Luận Anh Hùng - Phần V - Chương 27 - phần 1

VII.
Ai là bên thắng

Ung Chính đã phấn đấu cả đời mình.

Đấu chí quyết thắng luôn hừng hực trong Ung
Chính. Trước tiên là đấu tranh giành hoàng vị, nửa sau cuộc đời là đấu tranh
củng cố chính quyền. Ung Chính đánh bại huynh đệ, đánh bại quyền thần, đánh bại
tham quan, đánh bại bọn thanh quan luôn mưu cầu danh tiếng. Cuối cùng chỉ còn
lại một mình đơn côi và mấy người được coi là thân cận. Như vậy Ung Chính có
cảm thấy vui mừng vì thắng lợi không?

Không, Ung Chính cảm thấy rất khó chịu, ấm
ức, còn có chút mơ hồ.

Có vẻ như rất mâu thuẫn. Ung Chính chẳng
phải luôn tự tin, tự vấn lòng mình thấy không phải hổ thẹn hay sao? Đúng vậy,
trong mọi cuộc đấu tranh, chàng trai người tộc Mãn này chưa hề phạm sai lầm.
Lúc trừng trị Niên Canh Nghiêu, trong số cận thần có người sợ Niên sẽ dấy binh
làm loạn ở Thiểm Tây, và khuyên Ung Chính đừng nghiêm khắc quá, Ung Chính coi
người đó là không hiểu biết và nói: “Quan sát tình hình xa gần, biết rõ khả
năng của Niên sẽ không thể làm việc đó”. Ung Chính tự tin và gan dạ. Ung Chính
tự đánh giá mình cũng không thấp: “Trẫm tự xét mình tuy chưa thể sánh bằng các
bậc nguyên thủ thánh quân trên ba đời, còn với các bậc quân chủ Hán, Đường,
Tống, Minh thì thấy không hổ”. Ung Chính cho mình có thể sánh với các bậc quân
chủ từ đời Hán, Đường tới nay. Như vậy không phải là nói quá, mà là sự tự tin
có căn cứ.

Đã vậy sao còn phải in cái ấn gọi là “Đại
nghĩa giác mê lục?”.

“Đại nghĩa giác mê lục?” có thể gọi là kỳ
thư. Điều kỳ lạ đầu tiên là hoàng đế đối chất với nghịch tặc nơi công đường.
Thời cổ đại Trung Quốc dân cáo quan là việc hiếm hoi (cáo cũng được, cáo thắng
bị xử hình), hoàng đế chạy đến công đường ủng hộ bị cáo, cùng với phản tặc mưu
nghịch, tiến hành “biện luận trên tòa”, là chuyện kỳ hiếm thiên cổ! Biện luận
hết, nhưng chưa xong, còn phải ghi lại, ban bố cho mọi người biết, thực sự
giống như “Nghìn lẻ một đêm”. Chỉ có Ung Chính một kỳ nhân mới làm nên kỳ sự,
và cũng chỉ có Ung Chính một kỳ nhân mới tạo được kỳ án như thế này.

Kỳ án “Đại nghĩa giác mê lục” đã ghi lại
đại thể nội dung một số mặt: Thứ nhất, ở quyển một ghi lại hai đạo đặc dụ của
Ung Chính. Hai đạo đặc dụ này đã nhắm thẳng vào lời vu khống của Tằng Tĩnh. Đạo
thứ nhất chủ yếu nói, triều Thanh thuận trời được dân, là vương triều chính
thống đại thống nhất, Mãn Châu cùng quê quán với người Thanh, người Thanh đoạt
lại chính quyền từ tay Lý Tự Thành để báo thù cho Đại Minh. Đó là mấy lời biện
hộ cho chính quyền Đại Thanh. Đạo thứ hai là biện hộ cho Ung Chính, nói về một
số hạng mục Tằng Tĩnh vu cáo Ung Chính, Tằng Tĩnh nói Ung Chính mưu cha, bức
mẹ, chém anh, giết em, tham tài, thích giết, sâu rượu, dâm sắc, giết trung. Hai
đạo đặc dụ được coi là lời biện hộ của “bị cáo” Ung Chính. Có điều đạo thứ nhất
được coi là lời trần thuật đại biểu pháp nhân của đế quốc, đạo thứ hai mới là
lời biện hộ cho bản thân Ung Chính.

