những đứa trẻ đó đến tuổi đi học, đầu óc không mạch lạc, năng
lực tư duy yếu. Lớn lên đầu óc cũng lơ mơ, hơn nữa quan hệ giữa người với người
- như giáo sư nổi tiếng của Đại học Bắc Kinh - Kim Khắc Mộc đã nói: “Không có ai
hiểu ai”.
Những điều tôi vừa nói đều là những lời từ chính miệng tôi, toàn
bộ đều là khái niệm, không có câu nào không phải là khái niệm. Tất cả ngôn ngữ của
tôi đều là do các khái niệm cấu thành. Nhưng, nếu tôi nói y nguyên như vậy với trẻ,
chúng không thể hiểu. Con trẻ dựa vào những gì để hiểu được? Con trẻ dựa vào cảm
giác. Cảm giác bao gồm những gì? Thị giác, vị giác, khứu giác, xúc giác, thính giác.
Trẻ em nhận biết sự vật, hiện tượng bằng chính những cảm giác đó, rồi hình thành
khái niệm, sau đó lại tiến hành liên kết giữa khái niệm và khái niệm. Thực ra không
khó để phát hiện ra rằng, dường như trước 6 tuổi con trẻ chỉ làm mỗi một việc này.
Tất cả trẻ em vừa sinh ra đều dùng miệng để nhận thức thế giới,
sau đó dùng tay sờ. Đó là “miệng thông tay sáng”. Hiện tượng này chứng tỏ trẻ không
bị động tiếp nhận thông tin người khác truyền đạt cho chúng mà hoàn toàn chủ động
và tích cực. Bản thân trẻ em có phôi thai tinh thần. Phôi thai tinh thần có một
năng lực đặc biệt giúp trẻ nhận thức thế giới, năng lực đặc biệt ấy gọi là “thời
kỳ nhạy cảm”. Trạng thái sống của trẻ là do những thời kỳ nhạy cảm nối tiếp nhau
tạo thành.
Ví dụ cụ thể là thời kỳ nhạy cảm của trẻ sơ sinh nằm ở vòm miệng,
vòm miệng của chúng là nhạy cảm nhất. Dường như tất cả tinh lực của trẻ đều tập
trung vào việc ăn. Trên thực tế, trẻ em dưới 1 tuổi hoàn toàn dùng miệng để cảm
nhận thế giới. Dù là vật gì trẻ cũng cảm nhận bằng miệng.
Rất nhiều người cho rằng hành động đưa các thứ vào miệng của
trẻ chẳng mang một ý nghĩa gì, hoặc là biểu hiện của việc không biết đói no. Trẻ
vừa sinh ra, nếu vô tình đưa tay vào miệng, lần thứ hai trẻ cũng sẽ làm như vậy,
lần thứ ba, lần thứ tư… Bạn sẽ phát hiện ra rằng động tác đưa tay vào miệng của
trẻ vừa nhanh vừa chuẩn xác. Bạn cũng đã thấy tư thế nằm ngủ của rất nhiều trẻ đều
giống nhau - hai bàn tay nắm rất chặt. Lúc đó trẻ vẫn chưa có kinh nghiệm. Kinh
nghiệm chưa mách bảo trẻ tay có thể cho vào miệng, trẻ chưa biết khống chế đôi tay
của mình. Nhưng một khi trẻ đã cho tay vào miệng, sau lần thể nghiệm đầu tiên, trẻ
sẽ liên tiếp cho tay vào miệng các lần tiếp theo. Những động tác liên tục đó sẽ
sinh ra một cảm giác, cảm giác này lặp đi lặp lại sẽ sinh ra kinh nghiệm, kinh nghiệm
này sinh ra trí lực. Jean Piaget(*) gọi đó là “manh nha của trí lực”.
(*) Jean Piaget (1896 - 1980) là một nhà tâm lý học và triết
học người Thụy Sĩ. Ông nổi tiếng về những nghiên cứu nhận thức luận về trẻ em. Lý
thuyết về phát triển nhận thức và góc nhìn nhận thức luận của Piaget được gọi chung
là "Nhận thức luận di truyền" (genetic epistemology).
