Luận Anh Hùng - Phần IV - Chương 17 - phần 1 (Hải Thụy)

Phần IV: HẢI THỤY

I. Quan nhiều lần bị bãi quan

Hải Thụy là quan thanh liêm. Nhưng được nổi
tiếng là thanh liêm vì luôn bị bãi quan.

Rất nhiều người Trung Quốc trên bốn mươi
lăm tuổi hiện nay đều biết tích “Hải Thụy bãi quan”. Năm 1966, người ta lấy
việc phê phán vở kịch mới về lịch sử “Hải Thụy bãi quan” làm ngòi nổ, dẫn tới
cuộc “Đại cách mạng văn hóa” “chưa từng có trong lịch sử”. Đương nhiên, dù có
hay không có Hải Thụy trong lịch sử và có thực Hải Thụy bị bãi quan hay không
thì cái gọi là “Đại cách mạng văn hóa” vẫn nổ ra. Có điều, bằng cách đó người
người nhà nhà đều biết về Hải Thụy. Mỗi lần nói đến Hải Thụy là nghĩ ngay đến
bãi quan.

Con người Hải Thụy có duyên với bãi quan.
Hải Thụy trải qua bốn triều vua: Chính Đức, Gia Tĩnh, Long Khánh, Vạn Lịch. Từ
ngày mười tháng mười hai (năm 1554) năm Gia Tĩnh thứ ba mươi hai là làm giáo dụ
(một loại học quan cấp thấp, ở huyện Nam Bình, phủ Diên Bình, Phúc Kiến) đến
ngày mười bốn tháng mười (năm 1587) Vạn Lịch năm thứ mười lăm, ốm chết khi đang
là hữu đô ngự sử của đô sát viện Nam Kinh. Hải Thụy có nửa cuộc đời lăn lộn nơi
quan trường, trong thời gian đó có mấy lần bị bãi quan hoặc xin từ quan. Riêng
trong hai năm làm quan ở Nam Kinh đã có hơn bảy lần cáo lão về quê; có một lần
được nhàn rỗi nhất là mười sáu năm. Cứ thế mà tính, thấy Hải Thụy có ba mươi ba
năm lăn lộn nơi quan trường thì một nửa thời gian là bị bãi quan. Nếu tính một
cách chính xác hơn và lấy việc Hải Thụy bắt đầu được làm trưởng quan hành chính
địa phương, là làm tri huyện Thuận An, Chiết Giang (năm 1558, năm Gia Tĩnh thứ
ba mươi bảy) là khởi điểm, thì thời gian làm quan còn ngắn hơn và hơn nửa thời
gian là bị bãi quan.

Có điều Hải Thụy vừa bị bãi vừa được thăng,
và một lần bãi một lần thăng, quan chức ngày một cao. Lần thứ nhất bị bãi quan
vào năm Gia Tĩnh thứ bốn mươi mốt (năm 1562), bị miễn chức tri huyện Thuần An
(quan thất phẩm), nhưng lại mau chóng được điều về huyện Hưng Quốc, phủ Cống
Châu, Giang Tây, nửa năm sau được thăng lên chức ty chủ sự ở lô Hộ, Vân Nam,
quan địa phương thành quan tỉnh, từ thất phẩm thăng lên lục phẩm. Lần thứ hai
bãi quan là năm Gia Tĩnh thứ bốn mươi lăm (năm 1566), lần này dài đến mấy tháng
và còn phải vào tù. Sau khi ra tù được phục nguyên chức, về sau đổi là chủ ty
chủ sự của võ khố, bộ binh, lại điều tiếp làm ty thừa ty thượng bảo (quan lục
phẩm), rồi tự thừa đại lý tự (quan ngũ phẩm), hữu thông chính ty thông chính
(quan tứ phẩm), cuối cùng thăng lên hữu thiên đô ngự sử (quan tam phẩm), khâm
sai tổng đốc lương đạo, tuần phủ mười phủ Ứng Thiên, trở thành quan lớn nơi
biên cương. Lần thứ ba bãi quan là năm Long Khánh thứ tư (năm 1570), lần này
phải mười sáu năm sau mới lại xuống núi, trước hết là khôi phục lại chức hữu
thiên đô ngự sử Nam Kinh, trên đường đi nhận chức lại được thăng là hữu thị lang
lại bộ Nam Kinh, năm sau (năm Vạn Lịch thứ mười bốn, tức năm 1586), thăng làm
hữu đô ngự sử đô sát viện Nam Kinh (quan nhị phẩm) trở thành quan viên cao cấp
của vương triều Đại Minh. Lúc này, Hải Thụy đã là ông già bảy mươi ba tuổi, và
học lực cũng như công danh của Hải Thụy chỉ là một cử nhân.

