Luận Anh Hùng - Phần V - Chương 23 - phần 1
III.
Quân thần như vậy
Niên Canh Nghiêu - một đại sủng thần vào
những ngày đầu Ung Chính lên ngôi, được sủng ái hết cỡ. Lúc ở đại doanh tây
bắc, Niên Canh Nghiêu tiêu tiền như nước, Ung Chính đáp ứng hết; Niên Canh
Nghiêu trực tiếp bổ nhiệm các quan, Ung Chính chuẩn y hết! Trên thực tế, Niên
Canh Nghiêu là tể tướng không có tướng vị, là Tây Bắc vương không có tước
vương, tháng mười hai năm thứ nhất (năm 1723), Ung Chính ban tặng Niên Canh
Nghiêu “đoàn long bổ phục”, Niên Canh Nghiêu được yêu mà thấy sợ, luôn hốt
hoảng không yên, vì “không một đại thần nào dám dùng”. Ung Chính đồng ý, nói:
“Cứ dùng đi! Đã có tiền lệ từ thời Thánh Tổ hoàng đế”. Việc quân ở Thanh Hải
báo tin vui, Ung Chính hưng phấn vô cùng, liền gọi Niên Canh Nghiêu là “ân
nhân”. Ung Chính còn nói: “Lần này khanh đã hết lòng, trẫm đã ngẩng mặt nhìn
trời đất thần minh, trẫm không biết mình phải thương khanh như thế nào?”. Ung
Chính còn yêu cầu “đời đời con cháu và thần dân thiên hạ” phải cùng mình một
lòng một dạ hàm ân Niên Canh Nghiêu, còn nói: “Nếu có chút khác lòng, đều không
phải là con cháu của trẫm; nếu có chút khác lòng, đều không còn là thần dân
trong triều của trẫm”. Lại nhìn trời mà thề, lại dặn dò con cái, lại huấn thị
thần dân, Ung Chính ân sủng Niên Canh Nghiêu đã đến cực điểm.
Còn một sủng thần được sủng ái đặc biệt nữa
là Long Khoa Đa. Long Khoa Đa lúc đầu chỉ là thượng thư, địa vị không cao. Chỉ
vì tuyên chiếu có công, nên chỉ trong vòng một đêm đã được thăng tiến, là tổng
lý sự vụ đại thần, có thể ngang hàng với Liêm Thân vương Doãn Tự, Kháp Thân
vương Doãn Tường, đại học sĩ Mã Tề. Doãn Tự và Mã Tề là đối tượng lợi dụng,
Doãn Tường và Long Khoa Đa mới là đối tượng dựa dẫm. Cho nên, sau khi Khang Hy
tạ thế được chín hôm, Ung Chính ban tặng Long Khoa Đa hàm công tước, hai hôm
sau lại hạ lệnh gọi là “cậu”. Nói về quan hệ thân thích, Ung Chính và Long Khoa
Đa có quan hệ là cậu cháu (Long Khoa Đa và hoàng hậu Đồng Giai Thị của Khang Hy
là anh em đằng ngoại). Nhưng hoàng gia khác với dân gian, quan hệ cậu cháu phải
được hoàng đế thừa nhận mới được tính. Cho nên chức vị này cũng coi là được
phong, không phải là đương nhiên mà có. Ung Chính còn đội lên đầu Long Khoa Đa
chiếc mũ cao ba đỉnh: “Trung thần của Thánh Tổ hoàng đế, công thần của trẫm,
lương thần của đất nước”, còn nói Long Khoa Đa là “đại thần chân chính hiếm
hoi, siêu quần nổi trội bậc nhất của thời đại”. Ở triều Khang Hy, Long Khoa Đa
không có cống hiến nổi bật, sao được gọi là “trung thần của Thánh Tổ”? “Lương
thần của đất nước” cũng không có nhiều căn cứ, tôn vinh là “đại thần hiếm hoi”
càng không biết nói từ đâu. Nói tới cùng, chỉ có câu nói “là công thần của trẫm”
là đúng, vì Long Khoa Đa có công dựng nên ngôi vị hoàng đế. Để ghi công cho
công thần, hoàng đế đã không tiếc bao lời hay ý đẹp. Ung Chính đúng là một
“hoàng đế hiếm hoi” bậc nhất xưa nay.
