Luận Anh Hùng - Phần V - Chương 25 - phần 2
Ung Chính rất coi trọng việc dùng người, nhiều lần nói: “Trị thiên hạ, việc dùng người là cơ bản, việc khác chỉ là vụn vặt”. Đạo lý này không ít người đã hiểu, khẩu hiệu “tôn trọng nhân tài” đã được kêu gọi nhiều năm. Vấn đề không phải khó ở mức độ quan trọng của việc dùng người, mà khó là ở hai vấn đề sau: Dùng như thế nào? Và dùng ai? Trên thực tế, có thể quy kết thành một vấn đề: Thế nào là nhân tài?
Xưa nay thường có hai cách nhìn về vấn đề này. Hai cách nhìn đó lại có thể quy kết thành hai nguyên tắc, nguyên tắc đạo đức và nguyên tắc năng lực. Đức quan trọng hơn tài. Một người, nếu có tài không có đức, thì thà không dùng. Quan điểm đó sẽ dẫn tới hậu quả: “Thà nghe lời thùng cơm, không cần nghe lời người tài” hoặc “thà làm nô tài, không làm nhân tài”. Nguyên tắc năng lực lại chủ trương “có tài là dùng”. Chỉ cần có năng lực, tài cán, còn như bất nhân bất hiếu, cướp vợ người khác, nhận tiền người khác, không quan trọng. Hậu quả của chủ trương này không tránh khỏi văn nhân là vô hạnh, chẳng làm được gì, tiểu nhân thì cản đường. Đương nhiên, được mọi người thừa nhận và lý tưởng nhất là “đức tài gồm đủ”. Nhưng nếu không thể gồm đủ thì sao? Vậy thì cần đức hay cần tài?
Ung Chính chủ trương nên suy nghĩ vấn đề từ một góc độ khác. Ung Chính rất thích mấy câu nói của Ngạc Nhĩ Thái. Ngạc Nhĩ Thái nói: “Việc có khoan cấp, dễ khó; người có cứng mềm, ngắn dài”. Một người nếu không được dùng đúng chỗ, thì dù là người có năng lực cũng thành vô ích, và dù là người có đạo đức cũng có thể để nhỡ việc nước. Ngược lại, nếu được dùng đúng chỗ thì dù là người bình thường cũng có thể nên chuyện, hoặc là tiểu nhân cũng có thể làm tốt công việc. Tóm lại, sử dụng nhân tài phải đúng tài, đúng nơi, đúng việc và hợp thời thì nhất định sẽ là “quan không bỏ người, chính không nhỡ việc” (sắp xếp chức vụ không có người nào không dùng được, thi hành chính trị việc nào cũng làm xong). Lý lẽ rất đơn giản: Người và việc luôn có cái hay của riêng mình!
Như vậy là quá cao minh. Nhân sự, chẳng phải người và việc sao? Huống chi, mục đích dùng người là để làm việc. Cho nên, không thể khảo sát con người một cách cô lập, tách khỏi công việc. Làm như vậy thì không bao giờ có được kết luận chính xác. Rõ ràng, vấn đề không phải ở chỗ, ai làm ai không làm, mà là biết dùng hay không biết dùng. Như Chu Thức, học vấn tốt, làm người thì chính phái, hiền hòa thanh liêm chính trực, có phần thư sinh, Ung Chính để Chu Thức là thầy học của Hoằng Lịch. Lý Vệ ít học, cư xử thô lỗ, có dáng giang hồ, nhưng lại tinh anh, bạo gan nhanh nhẹn, Ung Chính cho đi bắt cướp. Kết quả hai người hành động rất tốt, tài và đức không hề mâu thuẫn. Nếu làm ngược lại, để Chu Thức đi bắt cướp, Lý Vệ là thầy giáo, e sẽ hồ đồ hết. Rõ ràng, nếu cứ bàn về đức tài một cách trừu tượng thì chẳng có ý nghĩa gì. Ngoài đức tài ra Ngạc Nhĩ Thái còn coi “việc” là một nguyên tắc để dùng người, như vậy là tương đối cao minh, đã giải quyết được một vấn đề khiến từng phải bàn cãi mãi.