Điều đó khiến việc làm quan của Hải Thụy
mang sắc thái huyền thoại. Và có một điều mà chúng ta vẫn chưa hiểu, cuối cùng
Hải Thụy thuộc loại quan nào, tốt hay xấu. Nếu là quan tốt thì vì sao lại bị
bãi miễn như vậy? Nếu là quan xấu thì vì sao lại được thăng hết lần này đến lần
khác? Hoàng đế cũng được, quan trường cũng được, vậy họ thích hay không thích
Hải Thụy?

Nếu đánh giá Hải Thụy theo tiêu chuẩn thông
thường của người dân Trung Quốc khi nhìn nhận quan tốt hay xấu thì Hải Thụy
đương nhiên là quan tốt. Tiêu chuẩn đó là thanh liêm. Hải Thụy thanh liêm ai ai
cũng biết và đó hoàn toàn là sự thật. Trong những năm cuối đời, Hải Thụy là hữu
đô ngự sử (giám sát bộ trưởng(1)) quan nhị phẩm, thế nhưng số tiền tích cóp được
không đủ để làm lễ tang, phải nhờ vào sự giúp đỡ của đồng liêu. Một người làm
quan đến hết đời mà không lo nổi hậu sự, được coi là “trong nhìn thấy đáy”.

(1)
Theo chế độ thời Minh, cơ quan giám sát trung ương là đô sát viện. Quan viên có
4 cấp: Đô ngự sử, đô phó ngự sử, thiên đô ngự sử, giám sát ngự sử. Trưởng quan
tối cao là tả, hữu đô ngự sử.

Có ba cách nói về số di sản Hải Thụy để
lại: Một là, nhiều người nói, còn lại một trăm năm mươi mốt lạng bạc trắng, gấm
vóc mỗi thứ một súc. Hai là, một số người nói, “xem lại toàn bộ thấy có tám
lạng vàng, một cuộn vải trắng, một ít quần áo cũ”. Ba là, người trong nhà nói,
còn hai mươi lạng bạc trắng. Một con số quá nhỏ so với con số một trăm năm mươi
mốt lạng. Người đời thường nói: “Tri phủ ba năm thanh liêm cũng có được mười
vạn lạng bạc hoa tuyết”, mà tri phủ chỉ là quan tứ phẩm. Hơn trăm lạng bạc chưa đủ con số lẻ của gia
sản bất cứ viên quan nhị phẩm nào, chưa nói tới Nghiêm Tung - vị quan gian. Năm
Gia Tĩnh thứ bốn mươi mốt (năm 1562), Nghiêm Tung bị hạ bệ, lúc khám nhà, riêng
số bạc trắng đã có hơn hai trăm vạn lạng. Từ đó mới thấy danh tiếng Hải Thụy
thanh liêm là có thực và là điều rất đáng quý.

Điều đáng quý hơn nữa là, Hải Thụy trước
sau như một, giữ vững sự trong sạch của mình. Trên mâm cơm của Hải Thụy - lúc
đã là tri huyện, chỉ có rau cỏ, những thứ mà Hải Thụy cùng người thân tăng gia
thêm ở vườn sau, không mấy khi dùng đến rượu thịt. Nghe nói, chỉ một lần duy
nhất Hải Thụy “xa xỉ”, mua hai cân thịt về làm lễ mừng thọ mẹ già (Hải Thụy là
người con có hiếu). Việc này được coi là tin mới lan truyền trong giới quan
trường, ngay cả tổng đốc Hồ Tôn Hiến nghe tin cũng hết sức kinh ngạc, nói với
mọi người: “Các vị biết không, Hải Thụy mua thịt, mua hai cân thịt, những hai
cân!”.