Nhưng hai vị Niên, Long bị hạ bệ cũng là
việc hiếm hoi. Tháng tư năm thứ mười một (năm 1725), Niên Canh Nghiêu vô duyên
vô cớ bị cách chức Xuyên Thiểm tổng đốc và Phủ Viễn đại tướng quân, đi nhậm
chức Hàng Châu tướng quân. Tháng bảy bị cách hàm tướng quân. Tháng chín bị bắt
giam vào ngục. Tháng mười hai, với tám tội lớn: Đại nghịch, lừa dối, vượt
quyền, ngông cuồng, chiếm đoạt, tham lam, rút của công, khe khắt, gồm tám mươi
hai khoản, hạ lệnh tự tận. Long Khoa Đa sau khi bãi quan lần này đến lần khác
đã bị bắt vào tháng sáu năm thứ năm (năm 1727). Tháng mười, với sáu tội lớn,
đại bất kính, lừa dối, thân loạn triều chính, gian đảng, bất pháp, tham lam,
gồm bốn mươi mốt khoản, bị phán xử tù chung thân, và tháng sáu năm sau đã chết
tại nhà giam. Hai vị quyền thần sủng thân hiển hách một thời đã phải tan cửa
nát nhà, thân bại danh liệt trong một khoảnh khắc, ngay cả những người bàng
quan cũng phải kinh hoàng thất sắc, vô cùng kinh ngạc.
Cũng vậy, việc xử trị Tiền Danh Thế cũng
khiến mọi người kinh ngạc và thấy khó hiểu. Tiền Danh Thế tự Lượng Công, người
Vũ Tiến, Giang Nam, cùng trúng cử với Niên Canh Nghiêu vào năm Khang Hy thứ ba
mươi tám (năm 1699), coi là “đồng niên”. Lần này thành “đồng án” với Niên Canh
Nghiêu. Tiền Danh Thế phạm tội vì đã làm thơ tâng bốc Niên Canh Nghiêu. Niên
Canh Nghiêu công cao cái thế, quyền nghiêng triều dã, không ít người đã tâng
bốc, trong số đó có cả hoàng đế Ung Chính. Nhưng Ung Chính có thể trở mặt không
nhận người, Tiền Danh Thế thì không, chỉ có thể để mặc Ung Chính xử trí, và
cách xử lý của Ung Chính lại là kiểu “tính toán xuất thần”. Tiền Danh Thế cho
rằng, trừng phạt phải có tính đối xứng, người sợ đau thì cho đánh vào mông;
người sợ chết thì cho chặt đầu; người thích tiền thì cho tịch biên gia sản;
người thích leo cao thì bãi quan chức. Những cách trừng phạt này đều không
thích hợp với văn nhân. Điều quan trọng nhất với văn nhân là thanh danh. Bãi
quan của một người, người đó sẽ nói, ta cũng đang muốn ẩn cư ở sơn lâm; chặt
đầu một người, người đó sẽ nói, ta cũng đang muốn ghi danh thiên cổ; đầy ra
Ninh Cổ Tháp, đảo Hải Nam, người đó sẽ nói, ta hẳn sẽ có nhiều tài liệu để làm
thơ, như thế, chẳng phải đã tác thành cho người đó sao?