Thứ hai “Phụng chỉ hỏi tin mười ba điều
khẩu cung của Tằng Tĩnh” ghi trong quyển một và “Phụng chỉ hỏi tin hai mươi tư
điều khẩu cung của Tằng Tĩnh” ghi trong quyển hai. Mười ba điều trước nhằm bác
bỏ quan điểm chủ yếu trong thư Tằng Tĩnh gửi Nhạc Chung Kỳ. Hai mươi tư điều
sau nhằm bác bỏ quan điểm chủ yếu trong “Tri tân lục” của Tằng Tĩnh. Những phê
phán này được tiến hành thông qua phương thức pháp quan (quan tòa) chất vấn và
hỏi cung, trong phiên tòa đặc biệt do đại thần cửu khanh nội các và bộ Hình tổ
chức. Những vấn đề pháp quan hỏi đều do Ung Chính chỉ định, với danh nghĩa là
thánh chỉ hỏi xuống, gọi là “chỉ ý hỏi ngươi”. Có điều, những vấn đề đó thực
không đơn giản. Có bài luận văn dài, thực tế là kiểm soát những quan điểm của
Ung Chính. Quan điểm nêu xong liền hỏi Tằng Tĩnh muốn nói gì không, vì thế có
khác gì là lời biện hộ trước tòa của Ung Chính và Tằng Tĩnh. Cách biện luận
trước tòa như vậy được coi là độc nhất vô nhị trên thế giới này. Bị cáo không xuất
hiện, pháp quan thay mặt bị cáo phát ngôn, đây là điều kỳ lạ thứ nhất. Bị cáo
khống chế pháp đình, pháp quan giống như con rối, đây là điều kỳ lạ thứ hai. Bị
cáo ra câu hỏi, nguyên cáo trả lời, thực chất bị cáo biến thành nguyên cáo,
nguyên cáo biến thành bị cáo, đây là điều kỳ lạ thứ ba. Nguyên cáo trả lời biện
giải, chỉ có thể tán thành quan điểm của bị cáo và phê bình mình hoặc biện giải
cho mình, đây là điều kỳ lạ thứ tư. Ngoài ra, biện luận của tòa trước sau đều
không có luật sư xuất hiện. Thời cổ đại Trung Quốc không có chế độ luật sư. Dù
có cũng không được mời. Ung Chính không cần mời luật sư, Tằng Tĩnh không có tư
cách nên cũng không dám.

Thứ ba, trong bản cung do đại thần bộ Hình,
Hàng Diệc Lộc tra hỏi Tằng Tĩnh, ý kiến thẩm lý của cửu khanh nội các về vụ án
này, đều được Ung Chính phê quyết định. Ở phần này Tằng Tĩnh là bị cáo, Ung
Chính biến thành pháp quan. Thượng dụ của Ung Chính và bản tấu của nội các được
coi là thảo luận về vấn đề phán quyết án do tòa án và pháp quan cao nhất hợp
tác.

Thứ tư, quá trình cải tạo tư tưởng và sự
thấu hiểu của bọn Tằng Tĩnh, Trương Hy bao gồm lời cung của họ và “Quy nhân
thuyết” - sáng tác mới của Tằng Tĩnh. Lúc này, Tằng Tĩnh và Trương Hy đã được
miễn xử hình sự, là phạm nhân đã cải tạo tốt.