Sau khi Hải Thụy nhận chức tuần phủ Ứng
Thiên, bao gồm các hạt Ứng Thiên, Tô Châu, Thường Châu, Trấn Giang, Tùng Châu,
Huy Châu, Thiên Bình, Ninh Quốc, An Khánh, Trì Châu và châu Quảng Đức, những
châu này hầu hết đều thuộc vùng Giang Nam quê hương của lúa gạo, cá mú trù phú.
Địa vị lúc này khác xa với thời còn là tri huyện, nhưng Hải Thụy vẫn thanh liêm
cần kiệm như cũ. Vừa đến nhiệm sở, Hải Thụy đã ban bố “đốc phủ hiến ước”, quy
định, khi tuần phủ đi tuần thú các nơi, các quan phủ, châu, huyện không được ra
ngoài thành nghênh tiếp, không được bầy tiệc chiêu đãi. Sau khi nghĩ đến và
cũng muốn giữ một phần sĩ diện các quan viên triều đình, Hải Thụy đồng ý có bữa
cơm công cán, có thể có gà, cá, thịt lợn... nhưng không được giết ngỗng và dùng
rượu, không được vượt quá tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn là ở những nơi đắt đỏ được
tiêu ba tiền, những nơi vật giá rẻ được tiêu hai tiền, than củi, dầu đèn, không
được vượt quá các con số trên. Còn việc gọi các “kỹ nữ” đến bầu bạn, hoặc tổ
chức các tiết mục vui sau khi cơm no rượu say, không nói, chắc mọi người cũng
hiểu, Hải Thụy đều nghiêm cấm.

Hải Thụy thanh liêm đến mức mất hết cả tình
lý, không ai hiểu được! Theo phong tục nơi quan trường thời đó, khi quan mới
đến nhiệm sở, khi bạn bè được thăng chức, luôn có người mang lễ vật đến chúc
mừng. Chỉ cần số lễ vật đó không quá lớn, nghĩ xem, đó là chuyện thường tình
của con người. Nhưng Hải Thụy đã chẳng nghĩ ngợi gì cả mà công khai dán cáo
thị, nói: “Ngày nay đã là quan triều đình thì phải khác với lúc ở nhà”, “kẻ thù
người đáp, thật là phiền phức, bỏ đi không làm là hơn”. Sau này, Hải Thụy liền
sai người trả lại lễ vật, ngay cả với bạn cũ Hạ Bang Thái, Thư Đại Du từ xa tới
chúc mừng cũng không phải ngoại lệ. Đến như nhà công do triều đình cấp cũng
không thèm hưởng. Trước khi lâm chung, số tiền củi lửa do bộ binh mang tới
khoảng bảy lạng bạc trắng, Hải Thụy cũng cho trả về. Bảy lạng bạc trắng thực sự
chẳng đáng là bao, nhưng Hải Thụy quyết không vì chút lợi mọn đó mà hủy hoại sự
thanh bạch cả đời của mình.

Là quan thanh liêm như vậy, đương nhiên,
nhân dân trăm họ sẽ hết sức ủng hộ, còn
bọn quan lại thì luôn thấy phản cảm. Bọn họ ngoài miệng không dám nói ra, nhưng
trong lòng thì đầy hờn căm, ghen tức. Cứ nghĩ đến chuyện phải cộng tác, phải
qua lại với Hải Thụy, ai nấy đã nổi cả da gà. Có một sự việc chứng minh rõ điều
này: Lúc vừa có tin Hải Thụy được điều lên làm tuần phủ Ứng Thiên, bọn quan lại
mười phủ Ứng Thiên gần như đã phát khóc. Không ít người cầu xin điều Hải Thụy
đi nơi khác, thậm chí có người rời bỏ chức vị, từ bỏ chiếc mũ ô sa trên đầu.
Đương nhiên, điều đó nói rõ, mọi người đã phải khiếp sợ trước quyền uy và sự
thanh liêm của Hải Thụy, đồng thời cũng nói rõ, ở chốn quan trường thời đó, Hải
Thụy luôn bị cô lập.