Biện pháp của Ung Chính là để tiếng xấu lan
truyền rộng, tội danh còn lại thiên cổ, suốt đời không ngóc đầu lên được. Đồng
thời với việc hạ lệnh cách chức Tiền Danh Thế, đuổi về quê quán, Ung Chính còn
thêm: 1. “Ban” cho mấy chữ, 2. Lệnh các quan kinh thành xuất thân cử nhân tiến
sĩ làm thơ đưa tiễn. Hoàng đế ban chữ cho quan viên là việc từ xưa đã có. Quan
viên được “ngự bút mực ngọc” là được ân sủng và vinh hạnh lớn lao, chữ được làm
thành biển, treo ở trước cửa hoặc ở gian chính, tổ tiên được thơm lây. Quan
viên bị giáng, đồng liêu tiễn đưa, cũng là lệ thường từ xưa, để tỏ rõ “người
còn tình còn, người mất tình vẫn còn”, chưa đến nỗi “người vừa đi thì trà đã
lạnh”. Như vậy, về mặt tư tưởng là tương đối tốt, về quan điểm tư tưởng cũng
tương đối gần gũi. Còn việc làm thơ đưa tiễn, nếu không phải là mấy câu oán
than thì cũng là những lời an ủi, giống như “Đừng lo đường tới không tri kỷ,
Thiên hạ ai người chẳng biết anh”, hoặc “Khuyên chàng hãy cạn chén mời, Dương
quan ra khỏi ai người cố tri!”. Nhưng lần này lại rất “xuất thần”. Ung Chính đã
ban cho bốn chữ “Danh giáo tội nhân”, nho sinh thường lấy việc giữ gìn danh
giáo làm nhiệm vụ, làm sinh mạng, Ung Chính gọi Tiền Danh Thế là “Danh giáo tội
nhân”, ngang như muốn đòi mạng về mặt tinh thần, tâm lý, cũng như vu khống một
thanh quan thành ô lại, tiết phụ trở thành con điếm. Vấn đề là ở chỗ, người
khác bị vu khống còn có thể biện giải, còn Tiền Danh Thế thì không. Không chỉ
không thể biện giải mà còn phải treo bốn chữ đó ngay trước cửa, để mọi người
đến xem, chỉ chỉ trỏ trỏ, bàn luận và cười nhạo. Còn như thơ đưa tiễn của các
quan kinh thành chỉ có thể là những lời phê phán, châm chọc, trong đó Ung Chính
thích nhất là bài của Trần Vạn Sách “Danh thế dĩ đồng Danh Thế tội, Lượng Công
bất dị Lượng Công gian”. Ý muốn nói, Tiền Danh Thế cùng tội với Đới Danh Thế
(người này mắc tội vì viết một thiên tự văn), Tiền Lượng Công cùng gian như Chu
Lượng Công (Niên Canh Nghiêu tự là Lượng Công), hơn bốn trăm bài thơ phê phán,
châm biếm được soạn thành một tập thơ, do Tiền Danh Thế lo việc khắc in, phân
phối đến học đường các tỉnh, hòng răn đe loại “văn nhân vô sỉ”. Điều này chẳng
khác gì muốn Tiền Danh Thế tự bạt vào tai mình, tự mắng vào mặt mình, tự móc
tiền ra cho người khác chửi mình. Nghe nói, lúc Tiền Danh Thế rời khỏi kinh
thành có hơn một ngàn viên quan vác biển tiễn đưa, bốn trăm tám mươi người làm
thơ sỉ nhục, hàng vạn quần chúng vây xem. Sĩ diện của văn nhân mất sạch, đúng
là “tri thức sa đọa”.
Việc làm của Ung Chính có phần thái quá.
Con người Tiền Danh Thế có thể là “văn nhân vô sỉ”. Nghe nói, thường ngày phẩm
hạnh Tiền Danh Thế không tốt, trong lúc tu sửa sử Minh đã lấy cắp bản thảo của
thầy giáo mình là Vạn Tư Đồng. Lúc Vạn Tư Đồng tạ thế, lại nhân việc sắp xếp
tang lễ cho thầy đã cướp trắng chục vạn bản tàng thư của thầy. Nhưng hành vi
lần này chưa hẳn đã vô sỉ hơn. Huống hồ Tiền gia là thư hương môn đệ, danh môn
vọng tộc, năm đời bảy tiến sĩ, nổi tiếng ở Vũ Tiến, Giang Nam. Bản thân Tiền
Danh Thế cũng xuất thân từ “Thám hoa lang” thế mà phải treo tấm biển có bốn chữ
“Danh giáo tội nhân” trước cửa dinh thự tổ tiên, không chỉ tổ tiên bị nhục, bản
thân bị mất mặt, mà con cháu cũng không ngóc đầu lên được. Sĩ có thể giết không
thể chịu nhục, Tiền Danh Thế nhục nhã đến nhường ấy thực sống không bằng chết.