Điều thú vị thứ nhất trong bốn phần trên là
biện luận trước tòa. Điều thứ nhất trong “Phụng chỉ hỏi tin mười ba điều khẩu
cung của Tằng Tĩnh” là rất thú vị. Nhắm thẳng vào lời vu khống chính quyền Đại
Thanh và hoàng đế Ung Chính, các thẩm phán
của phiên tòa đặc biệt đã thay mặt bị cáo (Ung Chính và đế quốc Đại
Thanh) đưa ra câu hỏi, “phụng chỉ hỏi ngươi: Trong thư ngươi gửi cho Nhạc Chung
Kỳ có nói đại loại là ai nên có chính quyền, ai nên là hoàng đế. Triều ta (chỉ
triều Thanh) tích công tụ đức, Thái Tổ Cao hoàng đế (Nỗ Nhĩ Cáp Xích) sáng
nghiệp, Thái Tông Văn hoàng đế (Hoàng Thái Cực) kế thừa, Thế Tổ Chương hoàng đế (Thuận Trị đế Phúc Lâm) dựng nước.
Đó là chí đạo thuận mệnh trời, theo lòng dân, thành công lớn, dựng nghiệp lớn,
tham hóa trời đất, tạo phép muôn đời. Ngươi sinh ở bản triều, lẽ nào lại không
biết liệt tổ liệt tông được mệnh trời, lòng dân theo, lại nói là: “Đạo nghĩa ở
đây, không được vi phạm mệnh trời”. Thế là thế nào? Nguyên cáo Tằng Tĩnh biện
giải nói: “Trọng phạm tày trời, (Tằng Tĩnh tự xưng) nói nhiều lời sai lầm. Từ
xưa, đế vương hứng khởi và đế vương tại vị đều là theo mệnh trời, được lòng
dân. Theo mệnh trời, được lòng dân từ đó mới hứng khởi, trị vì, đương nhiên là
đạo nghĩa. Trọng phạm tày trời sinh nơi hang núi bên Sở, làng ấp quê hương, gần
xa lại không có người là danh sĩ tại triều, cư dân thành thị lại quá xa, nên
không nghe được công tích của thịnh triều”. Tằng Tĩnh nói tiếp: Từ năm ngoái
(năm Ung Chính thứ sáu) bị giải về kinh, được nghe rộng nhìn xa, mới biết chân
long thiên tử hưng ở bờ biển Đông Hải, liệt tổ liệt tông thừa kế, không chỉ
Hán, Đường, Tống, Minh không thể so sánh mà truy về ba đời đã hưng thịnh như
Tây Chu. Nhưng ngay như Tây Chu cũng chỉ có hai vị thánh quân Văn vương, Vũ
vương được coi là “cực chí”, đâu có được như bản triều, “tầng lớp theo nhau,
mặt trời xa mặt trời lớn, càng lâu càng sáng”, đời sau mạnh hơn đời trước! Thái
Tổ Cao hoàng đế khai sáng cơ nghiệp, Thế Tổ Chương hoàng đế bao trùm trong
ngoài, Thánh Tổ Nhân hoàng đế (Khang Hy) tưới rải ân đức ra khắp bốn biển, đến
đương kim hoàng thượng của chúng ta (Ung Chính) càng là thông minh tuyệt đỉnh,
huy hoàng hơn trước, sáng tạo nên thái bình thịnh thế, khắp nơi non xanh nước
biếc, đạt tới đỉnh cao nhất trong văn minh lễ nhạc. “Đó chính là thiên mệnh,
lòng dân theo về, là đạo nghĩa đương nhiên, tham hóa trời đất, tạo phép muôn
đời, là long hội vận trời, văn minh”. Tằng Tĩnh biện giải lời cuối cùng: “Trước
đây, trọng phạm tày trời là ngu muội, không có ý nghĩ gì khác, không cần thách
thế từ bên ngoài”. Lời biện giải đã hết.

Lời biện giải được ghi lại đại thể là như
vậy.

Biện luận trước tòa như vậy “quả là độc
nhất vô nhị” trong sử Trung Quốc chỉ có một, trong sử thế giới chắc cũng không
có nhiều. Điều kỳ lạ đặc biệt không phải là bị cáo lớn tiếng mắng người, nguyên
cáo ậm ừ, thậm chí cũng không phải là nguyên cáo thu hồi lời buộc tội, chuyển
hướng rất nhanh, chuyển hướng rất mạnh - vốn khống cáo vương triều Thanh không
nên được thiên hạ, Ung Chính không nên là hoàng đế, lúc này lại nói vương triều
Thanh vượt qua Chu, Tần, Hán, Đường, Tống, Minh, Ung Chính là hoàng đế vĩ đại
nhất, mà đặc biệt là lý lẽ mà hai bên cùng sử dụng, người được lòng dân sẽ được
thiên hạ. Người thuận mệnh trời là chính thống, đó là tiền đề logic mà hai bên
đều thừa nhận. Từ đó, chỉ cần chứng minh vương triều Thanh thuận mệnh trời, Ung
Chính là hoàng đế được lòng người mới có thể chứng minh chính quyền và hoàng đế
Đại Thanh là hợp lý, hợp pháp. Nhưng nói như vậy, thì vụ kiện sẽ không có người
thắng, cũng không phải không có ai thắng mà cơ bản là vụ kiện không thành. Vì
được hay không được lòng dân không thể xác định được bằng cách trắc nghiệm ý
dân hoặc điều tra xã hội và thuận hay không thuận mệnh trời cũng là cách nói mơ
hồ. Vì vậy cả hai bên đều phải chọn con đường khác.