Hải Thụy thực sự không hiểu quy tắc nơi
quan trường, nhưng ông cũng không phải là người làm bừa. Ngược lại, Hải Thụy
lại quá nguyên tắc. Hải Thụy có hai nguyên tắc: Một là, lấy đạo đức được xiển
phát từ “Tứ thư, Ngũ kinh” làm chuẩn tắc; hai là, lấy chính sách do hoàng đế
Hồng Vũ chế định làm pháp lệnh. Trong hai nguyên tắc này không hề bảo, làm quan
thì phải tham ô hủ hóa, dùng quyền chung để mưu đồ riêng, cũng không hề nói,
muốn làm quan phải biết a dua theo, nói bốc đề cao, đưa đưa đón đón, mời cơm
đãi khách. Những việc thánh nhân và Thái Tổ không nói là có thể làm, thì không
thể làm. Còn như phong khí lúc này, không thể nói Hải Thụy không thể biến đổi,
cũng không thể nói Hải Thụy nên thuận theo. Có người từng khuyên Hải Thụy,
không nên quá cứng nhắc, cái gì có thể linh động thì nên linh động, cái gì thấy
nên làm thì nên làm. Hải Thụy liền trừng mắt hỏi lại: “Giả sử, quan lại khắp
nơi không làm, không linh động, sẽ không có việc thăng quan sao? Giả sử các
quan lại khắp nơi đều không làm, không linh động, sẽ không có việc giáng chức
sao?”. Người đó thấy Hải Thụy đầu óc cứng đơ, luôn “giả sử”, giả sử, hoàn toàn
là tính khí thư sinh, không thể thuyết phục được, đành bỏ đi.

Hải Thụy luôn gắng sức làm theo lời dạy của
thánh hiền, còn muốn đấu tranh, cải biến những phong tục đồi bại, cho dù đối
phương chức vị cao tới đâu, khí thế mạnh đến chừng nào. Dù hắn là hổ dữ, Hải
Thụy vẫn dám sờ vào mông hắn. Lúc Hải Thụy là huyện lệnh Thuần An, Hồ Tôn Hiến
là tổng đốc. Quan cấp của tổng đốc và tri huyện quá khác biệt, khác gì trời với
đất. Bản thân Hồ Tôn Hiến còn là đồng đảng với Nghiêm Tung, quyền tướng đương
triều. Hồ Tôn Hiến quyền khuynh thiên hạ, khí thế ngút trời, lại là quan lâu
năm, dân quan trong nước, hết thảy đều khiếp sợ nhưng Hải Thụy luôn coi như con
nghé tơ. Con trai Hồ Tôn Hiến đến Thuần An, giễu võ giương oai, chỉ đông hét
tây, không hài lòng với khoản đãi của dịch trạm, đã đánh gục dịch thừa. Hải
Thụy không hề khách khí, đã cho bắt hắn, giải đến nha môn tổng đốc, tịch thu
sung công cả ngàn lạng bạc trên người hắn. Hải Thụy còn có công văn gửi đến Hồ
Tôn Hiến, nói: Từ lâu đã nghe danh tổng đốc đại nhân là người tiết vọng thanh
cao, yêu dân như con, dạy con thật nghiêm. Kẻ này phẩm hạnh xấu xa, hành động
bừa bãi, dám giả mạo, xưng là Hồ công tử, số bạc tìm được trong người hắn hẳn
là tiền bẩn thỉu. Hồ Tôn Hiến thừa biết đó là thằng con chẳng ra gì của mình,
nhưng không dám to tiếng, đành nghiến răng nuốt giận vào lòng, tự nhận là đen
đủi.