Đương nhiên, ít nhiều tội danh là do Tiền
Danh Thế tự chuốc lấy, ai bảo lại đi ôm chân thối của Niên Canh Nghiêu? Tiền
Danh Thế cần phải tiếp nhận những lời giáo huấn. Là văn nhân, nếu dấn thân vào
chốn quan trường thị phi thì khó giữ được thanh danh tiết tháo của mình. Nên
tốt nhất là văn nhân hãy tránh xa những gì là công danh lợi lộc, vậy mới có thể
giữ được sự yên tĩnh và thanh bạch của đời mình và không cần đến cách giáo huấn
như của Ung Chính. Người xưa nói, đánh người không đánh vào mặt, làm thương
người không làm thương tâm. Ung Chính trừng trị Tiền Danh Thế bằng cách đánh
vào mặt, làm thương tâm, người ta không thể tâm phục điều đó, chỉ cảm thấy Ung
Chính quá cay nghiệt, khắt khe.
Đúng là Ung Chính quá khắt khe. Ung Chính
thích chụp mũ người khác, thích chỉnh trị người khác bằng cách đánh thẳng chiếc
mũ đó vào mặt. Như việc Ung Chính tự tay đề chữ trên bia mộ của A Linh A và Quỹ
Tự là phe đảng của Doãn Tự. Văn bia của A Linh A là “Bất thần bất đệ bạo hãn
tham dung A Linh A chi mộ”, bia mộ của Quỹ Tự là “Bất trung bất hiếu âm hiểm
nhu nịnh Quỹ Tự chi mộ”. Ngay người đã chết Ung Chính cũng không tha thì đâu có
bỏ qua cho Tiền Danh Thế? Vì vậy, Ung Chính không chỉ đề biển mà còn lệnh cho
tri phủ Thường Châu, huyện lệnh Vũ Tiến cứ mùng một, mười lăm hàng tháng đến
xem tình hình treo biển ở cửa dinh thự thế nào. Cũng tức là muốn nêu sự sỉ nhục
của Tiền Danh Thế như đinh đóng cột, còn muốn đinh đóng cho đến chết.
Kỳ thực, chưa cần nói tới “tội nhân” như
kiểu Tiền Danh Thế hoặc “gian thần” kiểu như A Linh A, mà ngay cả số quan viên
phạm sai lầm nhỏ, Ung Chính cũng không buông tha. Sau khi đề đốc (tư lệnh quân
khu tỉnh) Trương Diệu Tổ bị cách chức, còn bị phạt ra dốc sức trước ba quân.
Trương Diệu Tổ dâng tấu tạ ân, nói: “Không dám mang trách nhiệm lãnh binh”. Ung
Chính có lời phê: “Ngươi đã phụ bỏ trách nhiệm của lãnh binh, còn mặt mũi nào
để nói câu đó? Lại có sai sót, còn có cách gì để sống trên đời này nữa? Lúc
trẫm viết mấy chữ này, luôn thấy buồn vì bút son cứ tắc tắc không thông, “chưa
biết ngươi có suy nghĩ gì”. (Một phạm quan mông muội được xử lý khoan dung,
dâng sớ tạ ân cũng là thường tình). Chỉ vì nói năng không hợp ý, liền bị như
một bạt tai, đành nhận mình là đen đủi. Còn một viên quan nữa là Mao Khắc Minh
cũng rất đen đủi. Ung Chính bổ nhiệm Mao Khắc Minh làm giám đốc hải quan, Khắc
Minh dâng sớ tạ ơn, do hưng phấn quá mức, nên đã cầu xin Ung Chính “cho thêm
lời dạy sáng suốt”. Nào ngờ, như bị dội một gáo nước lạnh, Ung Chính nói, trẫm
đã cất nhắc ngươi đến chức đô thống, ngươi còn muốn chỉ thị gì nữa? “Nếu làm
việc với cả lương tâm, thì tiền không quan trọng bằng sinh mạng và thể diện”,
với hai câu nói “ngôn ngữ thô tục”, người có thể làm được gì thì làm. Không làm
được thì có tác dụng gì “so với ngàn vạn câu nói văn hoa mĩ miều của bạn?”. Mao
Khắc Minh tự chuốc lấy sự không vui, chỉ còn biết cảm thán về Ung Chính - một
ông chủ rất khó hầu hạ.