Trên thực tế, trước 1 tuổi, với trẻ, bất cứ việc gì trên thế
giới này có thể cầm được và cho được vào miệng, trẻ sẽ cho vào miệng. Ví dụ một
người bạn của tôi, con của cô ấy cầm một chiếc khăn mặt cho vào miệng, trong khi
tay kia lại cầm một chiếc lược, một vật rất cứng. Cháu liên tục dùng miệng gặm khăn,
rồi lại gặm lược. Cứ thế lặp đi lặp lại, lần lượt. Cô bạn tôi cảm thấy rất ngạc
nhiên nên hỏi tôi. Trên thực tế chúng ta biết trẻ đã có cảm giác với “mềm” và “cứng”,
trẻ dùng miệng để cảm nhận. Nhưng đáng tiếc là cha mẹ cháu lại không biết, không
kịp thời đưa ra hai từ “mềm” và “cứng” phối hợp với những cảm giác vừa được thiết
lập, may là họ chưa giằng khăn và lược khỏi tay cháu bé.
Tôi cảm thấy điều đáng tiếc trong cả quá trình phát triển của
trẻ em chính là ở đây. Một mặt, chúng ta đã phá hoại cảm giác của trẻ đúng vào lúc
chúng đang cảm nhận; mặt khác, khi con trẻ đã cảm nhận được, chúng ta không kịp
thời đưa ra những từ ngữ phối hợp với cảm giác của chúng. Tầm quan trọng của việc
phối hợp chính là ở chỗ này.
Trước đó không lâu tôi đã đọc cuốn “Thiên tài và sự giáo dục
từ sớm(*)” của tác giả Kimura Kyuichi (1883-1997) nhà giáo dục, tâm lý học người
Nhật. Cuốn sách viết lại câu chuyện xảy ra vào thế kỷ trước ở một vùng quê nước
Đức, ông bố Karl Witte(**) đã dùng tư tưởng giáo dục của mình như thế nào để dạy
con trai. Tác giả trình bày rõ một quan niệm: “Thiên tài là hứng thú bất tận và
niềm say mê vô bờ bến”. Hứng thú đó không phải do người lớn bồi đắp nên, mà là do
trời sinh ra đã có. Chúng ta có thể nhìn ra điều này ở tất cả những nhà trẻ, những
trường mẫu giáo. Theo nhận thức của tôi, phương pháp này có những điểm tương đồng
to lớn với phương pháp Montessori. Ông lấy một ví dụ, khi đứa trẻ nắm lấy ngón tay
bạn đưa vào miệng, rồi mút ngón tay bạn, bạn nhớ phải dùng giọng nói hiền hòa rõ
ràng mà lặp đi lặp lại “ngón tay”. Phương pháp giáo dục này cũng giống với phương
pháp giáo dục chúng ta đã nói ở trên, khi đứa trẻ đưa một vật vào miệng để cảm nhận
mềm và cứng, người lớn phải kịp thời đưa ra những khái niệm cho trẻ. Sự hứng thú
với ngón tay chính là đặc trưng của thiên tài, hiểu và nuôi dưỡng đặc trưng này
đến lúc trẻ trưởng thành, trẻ sẽ có thể trở thành thiên tài.
(*) Sách do Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm
2012.
(**) Karl Witte (1800-1883) là nhà nghiên cứu về Dante của
Đức, người lập kỷ lục tiến sĩ trẻ nhất thế giới ở tuổi mười hai, hiện kỷ lục này
vẫn chưa bị phá vỡ.
Đáng tiếc là phần lớn chúng ta không biết điều này, cho nên không
thể đối xử với trẻ như vậy. Ngược lại, điều chúng ta thường làm là:
Khi trẻ không có cảm giác, chúng ta không ngừng ép buộc trẻ,
dạy cho trẻ thứ này thứ kia, có người còn nói quá nhiều. Khi trẻ đang có cảm giác
nào đó, chúng ta không những không nhận ra cơ hội, mà lại quấy rầy trẻ, phá hoại
cảm giác của trẻ. Như thế, sự quan sát và cảm giác nội tại của trẻ sẽ dần dần mất
sạch trong quá trình ép buộc đó.