Logic của Ung Chính là: Tằng Tĩnh người
sinh ra ở bản triều, thì phải biết bản triều là thuận thiên mệnh và được lòng
dân, rõ ràng đây là lối cãi chày cái cối. Nếu sinh ra ở triều nào thì có thể
chứng minh triều đó là hợp lý, vậy ở thời đại Đức quốc xã, người Đức đều có thể
chứng minh Hitle “thuận mệnh trời được lòng dân”. Logic của Tằng Tĩnh cũng rất
buồn cười. Tằng Tĩnh nói phàm là vương triều vừa hình thành và quân vương đang
tại vị thì đều là thuận mệnh trời, được lòng người. Nói như thế vương triều
Thanh và Ung Chính không phải ngoại lệ. Vậy, vì sao nói vương triều vừa hình
thành, quân vương tại vị “đều là” thuận thiên mệnh và được lòng dân? Vì không
thuận mệnh thì không hình thành nổi, không được lòng dân thì không thể tại vị!
Đây là một lập luận nhân quả đảo lộn, và cũng là luận chứng tuần hoàn. Điều này
khiến chúng ta nhớ tới Enghen từng nhạo cười logic của những kẻ tầm thường ở
Đức: Phàm là cái hợp lý đều tồn tại. Tôi tồn tại, nên tôi hợp lý. Và nó cũng
như logic của một tên quân phiệt thời Dân quốc: Từ xưa, anh hùng đều háo sắc.
Ta háo sắc nên là anh hùng.

Trong “Đại nghĩa giác mê lục” luôn có những
kiểu logic hoang đường như vậy.

Thực ra, logic không quan trọng, quan trọng
là quyền được nói, có quyền không cho người khác nói, hoặc chỉ được nói theo ý
của mình, những điều vô lý cũng có thể nói thẳng ra. Đây là quyền nói. Có quyền
không cho người khác nói, hoặc chỉ được nói theo ý mình, những điều vô lý cũng
có thể nói thẳng ra. Đây là quyền lực Ung Chính muốn thể hiện cho mọi người rõ.
Quyền lực của đế vương chuyên chế luôn là thứ quyền lực tối thượng, có thể cho
người ta sống chết, cướp đoạt. “Vua muốn thần chết, thần không thể không chết”.
Có những điều không thể không nói, nhưng phải nói cho có “lý”. Nói cách khác,
rõ ràng là chuyên chế còn muốn ra vẻ thoải mái.

Là Ung Chính cũng thế, Tằng Tĩnh cũng thế,
luôn phải vắt óc tìm mọi thủ đoạn.

Ung Chính đã hao tổn bao tinh thần và cũng
thể hiện được đại trí đại dũng của mình. Từ hôm nhận được mật tấu của Nhạc
Chung Kỳ, Ung Chính tỏ ra vô cùng bình tĩnh. Ung Chính không nổi giận đùng
đùng, cũng không qua quýt cho xong, Ung Chính tĩnh tâm suy nghĩ, dày công vạch
ra “tính toán xuất thần”, coi chuyện nhỏ thành một bài văn hoành tráng. Bài văn
hoành tráng đó là: “Trẫm, hoàng đế Ung Chính không chỉ có thể trị lý sơn hà,
trị lý đất nước, còn có thể cải tạo tư tưởng, cải tạo con người”. Vì vậy, Ung
Chính hạ lệnh ưu đãi Tằng Tĩnh, đương nhiên là sau khi đã cho hắn tơi bời khói
lửa, chịu khổ chịu sở và sợ đến hồn xiêu phách lạc. Nhưng lúc thẩm vấn thì tươi
cười vui vẻ, nhẫn nại dắt dẫn, trên đường giải về kinh được ăn ngon ngủ yên, đi
từ từ, được ngắm nhìn cảnh tượng thái bình của đế quốc Đại Thanh, được thể
nghiệm ân trạch của Ung Chính tưới rải khắp nơi, sau khi đến kinh thành lại
được ở trong lầu cao biệt thự, sống cuộc sống thoải mái, để Tằng Tĩnh biết được
thế nào là cái hay của hối cải. Thậm chí Ung Chính còn cho Tằng Tĩnh đọc cả
những văn kiện cơ mật của triều đình, để Tằng Tĩnh thấy vị hoàng đế bị mình
nhục mạ cuối cùng là hôn quân, bạo quân hay vua nhân từ, vua khai sáng, xứng
đáng là vua.