Thậm chí, ngay cả một người được Ung Chính
tín nhiệm trọng dụng, một khi có sơ suất cũng bị ngọn bút đỏ trong tay Ung
Chính châm cho lòng dạ phải chảy máu. Tháng mười hai năm thứ tư (năm 1726),
chiêm sự Trần Vạn Sách (chính là người làm thơ châm chọc Tiền Danh Thế, được
Ung Chính thích thú và thưởng cho hai mươi lạng vàng) về tới quê. Muốn cho ra
vẻ Trần Vạn Sách đã mượn và dùng kiệu, nghi trượng của đề đốc lục lộ Phúc Kiến
Đinh Sĩ Kiệt (tương đương tư lệnh lục quân). Sau khi biết tin, Ung Chính rất
tức giận, cho rằng Đinh Sĩ Kiệt đã nịnh bợ và giao Đinh cho bộ Hộ nghị xử. Đinh
Sĩ Kiệt là quan cao cấp hàng nhất phẩm, còn Trần Vạn Sách chỉ là quan tứ phẩm,
việc gì Đinh Sĩ Kiệt phải nịnh bợ? Chỉ là nể mặt mới cho Trần mượn kiệu và nghi
trượng. Vì vậy, Đinh Sĩ Kiệt mới dâng sớ để biện hộ cho mình. Nhưng lại bị Ung
Chính giáng cho một đòn như sét đánh ngang tai, lại là “cực kỳ vô sỉ”, lại là
“táng tận thiên lương”, mắng đến đoạn không ngẩng đầu lên được. Đinh Sĩ Kiệt tự
cho mình là thanh bạch, không dám lừa dối, không dám săn đón, bút đỏ của Ung
Chính đã phê, ngươi đúng là kẻ dối trá, săn đón. Đinh Sĩ Kiệt nói, xưa nay chưa
hề phụ họa với cấp trên, Ung Chính lại phê, ngươi không phụ họa với cấp trên,
ngươi chỉ biết phụ họa với khâm sai, với quan kinh thành! Cuối cùng thì Ung
Chính đã phê: “Biểu hiện ngu tiện tiểu nhân lộ rõ, bốn chữ “ti tiện vô sỉ” đáng
để răn đe, khiến người ta không thể không nhổ nước bọt!”. Đinh Sĩ Kiệt không
phải cho Trần Vạn Sách mượn kiệu sao? Thế nào là “cực kỳ vô sỉ”, “táng tận
thiên lương”? Chẳng phải chỉ tự biện bạch mấy câu sao? Thế nào là “ti tiện vô
sỉ”, “khiến người ta phải nhổ nước bọt?”. Ung Chính đã quá cứng rắn!
Nhưng mười mấy hôm sau, Ung Chính lại phê
vào bản tấu của Đinh Sĩ Kiệt báo về tình trạng kho tàng ở Phúc Kiến: “Xem tấu,
trẫm rất vui! Mọi thứ vẫn như cũ, không giấu giếm, vẫn như lần đầu báo trẫm.
Thôi khỏi! Trẫm vui mừng vì ngươi còn biết lập chí!”. Sau này, Ung Chính còn
phê vào bản tấu tạ ân của Đinh Sĩ Kiệt: “Trẫm vì ngươi xưa nay không giấu giếm,
nên muốn ngươi trước sau như một”. Lúc này, Đinh Sĩ Kiệt đã biến thành “xưa nay
không giấu giếm”, “lập chí đáng vui”. Rõ ràng là lời phê trước, sau có phần
khác nhau, thật khó hiểu.