Đương nhiên, không thể không nói tới hai chữ đức tài, nhưng Ung Chính thấy cần phải giải nghĩa lại. Trước thời Ung Chính, gồm cả hoàng đế Khang Hy, đế vương các thời đại đều lấy “Kinh ba chữ” của Tư Mã Chiêu làm chuẩn mực. Ba chữ ấy là thanh, thận, cần, cũng tức là thanh liêm, cẩn thận, cần mẫn. Ung Chính lại nghĩ khác. Ung Chính ở phiên đệ nhiều năm thấu hiểu chốn quan trường, nên đã đổi nội hàm của ba chữ này: Thanh biến thành vờ nghèo khổ, muốn sạch để cầu vinh; thận biến thành sợ việc, đùn đẩy sang người khác; cần biến thành vụn vặt, vì cái nhỏ bỏ cái lớn. Kết quả, có được một số thứ gọi là “thanh quan” mỹ danh “thanh thận liêm”, kỳ thực là “quan khéo”, “quan theo”. Bọn chúng chỉ biết sạch mình, không lo việc công, hoặc không phạm sai lầm lớn nhưng sai lầm nhỏ thì thường xuyên, tóm lại là không làm việc. Hoặc no nê suốt ngày, không để tâm đến chuyện khác; hoặc tụ tập suốt ngày, nói năng lung tung. Nhưng, vì họ hoặc tự nhận là thanh cao, hoặc nhát gan sợ việc nên không bị coi là tham ô hoặc phù phiếm, phù hợp với tiêu chuẩn của thanh và thận. Nếu lại chịu khó làm mấy việc lặt vặt thì còn được coi là cần. Thế rồi triều đình phát hiện thấy viên quan nào đó không xứng với chức phận, thậm chí chỉ là phường giá áo túi cơm nhưng không làm thế nào được.
Ung Chính muốn làm việc, muốn cải cách, đương nhiên, không thể chấp nhận thói hư, tật xấu đó. Vì vậy, Ung Chính mới đề ra tiêu chuẩn mới, là công, trung, liêm, năng. Bốn tiêu chuẩn này có sự nhất quán với nhau: Người trung quân báo quốc là công, người công và quên tư là liêm, và có lòng công, trung như vậy tất sẽ cần lao với việc của vua, từ đó là năng. Nếu có ai đó năng lực quá kém, có thể bồi dưỡng học tập thêm, hoặc điều đi làm việc khác. Tóm lại, một viên quan tốt, đồng thời, còn là trung thần, thanh quan, số còn lại có năng lực, không phải chỉ là thanh liêm, không phạm sai lầm, là giữ được bổng lộc, là quan thái bình. Ví như tri huyện Ngô Kiều là Thường Tam Lạc “luôn giữ liêm khiết” nhưng “nhu nhược không hăng hái” nên bãi bỏ chức tri huyện đổi thành học quan, không phải lo việc dân sự.