Một đồng đảng nữa của Nghiêm Tung là Yên
Mậu Khanh cũng giẫm phải chiếc đinh mềm của Hải Thụy. Yên Mậu Khanh phụng mệnh
khâm sai tuần tra nghề muối ở Chiết Giang, từng có thông lệnh nói rõ “mọi thứ
đơn giản, không thích nghênh đón”, vì vậy “chuyện ăn uống, nghỉ ngơi phải lấy
đơn giản làm đầu, không được quá xa hoa, lãng phí”. Đây chỉ là vở diễn để loại
người này mua danh chuốc tiếng, muốn là tấm gương cần kiệm, chất phác, thực
chất là vừa muốn làm kỹ nữ vừa muốn được lập bia trinh tiết. Vì vậy, các quan
viên ở dọc đường đi, đều không cho là thật, họ tiếp đãi cực kỳ xa xỉ, đương
nhiên, người dân phải chịu mọi chi phí. Nhưng Hải Thụy lại có thiệp bẩm dâng
lên một cách nghiêm chỉnh, “Thiệp bẩm của Hải Thụy - tri huyện huyện Thuần An,
phủ Nghiêm Châu”. Trước hết, thiệp ghi nguyên văn thông lệnh của Yên Mậu Khanh,
tiếp đến mới nói, được biết những nơi khâm sai đã đi qua, việc chiêu đãi và
tiếp đón lại khác hẳn với lời trong thông lệnh. Không những bày tiệc rượu, mà
còn phải cung ứng cả đàn bà, mỗi tiệc rượu phải chi đến ba, bốn trăm lạng bạc,
ngay cả bô tiểu tiện cũng phải làm bằng bạc. Vì vậy hạ quan mới mụ mẫm không
rõ, làm vậy là theo yêu cầu của thông lệnh hay là theo các thể lệ trước đây?
Làm theo yêu cầu của thông lệnh ư, e rằng họ đã khiếm nhã với đại nhân; làm
theo tiền lệ ư, e rằng họ đã phản lại thiệt mong đại nhân minh xét, cuối cùng
phải làm như thế nào? Yên Mậu Khanh xem xong thiệp bẩm, lửa giận bốc lên ngùn
ngụt, đành phải bỏ Nghiêm Châu, đi vòng theo đường khác.

Cách làm của Hải Thụy không chỉ làm cho Yên
Mậu Khanh phải khiếp sợ, mà ngay cả tri phủ Nghiêm Châu cũng phải sợ. Tri phủ
đã nổi giận nói với Hải Thụy, vì sao ông lại gây thị phi như vậy. Hải Thụy không đối đáp, cũng không
biện bạch, chờ khi tri phủ bớt giận mới xin lui. Về sau, tri phủ đại nhân thấy
hành động của Hải Thụy không gây hậu quả, nên mới cảm kích nói với Hải Thụy:
“Trăm họ Thuần An thoát nạn, đã làm khó cho ông! Đúng là làm khó cho ông!”.

Có điều lần này tri phủ đại nhân đã lầm.
Hải Thụy thẳng thắn chống lại bề trên, đến khâm sai đại thần cũng chẳng nể
nang, lẽ nào không bị báo thù? Quả nhiên, lúc Hải Thụy vừa nhận lệnh điều lên
làm thông phán ở Gia Hưng, đang chuẩn bị bàn giao với tri huyện Thuần An mới
thì Viên Thuần ở kinh thành đã hạch tội Hải Thụy. Viên Thuần là đồng đảng của
Nghiêm Tung, là bè bạn chó mèo với Mậu Khanh. Lúc hắn làm ngự sử tuần tra muối
ở Chiết Giang, hắn được Hải Thụy chiêu đãi thật khiếm nhã và còn ầm ĩ với Hải
Thụy, hắn hạch tội Hải Thụy “tự cao tự đại, không chịu an phận”. Dù Hải Thụy vô
tội, dù Nghiêm Tung đã bị bãi chức, Yên Mậu Khanh đã bị sung quân, cũng không
mấy ai quan tâm tới viên quan thất phẩm nhỏ nhoi, xuất thân là cử nhân, đã
không có chỗ dựa, tính khí lại cổ quái. Lúc này các đại thần trong triều đang
mải mê phân chia lại quyền lực và lợi ích. May sao có Chu Hoành, trước kia là
cấp trên của Hải Thụy, giờ là thị lang bộ lại, ra sức tiến cử Hải Thụy với
thượng thư bộ lại Nghiêm Phúng. Hải Thụy sau lúc bị miễn chức, lại được điều
làm tri huyện Hưng Quốc.

