Luận Anh Hùng - Phần VI - Chương 28 - phần 1
VĂN
HÓA VÀ CON NGƯỜI
Từng tờ từng tờ sách sử được lật sang bên.
Hiện ra trước mắt chúng ta là những tên tuổi rất quen thuộc mà năm tháng còn
lưu lại: Hạng Vũ, Tào Tháo, Võ Tắc Thiên, Hải Thụy, Ung Chính. Họ đúng là một
trong số các nhân vật ưu tú nhất, kiệt xuất nhất trong lịch sử Trung Quốc. Sự
nghiệp của họ không thể phai mờ, hình tượng của họ luôn chói sáng, câu chuyện
của họ được lưu truyền mãi, sức cuốn hút của họ vẫn còn mãi. Đối với đúng sai,
công tội, thiện ác, được mất của họ, người đời có thể bàn luận, tranh luận mãi
mãi, nhưng cũng chính vì những điểm này chẳng phải đã chứng minh rõ họ là những
người phi phàm?
Nhưng không có ai không là những nhân vật
đầy tính bi kịch.
Đúng vậy, trong năm người này, liệu có ai
là người gặp vận may hoặc có một kết cục tốt đẹp? Không thất bại, cũng danh
liệt, không bị đả kích khi còn sống, cũng bị chửi rủa khi đã khuất, không ai
được công đức viên mãn. Và ngay cả những người liên quan với họ như Hàn Tín,
Doãn Tự, không ai có kết cục tốt đẹp.
Không thể phủ nhận, kết cục bi kịch được
tạo nên có liên quan tới tính cách, phương thức đối xử của họ. Hạng Vũ không
đạt được mục đích vì đầu óc quá đơn giản, cũng vậy, Tào Tháo gian trá giảo
hoạt, Võ Tắc Thiên thủ đoạn ác độc, Hải Thụy viển vông gàn dở, Ung Chính nghi
kỵ hà khắc. Nhưng nếu không có những khiếm khuyết đó, thì số phận của họ không
mang tính bi kịch chăng? E rằng rất khó nói, ví như tính cách của Doãn Tự có
khiếm khuyết gì nào? Không, nhưng vẫn thân bại. Phương thức đối xử của Thẩm
Thời Hành có gì là không đúng? Không có. Nhưng vẫn danh liệt. Mới hay, tiến
thoái vinh nhục, thắng bại được mất của một người, không hoàn toàn do người đó
quyết định, thậm chí là hoàn toàn không. Đương nhiên, nếu Tào Tháo xử sự trung
hậu, thực thà, Võ Tắc Thiên cũng nhân từ, hiền hòa, thì đúng là họ sẽ không bị
chửi rủa, nhưng tiền đồ cá nhân họ sẽ rất mong manh. Sự nghiệp của họ sẽ không
thành công, tính mạng cả gia đình họ vị tất được đảm bảo. Có thể Tào Tháo đã
phải bỏ mạng trong loạn thế, Võ Tắc Thiên chỉ có thể cả đời sống trong chùa Cảm
Nghiệp, đấy chẳng phải là bi kịch sao?
Xem ra, bọn họ từng người khó tránh được
kiếp nạn.
Điều này khiến tôi nhớ tới cuốn “Mười lăm
năm vạn lịch” của Hoàng Nhân Vũ. Hoàng còn gọi những gì đã mô tả trong cuốn
sách là “ghi chép toàn bộ những điều thất bại lớn”. Vì các nhân vật mà sách đề
cập tới, từ hoàng đế Chu Dực Quân, quyền thần Trương Cư Chính, các lão Thẩm
Thời Hành, danh tướng Thích Kế Quang, thanh quan Hải Thụy, nhà triết học Lý
Chất, đến thái giám Phùng Bảo, quý phi Trịnh thị, thủ phụ Cao Củng, hoàng tử
Chu Thường Tuần, tướng lĩnh Du Đại Vu... không một ai có kết quả tốt đẹp. Hoàng
cho rằng, nguyên nhân của tình hình này không phải do cá nhân, mà do chế độ của
ngày đó đã lan tới sơn cùng thủy tận, trên từ thiên tử dưới đến thứ dân, ai
cũng có thể trở thành vật hy sinh, lao thân vào hoạn nạn(1)”. Chính vì bản thân chế độ có vấn đề,
nên hoàng đế là lo việc trị nước hay là cầu an hưởng lạc, triều thần phò tá là
độc tài lạm quyền hay là điều hòa thảo hiệp, văn quan là liêm khiết chí công
hay là tham ô ti tiện, võ quan là giàu sáng tạo hay là giữ mình cầu an, nhà tư
tưởng là cực đoan tiến bộ hay là tuyệt đối bảo thủ, đều chẳng liên quan gì hơn
nữa chẳng có ý nghĩa gì. Vì vậy “kết quả cuối cùng, thiện ác lẫn lộn, không ai
có thể phát triển sự nghiệp đầy ý nghĩa, có người thân bại, có người danh liệt,
cũng có người thân bại và danh cũng liệt(2)”.