Hoàng đế Ung Chính thực sự có phần khác thường, ông hận quan tham, cũng hận loại quan tầm thường và đặc biệt căm ghét loại quan thủ cựu, chỉ lo giữ mình, ngồi làm bù nhìn, chỉ là “con rối bằng gỗ”, chẳng làm được gì. Ung Chính cho rằng, đất nước lập quan nhậm chức, không phải để làm chiếc thùng đựng cơm. Phàm những ai không xứng với chức vụ, bất lực với công việc, đùn đẩy, nhìn trước ngó sau, nhất nhất đều bị bãi miễn, nhường chỗ cho người có năng lực. Ung Chính nói: “Trẫm xưa nay dùng người, chỉ luận nhân tài”. Một người, chỉ cần trung thành, lại có tài năng, thế là đức tài gồm đủ. Còn như xuất thân, học vấn, là người Mãn hay Hán, đều không cần suy nghĩ. Thậm chí là người ít học, tác phong sinh hoạt có phần thiếu sót, cũng không hề gì. Như Lý Vệ, vốn là người ít học, chức viên ngoại lang bộ Hộ là bỏ tiền ra mua. Nhưng với chức quan nhỏ bé đó lại dám đối đầu với thân vương. Lúc Lý Vệ là lang trung, thân vương nào đó chủ quản bộ Hộ đặc biệt tham lam. Mỗi lần qua tay số tiền là một ngàn lạng bạc, người đó được hoa hồng là mười lạng, Lý Vệ bỏ đúng số tiền hoa hồng đó vào một chiếc hòm, để ngoài hành lang bộ Hộ, trên viết bốn chữ “Mỗ vương doanh dư” (Vương gia ta quá lãi), quan viên lớn bé qua lại đều nhìn thấy. Vị vương gia nọ cảm thấy rất khó xử, từ đó không dám “thu thêm”. Lý Vệ dũng cảm, nổi tiếng khắp kinh thành. Ung Chính biết tin, trong lòng đã có tính toán. Sau khi lên ngôi, lập tức cất nhắc, trọng dụng Lý Vệ. Năm đầu nhậm chức diêm đạo, năm thứ hai thăng là phiên ty, năm thứ ba là tuần phủ Chiết Giang, năm thứ tư là kiêm lý diêm chính Lưỡng Chiết, năm thứ năm nhậm mệnh tổng đốc Chiết Giang, năm thứ sáu kiêm lý đạo án Giang Tô, năm thứ bảy thêm hàm thượng thư bộ Binh, lại thêm hàm thái phó, cuối cùng là thượng thư bộ Hình và tổng đốc Trực Lệ, cứ thế từng bước thăng tiến.
Lý Vệ không ít tật xấu, nhất là tính nóng nảy, thô lỗ và vô lễ. Thấy cấp trên cứ luôn “Lão Cao”, “Lão Dương”, không gọi bằng quan chức; đối với cấp dưới, động một tí là mắng, lời lẽ thô tục. Vì vậy, không ít người tố cáo Lý Vệ. Ung Chính nói: “Lý Vệ thô lỗ phóng túng, ai chẳng biết, còn nhắc tới làm gì”, có ý muốn bảo vệ cho qua. Điền Văn Kính cũng là sủng thần, học lực không bao nhiêu, nhược điểm nhiều, vô số người đã công kích và bàn tán. Nhưng Điền Văn Kính không chỉ hết mực trung thành với nền chính trị Ung Chính, mà còn biết dốc hết sức vào công việc. Để thi hành chính sách mới của Ung Chính, Điền Văn Kính là người đắc lực nhất, bỏ công sức nhiều nhất, Ung Chính nói về Điền Văn Kính: “Xét quan an dân, trị tham trừ tệ, dốc hết tâm trí, không từ gian khổ, không tránh hiềm nghi”. Vì vậy Ung Chính kiên quyết ủng hộ Điền Văn Kính trong lúc khó khăn nhất và bất kể triều dã trên dưới lời ra tiếng vào về Điền Văn Kính, Ung Chính vẫn cất nhắc Điền Văn Kính tới chức tổng đốc Dự Lỗ.
Nghe nói, Doãn Kế Thiện từng bình về ba vị “tổng đốc mẫu mực” thời đó. Doãn Kế Thiện nói với Ung Chính: “Lý Vệ, thần học cái dũng của ông ta, không học cái thô lỗ; Điền Văn Kính, thần học cái chăm chỉ của ông ta, không học sự hà khắc; Ngạc Nhĩ Thái, về tổng thể là tốt, nhiều cái đáng học hỏi, nhưng thần cũng không học sự ương bướng của ông ta”. Rất đúng, sẽ không có vàng đủ độ vàng, sẽ không có người thực hoàn mỹ. Ung Chính dùng người, biết lấy sở trường bỏ sở đoản, khiến người ta được dốc tài, làm hết khả năng, người người đều được phát huy, Một vị quân chủ tầm thường không bao giờ làm được như vậy.