Theo lý mà nói, một người như Hải Thụy,
không biết bợ đỡ cấp trên, luôn gây chuyện thị phi có thể giữ được chức vị
huyện lệnh thất phẩm đã là may mắn lắm rồi! Hải Thụy chỉ đáng được điều đi điều
lại qua mấy huyện nhỏ, nghèo khổ, hoặc được thăng làm lục phẩm rồi về nghỉ.
Nhưng Hải Thụy đã có vận may thật đặc biệt. Nghiêm Tung bị đổ đã kéo theo hàng
loạt phản ứng, người ta bắt đầu xem xét về con người, về sự việc khi Nghiêm
Tung còn nắm quyền. Chốn quan trường Trung Quốc xưa nay luôn coi trọng quan hệ
giữa con người. Nghiêm Tung đổ, bọn Hồ Tôn Hiến, Yên Mậu Khanh do Nghiêm Tung vực dậy, nhiệm dụng cũng chẳng còn gì.
Mấy người đó được coi là kẻ xấu, và những ai trước đây phản đối họ đều trở
thành người tốt. Đó cũng là logic thường dùng trong đấu tranh chính trị ở Trung
Quốc, xưa nay luôn là vậy. Hải Thụy lúc này là người tốt nhất, là đại anh hùng,
vì đã dám chống lại bọn quyền thần, khi nhắc tới ai ai cũng thấy sợ, một anh
hùng như vậy, nếu không được thăng quan khen thưởng, không được trọng dùng, thì
đế quốc này không chỉ đáng sỉ nhục mà bộ lại cũng thất chức nghiêm trọng. Thế
nên, chỉ nửa năm sau khi là tri huyện Hưng Quốc, Hải Thụy được điều về Bắc
Kinh, nhận chức hy chủ sự ở bộ Hộ, Vân Nam (quan hàm lục phẩm).

Chủ sự bộ Hộ là chức quan không to không
nhỏ, không lên không xuống. Đúng như Hoàng Nhân Vũ(2) từng nói: “Các thượng thư, thị lang vạch
ra cương lĩnh, chính sách, còn các viên lại thì phụ trách các chi tiết về mặt
kỹ thuật thực hiện. Một chủ sự như Hải Thụy không nhất thiết hàng ngày phải đến
văn phòng bộ, trừ phi muốn tích lũy thêm kinh nghiệm làm quan”.

(2)
Hoàng Nhân Vũ, “Mười lăm năm Vạn Lịch”, trang 138, “Trung Hoa thư cục”, 1982.

Nhưng Hải Thụy vốn là người không ưa nhàn
rỗi, là người thích làm việc, thích suy nghĩ, là người có trách nhiệm với vua
với nước và chỉ biết tiến không biết lùi. Dù là chức quan được nhàn rỗi, Hải
Thụy luôn không muốn phí thời gian vào những chuyện vô bổ. Không có việc nhỏ,
Hải Thụy đành phải suy nghĩ việc lớn. Lúc này, Hải Thụy đã xâm nhập vào cơ quan
trung ương (dù là chức vị thấp đến đáng thương, lại cách trung tâm rất xa),
không còn là viên quan địa phương bị nhiều hạn chế, đã có thể suy nghĩ về một
số vấn đề từ góc độ lịch sử và toàn cục. Lúc này công việc của Hải Thụy không
quá nặng nề, bề bộn như thời còn là huyện lệnh, hàng ngày phải xử lý nhiều sự
vụ cụ thể, vụn vặt. Lúc này Hải Thụy đã có đủ thời gian suy nghĩ hết chuyện này
đến chuyện khác. Hơn nữa, cũng giống như các nho sinh tự cho mình là phi phàm,
là có trách nhiệm với thiên hạ, Hải Thụy không vừa ý về hiện trạng của đất
nước, thấy cần phải nói rõ những suy nghĩ, những ý hay của mình về triều chính,
về thời cuộc. Đất nước ngày nay không chỉ kém xa lúc thái bình thịnh thế của
Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, thời Khổng Phu Tử thiết kế, mà bốn phía còn nhiều nguy
cơ. Hải Thụy thấy mình không thể cứ yên lặng mãi. Yên lặng là thiếu trách
nhiệm, là có tội với lịch sử, đất nước, với quân vương, tiên tổ. Cảm giác chính
nghĩa, cảm giác sứ mệnh nổi lên tự đáy lòng, Hải Thụy thấy phải phát động tiến
công.

Lúc này Hải Thụy đã chĩa thẳng đầu mâu cuộc
tranh đấu về phía đương kim hoàng thượng.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3