(1)
Hoàng Nhân Vũ, “Mười lăm năm vạn lịch”, trang 4 (Tác giả).
(2)
Sách đã dẫn, trang 238 (Tác giả).
Đây là ý kiến tương đối sâu sắc. Trước đó
chúng ta luôn có thói quen, coi việc hưng suy của vương triều, thành bại của sự
nghiệp, thay đổi của lịch sử, đúng sai của sự việc là do nguyên nhân cá nhân,
quy kết thành sự đúng sai ưu việt trong phẩm chất cá nhân nhân vật lãnh tụ hoặc
nhân vật chủ đạo nào đó. Và đồng thời với quan điểm này, theo Nhị nguyên luận
đơn giản giữa thiện và ác, các nhân vật lịch sử được phân làm hai loại người
tốt và người xấu, quân tử và tiểu nhân, phân thành nhân quân và bạo quân, minh
quân và hôn quân, hoặc trung thần và gian thần, thanh quan và tham quan, cùng
với hảo hán và đồ khốn, anh hùng và lưu manh... Thế là nhân vật lịch sử, cũng
theo lệ, mỗi người mang một bộ mặt riêng, lịch sử Trung Quốc biến thành một sân
khấu lớn. Người mặt hồng, mặt trắng, mặt hoa, người không có mặt chỉ có mũi
trắng kéo nhau ra sân khấu hát xướng, người này hát vừa xong, người khác đã
bước ra. Nhưng chúng ta không hề biết vì sao trên sân khấu lại có nhiều mặt
trắng và mũi trắng đến vậy, cũng không biết Quan Công mặt đỏ và Bao công mặt đen bao giờ mới có thể xuất hiện, vì
chúng ta không biết người biên kịch và đạo diễn là ai. Chúng ta chỉ có thể kỳ
vọng ở vận may và chờ đợi, tin rằng “ác hữu ác báo, thiện hữu thiện báo”, nhưng
không muốn thừa nhận rằng, mỗi lần “thiện báo” luôn cho chúng ta ý thức, lần
sau sẽ là “ác vận”.
Lịch sử cứ thế tuần hoàn qua lại: do loạn
mà trị, do trị mà loạn, do hưng mà suy, do suy mà hưng, cho đến một ngày, vở
kịch không được diễn tiếp nữa.
Bây giờ thì chúng ta biết, ít ra thì từ năm
Vạn Lịch thứ mười lăm thời Minh, vở kịch đã ngừng diễn. Vì, dù bạn diễn hay hay
không hay, diễn vui hay không vui, thì kết cục luôn chẳng hay ho gì, thậm chí
còn không thể rời khỏi sàn diễn. Có thể cần phải diễn tiếp, chỉ cần thay đổi
diễn viên, thay đổi cả trang phục, con cháu Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã làm được điều
này, nhưng tiếc là cũng chẳng đi đến đâu. Chúng ta đã thấy, hoàng đế Ung Chính,
một diễn viên mất nhiều sức nhất, dù là hát hoặc diễn, tất cả đều rất hay,
nhưng ở dưới khán đài vẫn vang tiếng la ó. Hơn nữa, làn sóng la ó không phải
vang lên lần đầu. Trước Ung Chính, thậm chí là trước Hải Thụy đã vang lên đến
mấy lần.