Ngày hai mươi lăm tháng mười một năm thứ tư (năm 1726), Ung Chính đã phê mấy câu, ý nghĩa rất sâu xa vào tấu chiết của tổng đốc Trực Lệ - Lý Phất. Ung Chính nói, ngươi còn rất xa mới sánh được với trẫm. Vì sao? Ngươi đọc nhiều sách hơn một chút, còn trẫm không chỉ đọc sách, còn “từng trải thế sự nhiều năm”, nên tình cảm hay lý trí đều có những điểm khác thường. Trẫm không phải là tự khoác lác bất tận, cũng không phải là quân vương tầm thường dựa vào quyền uy của đế vương áp chế thần hạ. Nếu tự thấy có thể “thuộc được mấy bài trần thuật, nhớ được mấy câu vô hồn trong sách” để xem thường trẫm, e sau này ngươi sẽ hối không kịp.
Ung Chính nói vậy là có nỗi khổ riêng của mình. Khang Hy cũng thế, Ung Chính cũng thế, đều là những người tự biết về mình. Trong lòng họ đều rõ, trong thâm tâm giới trí thức tộc Hán, họ là hoàng đế đế quốc Đại Thanh, họ là “loại man rợ” không có văn hóa. Họ đã chinh phục bằng vũ lực và bằng những thủ đoạn dã man, mới xây dựng nên đế quốc này. Và sau khi đã xây dựng xong, họ đã phải quay lại để học tập nền văn hóa của người bị chinh phục. Vì vậy, hoàng đế Đại Thanh và văn nhân tộc Hán mới có một quan hệ khá đặc biệt: Người trước là người thắng lợi về mặt chính trị, người sau lại có cảm giác ưu việt về mặt văn hóa. Không thể chinh phục được văn hóa nếu chỉ dựa vào vũ lực và cường quyền. Và văn hóa được truyền bá theo một quy luật: Người luôn muốn trèo cao, nước luôn chảy chỗ trũng, nền văn hóa có ưu thế không thể bị đồng hóa bởi nền văn hóa thấp hơn. Vì vậy, cả Khang Hy lẫn Ung Chính đều rõ, muốn được người ta tâm phục; muốn được giới trí thức tộc Hán thành phục, tất phải cùng bàn về văn hóa với họ.
Thực tế, trình độ văn hóa Hán của hai vị hoàng đế tộc Mãn từ lâu đã hơn hẳn một số nhân sĩ tộc Hán nói chung. Hơn nữa họ còn hiểu Mãn văn, Mông Cổ văn, lầu thông văn hóa Mãn, văn hóa Mông Cổ (Khang Hy còn có Tây học, học tập được nhiều thứ) nên lại càng hơn hẳn một số trí thức tộc Hán nói chung. Chỉ cần không có thành kiến dân tộc, đều phải thừa nhận họ có đủ tư cách là hoàng đế Trung Quốc, hoặc ít ra cũng là mạnh hơn hoàng đế thời Minh. Hoàng đế vương triều qua các thời đại ở Trung Quốc, thời Minh là yếu nhất. Không là hôn thì là bạo, hoặc là lười biếng, khá hơn một chút là bình thường. Khó khăn lắm mới có được người muốn làm việc thì khí số đã hết. Nhưng, mặc dù hoàng đế Khang Hy đã tỏ rõ lòng hâm mộ nền văn hóa Hán và trình độ văn hóa Hán của mình, nhưng tư tưởng một số người vẫn chưa chuyển biến kịp. Do đó Ung Chính cho rằng, nếu không để nền thống trị của Đại Thanh thâm nhập vào lĩnh vực văn hóa tư tưởng thì nền thống trị sẽ không bền vững.
Sau đó, Ung Chính đã làm hai việc: Một là, tôn Khổng; hai là, bàn về Phật.