Điều khó hiểu nhất là “tính toán xuất thần”
với Dương Danh Thời. Dương Danh Thời vốn là thượng thư bộ Lại, tổng đốc Vân Quý
kiêm tuần phủ Vân Nam, tháng ba nhuận năm thứ năm (năm 1727), bị miễn chức, tạm
thời thay tuần phủ Vân Nam. Khi đó, Dương Danh Thời dâng tấu xin dùng một số
ngân lượng dư ra trong ngành dịch vụ muối để tu sửa kênh Tuấn Nhĩ Hải. Đó là
việc tốt lợi nước lợi dân, không hề sai lầm, nhưng Ung Chính đã cười nhạt và hạ
lệnh, Dương đại nhân đã quan tâm quốc kế dân sinh, quyết tâm tạo phúc cho địa
phương, vậy xin đại nhân cứ bỏ tiền ra mà tu sửa. Đời ngài sửa chưa xong, thì
con cháu ngài sửa tiếp, mong sao con con, cháu cháu các ngài chưa đến đoạn cùng
kiệt. Sau này, Chu Cương - người kế nhiệm tuần phủ Vân Nam, tấu báo ngân lượng
trong kho phiên đã rỗng không. Ung Chính nói, tiền lương rỗng không là việc của
Thường Đức Thọ (Vân Nam phiên ty). Có điều Dương Danh Thời thân là tuần phủ lại
không cử báo, hẳn là vui lòng chịu trách nhiệm thay Thường Đức Thọ đây! Tốt
thôi, vậy Dương Danh Thời phải bồi thường khoản tiền đó, không liên quan đến
Thường Đức Thọ. Người có trách nhiệm vô trách nhiệm, không cử báo lại là người
có tội, trong thiên hạ này làm gì có đạo lý đó? Lần này, Ung Chính “tính toán”
thật xuất thần, xuất thần tới mức kỳ quặc cổ quái.
Những sự “tính toán xuất thần” của Ung
Chính luôn bị mọi người coi là quá khắt khe. Ung Chính trị lý quá nghiêm, khiến
mọi người phải lạnh gáy. Tuần diêm ngự sử Trường Lô là Trịnh Thiền Bảo, người
nổi tiếng vẫn chưa được trọng dụng. Nhưng vì chưa kết thúc công việc, nên Ung
Chính để Trịnh Thiền Bảo lưu nhiệm thêm một năm. Trịnh Thiền Bảo dâng sớ tạ ân,
Ung Chính đã cho một đòn giáng thẳng vào mặt. Ung Chính phê: “Trò của ngươi nay
đã lộ, cẩn thận đấy!”. Tính mạng ngươi và cả nhà ngươi đang ở đây. Ngươi thấy
trẫm nói khống để dọa ai chưa? Đã xử lý ai biết mà sửa chưa? Khoan dung với ai
biết mà không sửa chưa? Hãy mở to mắt, tĩnh sửa lòng mình, đừng đem ân đức mưa
móc tưới rải trên đống phân, kẻo phải hối tiếc”. Lời lẽ thực ghê gớm, khiến cho
Trịnh kia hồn xiêu phách lạc.
Vì vậy, không ít người cho Ung Chính ít ân
đức, khắt khe, buồn vui thất thường, người khác lại nói, Ung Chính bạo ngược
cùng cực, tâm địa hẹp hòi. Kỳ thực không phải thế. Ung Chính không phải người
động một tí là giận, cũng không phải gặp người là mắng. Phần sau sẽ còn nói
tới. Ung Chính mắng người, dạy người, chỉnh trị người, nhưng cũng biết thương,
biết yêu, biết khoan dung người khác. Ung Chính khắt khe nhưng ân không ít,
không buồn vui thất thường. Người bị Ung Chính mắng chửi, có người mắng nhầm
(như Đinh Sĩ Kiệt), có không ít người thật đáng mắng. Chỉ khác là, ở với một
hoàng đế khác thì không nhất định sẽ bị mắng.