Chúng ta không thể không suy nghĩ kĩ hơn về
điều này.
Đúng vậy, nếu phẩm chất cá nhân không phải
là khối u của vấn đề thì chính là chế độ xã hội, vậy chúng ta rất muốn biết đó
là chế độ như thế nào? Và vì sao chúng ta cần chọn một chế độ như vậy? Vì sao
chế độ lại phải đi đến sơn cùng thủy tận?
Chế độ xã hội cổ đại Trung Quốc, đúng như
lời Hoàng Nhân Vũ từng nói “Lấy đạo đức thay pháp luật”. Cũng tức là quản lý xã hội, trị lý đất nước bằng đạo đức
và lễ nghĩa. Một phương thức quản lý và trị lý như vậy được gọi là “đức trị” và
“lễ trị”, không phải là “pháp trị” mà chúng ta chủ trương hiện nay, cũng không
phải “nhân trị” mà chúng ta vẫn nghĩ.
Nền văn hóa Trung Quốc không tán thành nhân
trị lắm, đương nhiên, cũng không phản đối nhân trị lắm. Vì nền văn hóa Trung
Quốc cho rằng, luật pháp có tốt đến mấy vẫn cần người đến chấp hành. Không có
người chấp hành thì dù luật pháp có tốt đến mấy cũng vô ích, gọi là “có người
trị, không có pháp trị” (chỉ người có thể trị lý quốc gia, không có luật pháp
có thể trị lý quốc gia). Nhưng, pháp trị không được, nhân trị thì được sao?
Cũng không được. Thứ nhất, người có tốt đến mấy rồi cũng chết. Người chết thì
nền chính trị của người đó cũng kết thúc, gọi là “người còn thì chính trị được
tiến hành, người chết thì chính trị của người đó cũng hết”. Đất nước muốn được
yên ổn lâu dài, đương nhiên không thể kỳ vọng ở thứ “nhân trị” “người chết
chính trị cũng hết theo”. Thứ hai, người có thiện có ác, có hiền có ngu. Nếu
sinh tử tồn vong của một quốc gia lại liên quan đến bản thân một người, thì vô
cùng nguy hiểm, không thể tin được. “Một người” nếu là người thiện, vua hiền
còn dễ nói, còn khi là đồ ác độc đần độn, thì tổ tông xã tắc thiên hạ thương
sinh sẽ ra sao? Vì thế, nền văn hóa Trung Quốc không tán thành nhân trị, hoặc
ít ra không tán thành nhân trị như giới học thuật thời đó.
Thực tế, nền văn hóa Trung Quốc không thể
tán thành nhân trị. Cái gọi là “nhân trị”, nói tới cùng chính là “nền chính trị
cá nhân” hoặc “nền chính trị của một người”, cũng tức là dựa vào ý chí, sức hút
và quyền uy, uy vọng của cá nhân để trị nước. Trong lịch sử từng có phương thức
này, nhưng về bản chất có mâu thuẫn với tinh thần nền văn hóa Trung Quốc, vì
vậy chỉ có thể xem là trường hợp đặc biệt, không thể xem là việc bình thường.
Trong cuốn “Chuyện phiếm về người Trung Quốc”, tôi đã nói, hạt nhân tư tưởng
của nền văn hóa Trung Quốc là ý thức quần thể. Theo ý thức quần thể, cá nhân
luôn nhỏ bé, yếu đuối, không đủ nặng nhẹ, không là gì cả. Ngay cả thiên tử quý
báu cũng vậy thôi. Dù thành tựu của họ có to đến mấy, cũng phải nói là “nhờ tổ
tông thần linh phù hộ, thiên hạ thần dân đồng tâm, đồng đức, cùng dựng nên đại
nghiệp”... Nếu thiên tử không nói như vậy, không làm như vậy, thì đúng là kẻ
đi, đến đơn độc, làm những việc tự cho là đúng, tự nghĩ tự làm, lúc này thiên
tử sẽ trở thành “dân tặc”, trở thành “độc phu”, có thể là kẻ “thiên hạ muốn
diệt, thiên hạ muốn đánh”. Tinh thần cơ bản của nền văn hóa Trung Quốc là vậy,
đâu có tán thành tin tưởng và dựa vào “nhân trị” của cá nhân?