Ung Chính tôn Khổng vượt qua mọi đế vương tiền bối. Ung Chính phong tiên nhân năm đời của Khổng Tử là vương, lệnh không phạm húy với Khổng Tử như với quân chủ, Ung Chính quỳ lạy trước bài vị của Khổng Tử. Đó là những việc mà ngay cả các bậc đế vương tộc Hán cũng chưa làm được. Hoàng đế xưng hiệu là “thiên tử”. Hoàng đế chỉ phải quỳ trước trời đất, tổ tông và cha mẹ. Ung Chính quỳ bái Khổng Tử coi như đã nâng Khổng Tử là ngang hàng với trời đất, cha mẹ vua, đương nhiên không còn gì tôn kính bằng.
Tư thế của Ung Chính rất cao. Trước đây, các bậc đế vương thời đại đi tuần thị Thái học, đều xưng là “hạnh học”, có ý là đế vương hạnh lâm học phủ. Ung Chính cho rằng, như vậy là bọn bề tôi tôn quân, nhưng “lòng trẫm vẫn chưa yên”, vì thế, mới đổi là “nghệ”, có ý bái phỏng, thỉnh giáo. Đế vương là bậc tôn quý nhất trong các vương triều thời đại. Bất luận là tới đâu cũng đều là đế vương tuần hạnh, người đời được chiêm ngưỡng. Riêng việc đến trường học thì không là “quang lâm chỉ đạo” mà là “bái phỏng thỉnh giáo”, điều đó không chỉ là sự tôn trọng đối với tri thức, với văn hóa, mà còn là sự tôn trọng đối với toàn thể phần tử trí thức, tự nhiên rất được lòng người. Mà được lòng người đọc sách trong thiên hạ là được nửa phần giang sơn văn hóa Trung Quốc.
Nhưng Ung Chính vẫn cho là chưa đủ. Ung Chính thấu hiểu, chinh phục lòng người đọc sách chẳng dễ dàng gì. Những việc làm nêu ở phần trên, có thể làm cho họ cảm động, chưa hẳn đã khiến họ phải bái phục, muốn được họ bái phục, còn phải đưa ra một ít “quả khô”. Thế là Ung Chính cùng bàn bạc với họ về Nho học. Ung Chính từng nói với các cử tử đến tham dự khóa thi: Lúc thường các ngươi đã hiểu gì về lễ nghĩa liêm sỉ? Hiểu được nghi văn lễ tiết, sẽ biết tiến thoái lui nhường, đó chỉ là “tiểu lễ”. Biết trọng nghĩa thủ tín, có thể thận trọng trong lời nói việc làm, đó cũng chỉ là “tiểu nghĩa”. Thi hành giáo dục dân chúng, thuần hóa phong tục, khiến người thiên hạ, là thần phải tận trung, là con phải tận hiếu, đây mới là “đại lễ”. Luôn thành thực, lo việc công, thẳng thắng chính trực, khiến người thiên hạ không đảng không tư, chung sức chung lòng vượt khó, mới là “đại nghĩa”. Đó là những lời nói cao xa và sâu sắc. Các sĩ tử lấy làm kinh ngạc, chỉ còn biết bái phục tự đáy lòng.