Đúng như lời tự thuật, Tằng Tĩnh chỉ là tú
tài quản ngoài vùng biển xa xôi, nghèo khổ. Chưa từng trải, làm gì đã có điều
kiện nhìn rõ cuộc đời? Rất nhanh, Tằng Tĩnh đã bị Ung Chính vừa xoa vừa dọa,
thu phục hoàn toàn. Tằng Tĩnh không chỉ lật đổ hoàn toàn những điều tố khống đế
quốc Đại Thanh và hoàng đế Ung Chính, mà còn hạ quyết tâm thay đổi từ trong ra
ngoài, làm lại cuộc đời. Tằng Tĩnh nói mình trước kia là súc sinh, lúc này đã
chuyển thành thai người. Tằng Tĩnh khóc lóc tự xét lại nói trước kia mình lòng
dạ u mê, có mắt như mù, thân trong phúc mà không biết phúc, nhầm lẫn coi ân
nhân như kẻ thù, đáng phải chịu xả thây móc ruột. Nhưng dù có thế cũng cần phải
hết lòng hiếu của người con, hết lòng trung của triều thần. Nếu được hoàng đế
khoan dung thì Tằng Tĩnh nguyện đi khắp thiên hạ, đến từng nhà từng hộ để phê
phán những lời tà ma của Lã Lưu Lương và truyền bá thánh đức và nhân chính của
đương kim hoàng thượng.

Không thể nói Tằng Tĩnh đang giả dối. Không
phải vì bị bức cung để Tằng Tĩnh phải nói ra những điều đó. Nhưng những lời nói
đó có bao nhiêu là thật thì chưa rõ. Vì Tằng Tĩnh vốn chẳng có địa vị gì, ảnh
hưởng gì, học vấn tư tưởng cũng chẳng có bao nhiêu, cùng lắm chỉ là kẻ tiểu
nhân bồng bột, hung hăng, bắng nhắng. Tằng Tĩnh nói, chỉ bằng một cú có thể lật
đổ vương triều Đại Thanh, để Lã Lưu Lương hoặc mình lên làm hoàng đế, đúng là
thằng điên nói mơ. Anh chàng này vốn chẳng có gì là đáng giá, nên dù đã hối
hận, tỉnh ngộ cũng không đáng mấy. Nhưng vì Tằng Tĩnh đã làm mất mặt bao bậc
phụ lão nơi quê hương, vì vậy khi Tằng Tĩnh về báo cáo ở Hồ Nam, trong thành
Trường Sa đã có dán truyền đơn nặc danh, quyết tâm cướp Tằng Tĩnh từ trong phủ
quan và dìm xuống đầm cho đến chết.

Nhưng Ung Chính lại coi Tằng Tĩnh là bảo
bối. Điều này cũng là việc bất đắc dĩ: Là bảo bối như vậy sao! A Kỳ Na, Tắc Tư
Hắc, Niên Canh Nghiêu, Long Khoa Đa, họ rất có giá, nhưng liệu họ có chịu hối
cải không? Vả lại họ cũng không công khai đả kích Ung Chính, cũng không phủ
định chính quyền Đại Thanh. Họ chỉ muốn đoạt quyền và nắm quyền, họ không nói
chính quyền này là bất hợp pháp. Chẳng còn cách nào khác, đành phải bày gói
thịt chó của Tằng Tĩnh lên bàn tiệc. May được cái nhặng xanh cũng là thịt, có
dù sao vẫn hơn không có.

Vấn đề ở chỗ, vì sao Ung Chính cứ nhất
thiết phải có một điển hình về cải tạo tư tưởng?

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3