Kỳ thực, Hạng Vũ, Tào Tháo, Võ Tắc Thiên,
Hải Thụy, Ung Chính sở dĩ phải nhận một kết cục bi kịch vì họ đều là “người
theo chủ nghĩa nhân trị”. Trình độ của họ là ngang nhau, tin rằng phẩm chất cá
nhân ưu tú, năng lực mạnh mẽ, uy vọng cao, bản lĩnh lớn, là có thể ôm gọn thiên
hạ. Hạng Vũ tin vào năng lực cá nhân mình, Hải Thụy tin vào đạo đức phẩm chất
của mình, Tào Tháo, Võ Tắc Thiên, Ung Chính lại tin vào vào ý chí, bàn tay sắt
của mình, một tay che trời, độc đoán chuyên quyền. Họ đã mâu thuẫn với hạt nhân
tư tưởng của nền văn hóa Trung Quốc đến như vậy, đương nhiên sẽ chẳng cách gì
để nền văn hóa gật đầu và công nhận.
Rõ ràng, trong lịch sử Trung Quốc từng đã
có hiện tượng nhân trị. Nhưng chúng ta cần phải chú ý, phần lớn những hiện
tượng đó đều xuất hiện vào các thời kỳ lịch sử đặc biệt. Như những năm tháng
động loạn hoặc vào ngày đầu dựng nước. Lúc này, lễ đã băng nhạc đã hoại, hệ
thống đức trị và lễ trị đã hết linh, đành phải kỳ vọng vào “nhân trị” và “trị
nhân”. Nhất là vào những năm tháng thiên hạ đại loạn, thay triều đổi đại, nhân
vật anh hùng nào đó bằng vào ma lực cá nhân, la hét hô mưa gọi gió, tranh giành
thống trị Trung Nguyên, nắm thiên hạ trong lòng bàn tay mình. Có thể nhanh
chóng lấy được thiên hạ, nhưng không thể nhanh chóng trị được thiên hạ, vì
thiên hạ chỉ có thể bị “người lấy”, không thể bị “người trị”. Sau khi nhân vật
anh hùng lấy được thiên hạ, cần phải nhanh chóng chuyển dịch sự điều khiển đất
nước vào quỹ đạo “đức trị” và “lễ trị”. Bởi thế, Lưu Bang tuy là lãnh tụ khai
quốc, cũng không thể trái với lễ. Dù Lưu Bang rất thích Triệu vương Như Ý - con
đẻ của Thích phu nhân, nhưng cuối cùng chỉ có thể lập người con lớn của vợ cả
là Lưu Doanh làm tự, và hơn một ngàn bảy trăm năm sau, tình trạng của hoàng đế
Vạn Lịch cũng giống hệt như thế(3).
Chẳng trách Tùy Văn đế đã nói: “Trẫm cao quý là thiên tử nhưng không được tự
do”. Đức trị và lễ trị cao hơn nhân trị mà!
(3)
Cũng giống như Lưu Bang không thích con trưởng Lưu Doanh, muốn lập Triệu vương
Như Ý, Vạn Lịch cũng không thích trưởng hoàng tử Chu Thường Lạc, mà muốn lập
tam hoàng tử Chu Thường Tuấn. Nhưng sau khi những đại thần thủ lễ kiên trì phản
đối hơn mười năm, cuối cùng Vạn Lịch đã phải khuất phục lễ chế và lễ pháp, lập
Chu Thường Lạc làm hoàng thái tử. Và đây chính là bằng chứng cho lễ trị chiến
thắng nhân trị. Cho đến Khang Hy, Ung Chính bí mật lập tự, nguyện vọng của chế
độ “nhân trị” mới được coi là thực hiện phần nào (Tác giả).