Ung Chính không chỉ bàn về Nho, mà còn bàn về Phật. Năm thứ mười một (1733), Ung Chính cho tổ chức Pháp hội ở trong cung và tự mình thuyết pháp, có thu nhận mười bốn môn đồ: Ái Nguyệt cư sĩ Trang Thân vương Doãn Lộc, Tự Đắc cư sĩ Quả Thân vương Doãn Lễ, Trường Xuân cư sĩ Bảo Thân vương Hoằng Lịch, Húc Nhật cư sĩ Hòa Thân Ngũ Hoằng Trú, Như Tâm cư sĩ Đa La Quận vương Phúc Bành, Thản Nhiên cư sĩ Đại học sĩ Ngạc Nhĩ Thái, Đăng Hoài cư sĩ Đại học sĩ Trương Đình Ngọc, Đắc Ý cư sĩ Tả đô ngự sử Trương Húc, Vãn Giác thiền sư Nguyên Tín Tuyết Hồng, Ngộ Tu thiền sư Minh Sở Sở Vân, Diệu Chính chân nhân Lâu Cận Viên, Tăng Siêu Thiện Nhược Thủy, Tăng Siêu Đỉnh Ngọc Huyền, Tăng Siêu Thịnh Như Xuyên. Trong đó có tám người tục (bốn thân vương, một quận vương, hai đại học sĩ, một ngự sử) và năm hòa thượng, một đạo sĩ. Ung Chính có hiệu là Phá Trần cư sĩ, còn là Viên Minh cư sĩ. Hoàng đế, vương công, đại thần, hòa thượng, đạo sĩ ngồi lại cùng nhau bàn về đạo, thực là việc hiếm thấy.
Kỳ thực, từ lúc còn ở phiên để, Ung Chính đã lễ Phật. Sau khi là hoàng đế, ngày bận trăm công ngàn việc, còn phải chú ý về mặt tinh thần các đại thần Nho học, nên bàn về Phật có ít hơn, nhưng một khi đã bàn thì không sao dứt ra được. Ung Chính đã từng kể một câu chuyện, Ung Chính nói với Niên Canh Nghiêu: “Ở kinh thành có đạo sĩ họ Lưu, từ lâu đã nổi tiếng, tự nói là đã mấy trăm tuổi, nhìn thấu kiếp trước của con người, nói ở kiếp trước, Di Thân vương cũng là một đạo sĩ. Trẫm nghe mà buồn cười và có nói với Di Thân vương, người ấy là đạo sĩ, ngươi cũng là đạo sĩ, đây có thể là duyên pháp trước kia của hai người. Có điều, trẫm vẫn chưa hiểu, cuối cùng vì duyên cớ gì, ngươi - một đạo sĩ lại đến làm việc cho hòa thượng như trẫm. Di Thân vương không trả lời. Trẫm lại nói, Phật thật, tiên thật, thánh nhân thật chính là chúng ta, đến gieo trồng thửa ruộng phúc cho chúng sinh. Số người không có sức mạnh đó thì “làm hòa thượng, đạo sĩ, ai nấy lập môn hộ, rất thuận tiện”. Ý muốn nói, hoàng đế Ung Chính tuy không xuất gia nhưng lợi hại hơn, công đức viên mãn hơn hòa thượng và đạo sĩ đã xuất gia. Ung Chính đâu chỉ là “hòa thượng”, “dã tăng”, mà đúng là “Phật sống”, “giáo chủ”.
Dưới gầm trời này vẫn còn một vị hoàng đế như vậy.
Cần phải thừa nhận, trình độ Nho học và Phật học của Ung Chính đều không thấp. So với số dung Nho và ngu tăng, Ung Chính không biết cao minh hơn bao nhiêu lần! Ung Chính đã nắm được tinh túy của Nho học và Phật học. Nho gia nói, “tu tề trị bình”, Phật gia nói “phổ độ chúng sinh”, nói đi nói lại cũng chỉ là để mọi người có cuộc sống tốt, để mọi người cảm thấy hạnh phúc? Cần phải gieo trồng mảnh ruộng phúc. Theo Ung Chính, mảnh ruộng phúc đó không nằm ở Tây phương tịnh thổ, mà nằm ở Đông thổ nhân gian. Vì lúc này Đông thổ đã có Thích chủ không là Thích chủ, Khổng Khâu không là Khổng Khâu. Người chủ đó không ai khác, mà chính là trẫm - hoàng đế Ung Chính Ái Tân Giác La Dận Chân.
Lúc này Ung Chính đã có đầy đủ về mặt tư tưởng (sùng Nho lễ Phật), về mặt tổ chức (cử hiền dụng nhân), về mặt chế độ (chính trị mật chiết), Ung Chính đã có thể ra tay vì đế quốc của mình.