Còn như cái gọi là “thời đại thái bình” thì
càng không được nói tới nhân trị. Luôn có “người còn thì chính lên, người chết
thì chính hết”. Nhưng lên cũng được, hết cũng được, chẳng liên quan gì đến phẩm
chất, tài cán, sức hút của cá nhân, và cũng chẳng liên quan đến sự tốt xấu của
bản thân chính sách, mà chỉ liên quan đến chức quan của cá nhân đó. Nếu là quan
(đương nhiên tốt nhất là hoàng đế), thì dù là ngu như Lưu Thiện, hoặc tham như
Nghiêm Tung thì nền chính trị vẫn lên; nếu không là quan, hoặc quan bị bãi và dù
có năng lực như Tào Tháo, hoặc thanh liêm như Hải Thụy thì nền chính trị vẫn
hết. Chính trị lên hay hết liên quan tới sự tồn vong của quan. Còn quan thì
chính lên, quan bị bãi thì chính hết. Vì vậy là “quan trị” không phải “nhân
trị”.
“Lễ” là căn cứ của “quan trị”. Vì lễ quy
định vua tôn thần ti, trên tôn dưới ti, đồng thời cũng quy định, người cao quý
đại biểu cho chân lý và đạo đức, kẻ ti tiện nhất định là ngu muội, vô tri, luôn
cần được giáo dục”. Cho nên, một người dù tài cao đủ tám đấu, học vấn đầy năm
xe, nhưng nếu không làm quan thì coi như không có học vấn, mọi ý kiến đều sai.
Ngược lại, hoàng đế dù ngu dốt cỡ nào thì ý kiến luôn được các thần tử dưới bệ
rồng xưng tựng: “Hoàng thượng thánh minh”. Báo cáo của trưởng quan dù có lung
tung dài dòng, quyết định của thượng cấp dù có sai lầm ghê gớm cũng nhất định
phải chăm chỉ học tập, quán triệt chấp hành. Tóm lại, hoàng đế luôn là thánh
minh, trưởng quan luôn là anh minh, thượng cấp luôn là cao minh - “Tam minh chủ
nghĩa”.
Rõ ràng, quan trị tức là lễ trị, mà lễ trị
là gốc của đức trị. Vì đức trị là loại “khống chế mềm”, nếu lễ pháp và lễ nghĩa
không được cụ thể hóa để sử dụng thì không có cách gì để thực hiện. Dễ thấy, lễ
chỉ là thủ đoạn, đức mới là mục đích, quan chính là nhân cách hóa của đức và lễ
hoặc đức trị và lễ trị. Vì vậy, quan trị cũng được, lễ trị cũng được, đều có
thể nói là “thay pháp chế bằng đạo đức”.
Nói một cách trừu tượng, “thay pháp chế
bằng đạo đức” là không tốt, nếu chưa chắc thực sự có thể thay thế. Xã hội thị
tộc nguyên thủy không có pháp hoặc pháp chế, vậy lấy gì để quản lý, để xử lý và
duy trì quan hệ giữa con người? Dựa vào đạo đức, dựa vào lễ nghĩa. Đức trị và
lễ trị trong xã hội cổ đại Trung Quốc là sự kế thừa của xã hội thị tộc nguyên
thủy. Thực hành trong xã hội nguyên thủy có hiệu quả, nên không thể nói, nhất
định không thể thực hành trong xã hội cổ đại. Cho nên, không thể bình phẩm một
cách đơn giản “thay pháp chế bằng đạo đức” là đúng hay sai, mà phải hỏi: Vì sao
trong xã hội cổ đại Trung Quốc phải “thay pháp chế bằng đạo đức”? Thay pháp chế
bằng loại đạo đức nào? Loại chế độ đó có thực hiện được hay không thực hiện
được?
Đến đây, cần phải nói về văn hóa.
Đúng vậy, chính tính chất của nền văn hóa
Trung Quốc đã quyết định “thay pháp chế bằng đạo đức”. Ở phần trước đã nói, hạt
nhân tư tưởng của nền văn hóa Trung Quốc là ý thức quần thể. Với một nền văn
hóa như vậy, điều quan trọng nhất là xử lý quan hệ giữa người và người, bảo đảm
sự tồn tại của quần thể. Điều đó chỉ có thể dựa vào đạo đức, không thể dựa vào
pháp chế. Vì pháp chế chỉ có thể quy định con người không được làm gì, không
thể quy định con người cần phải làm gì. Pháp chế chỉ có thể quy định không được
làm tổn thương người khác, nhưng không thể quy định phải thương yêu người khác;
chỉ có thể quy định không được làm tổn hại đến lợi ích quần thể, nhưng không
thể quy định cần phải mưu cầu lợi ích cho quần thể. Tuy chỉ là quy định, nhưng
nhiều lắm chỉ có thể quy định bạn phải ra sức, chẳng có cách gì bảo đảm bạn đã
hết lòng. Đối với việc xử lý quan hệ giữa người với người, bảo đảm sự đoàn kết
trong quần thể, trong nhiều mặt pháp chế gần như bất lực. Ví dụ, tư tưởng người
đó ra sao, có lưu tâm đến tình người, có thể hết lòng, xả thân vì người khác,
có tinh thần hiến thân vì lợi ích của quần thể hay không... pháp chế không quản
nổi. Cho nên, đạo đức có khả năng thay thế pháp chế. Nghĩ xem, nếu từng người
đều là chính nhân quân tử, Bồ Tát thánh hiền, một xã hội như vậy còn cần gì đến
pháp luật để quản lý về quy định hành vi và quan hệ giữa người với người. Cần
gì đến pháp chế để ngăn ngừa và bảo vệ người nào đó?
Có thể “lấy đạo đức thay pháp chế” được
không? Mấu chốt là, có thể làm cho mọi thành viên trong xã hội đều trở thành
người có đạo đức cao thượng được không? Điều quan trọng ở đây là, “tất cả mọi
người”. Vì “đê dài ngàn dặm có thể vỡ vì một tổ kiến”. Chỉ cần một người vô đạo
đức, là sẽ có mười người, một trăm người, một ngàn người, một vạn người vô đạo
đức, cuối cùng thì hết đường cứu vãn. Nhưng có ai dám chắc rằng ai cũng là
người đạo đức, cao thượng cả không? Không. Ít ra trước mắt là không. Cho nên,
“lấy đạo đức thay pháp chế” chỉ có thể là lý tưởng, không thể là hiện thực.
Đã vậy, vì sao còn phải kiên trì “thay pháp
chế bằng đạo đức”?
Vì trên mảnh đất văn hóa của chúng ta đã có
quá nhiều pháp chế. Pháp chế có một nguyên tắc cơ bản: Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật. Bình đẳng, mới cần đến pháp; bình đẳng, cũng mới có thể sinh
ra pháp. Pháp là cái gì? Pháp tức là “công ước của toàn dân”. Tiền đề của pháp,
trước hết phải thừa nhận, mọi người đều là những người đơn độc, cá thể, có nhân
cách độc lập, có ý chí tự do. Chính vì những người này đều là đơn lẻ, giữa họ
không có bất cứ một quan hệ nào, không ai quản được ai, ai cũng tự cho là mình
đúng, vì vậy, nếu không có chế độ mang lại hiệu quả về nhiều mặt để ngăn ngừa,
thì thiên hạ sẽ đại loạn, hết cách để sinh tồn. Lúc này cần phải có thứ gì đó
có tác dụng đối với tất cả mọi người. Hiển nhiên, đối với số người đơn lẻ, nhân
cách độc lập, ý chí tự do mà nói, chỉ có ước định chung của chính bản thân họ,
mới có thể có tác dụng với từng người. Đó chính là pháp. Nói cách khác, pháp là
ước pháp chung(4) của toàn
thể cá nhân trong một xã hội nào đó. Pháp đã là ước định chung của mọi người,
đương nhiên ai cũng phải tuân theo, đồng thời pháp cũng đảm bảo sự công bằng
cho mọi người, gọi là “mọi người bình đẳng trước pháp luật”, mới hay tiền đề
của văn hóa pháp luật là ý thức cá thể, là sự bình đẳng, độc lập giữa người với
người. Độc lập, mới có bình đẳng; bình đẳng mới cần đến pháp chế.
(4)
Không phải dễ dàng để có được ước pháp. Vì không phải ai cũng được tham gia lập
pháp, cũng không thể đảm bảo rằng mọi người đều có ý kiến giống nhau. Nếu cần
có chế độ và nguyên tắc tương ứng, như chế độ đại biểu nhân dân, và thiểu số
phục tùng đa số… Vì vậy dân chủ luôn liên kết với pháp chế.