Luận Anh Hùng - Phần III - Chương 14 - phần 1

III. Mũ hoàng đế dệt bằng máu

Dù đã chuẩn bị nhiều lần như vậy, việc Võ Tắc Thiên muốn làm hoàng đế,
không phải là việc dễ.

Theo lý, sau khi hoàng đế băng hà ngôi báu sẽ do hoàng tử kế vị. Võ Tắc
Thiên có bốn người con, có ba người từng là thái tử. Người thứ nhất là Lý
Hoằng. Từ tháng giêng năm Hiển Khánh thứ nhất (năm 656), Lý Hoằng được phong là
thái tử, nhưng Lý Hoằng đã mất vào tháng tư năm Thượng Nguyên thứ hai (năm
675). Nhiều người nói, Lý Hoằng đã bị Võ Tắc Thiên hại chết. Đã chết thì làm gì
còn người để đối chứng, huống hồ sức khỏe của vị thái tử này vốn cũng rất tồi,
ngay vào năm được phong là thái tử, Lý Hoằng đã ốm nặng, “ngự y đã phải bó
tay”. Vào năm Hàm Hanh thứ hai (năm 671) Lý Hoằng được giao quyền giám quốc,
nhưng vì nhiều bệnh, nên bọn Đới Chí Đức đã phải giải quyết việc triều chính.
Vì vậy, có thể coi là Lý Hoằng ốm chết.

Vị thái tử thứ hai là Lý Hiền. Lý Hiền được lập vào năm Thượng Nguyên thứ
hai (năm 675), bị phế vào năm Vĩnh Long thứ nhất (năm 680). Việc Lý Hiền bị phế
vẫn còn là một nghi án. Chúng ta chỉ biết hai mẹ con họ rất hay nghi ngờ lẫn
nhau. Có người cho là Lý Hiền đã tổ chức danh Nho chú giải “Hậu Hán thư”, luôn nói
về hậu phi, ngoại thích can dự chính sự, phạm vào điều kiêng kỵ của Võ Tắc
Thiên; cũng có người nói, điều cơ bản vì Lý Hiền không phải con đẻ của Võ Tắc
Thiên, mà là con riêng của Lý Trị và chị gái của Võ Tắc Thiên, là Hàn Quốc phu
nhân. Tóm lại, Lý Hiền bị tố giác là mưu phản, người ta tìm thấy binh khí và
hàng trăm bộ giáp phục trong cung điện của Lý Hiền. Vị thái tử đáng thương này
bị phế thành thứ dân và chết ở Ba Châu vào năm Tự Thánh thứ nhất (năm 684).

Chứng cứ là hàng trăm binh khí và giáp phục, e chưa đủ. Với số vũ khí trang
bị ít ỏi, có thể mưu và phản cái gì? Vì vậy, số chứng cứ “xác thực” đó khác gì
hình người gỗ tìm thấy trong cung Vương hoàng hậu. Hoàn toàn có hai khả năng.
1. Võ Tắc Thiên sai người làm. 2. Một người khác đã làm, mong hai mẹ con họ sẽ
đấu nhau, mình là ngư ông được lợi. Nhưng nếu Võ Tắc Thiên không hề nghi ngờ
đứa con của mình, thì làm sao có thể gài tang vật vào cung điện. Hơn nữa, nếu
đó là vật Lý Hiền giấu riêng, cũng sẽ không dẫn đến hậu quả nghiêm trọng như
vậy. Thực tế thì, nếu Võ Tắc Thiên không có ý phế thái tử thì sẽ không có người
đứng ra tố cáo thái tử, càng không có ai dám đến khám xét phủ đệ của thái tử.
Rõ ràng, Lý Hiền đã phải chết vì bị Võ Tắc Thiên nghi ngờ.

Không có bất kỳ một chứng cứ chứng minh Võ Tắc Thiên hãm hại thái tử Hiền,
hại chết thái tử Hoằng. Nhưng có thể khẳng định, Võ Thắc Thiên nghi kỵ, thậm
chí là thù hận hai đứa con của mình. Vì lúc đó quần thần trong triều đều coi
trọng hai vị thái tử này. Lý Trị từng nói với các vị thần: “Hoằng nhân hiếu, coi
trọng đại thần, xưa nay chưa từng có”. “Tư Trị thông giám” cũng nói, Lý Hoằng
nhân hiếu, biết giữ lễ, “được trên quý mến” và “trong ngoài kỳ vọng”. Đương
nhiên, Võ Tắc Thiên không thích điều đó. Võ Tắc Thiên hy vọng, trong ngoài luôn
kỳ vọng ở mình, không phải ở bất kỳ người nào khác. Vì vậy, Lý Hoằng đột nhiên
qua đời, khi đó có người nghi là chính Võ Tắc Thiên đã hại chết con mình -
“Người thời đó cho là Thiên hậu đã giết người bằng rượu độc”.

Sau khi Lý Hoằng mất, mọi người lại chuyển sang ủng hộ Lý Hiền. Vì khi đó,
mọi người đều thấy rõ, dã tâm của Võ Tắc Thiên là không nhỏ, từ lâu Lý Trị đã
buông lơi quyền lực. Hơn nữa, sức khỏe của Lý Trị đã suy sụp, tính cách lại nhu
nhược, dù muốn đoạt lại chính quyền, chỉnh đốn triều cương cũng không làm được.
Vì vậy, mọi người mới hy vọng vào thái tử mới. Và Lý Hiền cũng không phụ lòng
mong mỏi của họ. Lý Hiền dung mạo tuấn tú, cử chỉ đoan trang, từ nhỏ đã thích
đọc sách, đọc xong là nhớ. Lý Hiền còn chủ trì việc chú giải “Hậu Hán thư”,
trình độ cao, đến nay vẫn đầy quyền uy. Danh tiếng Lý Hiền nổi như cồn. Triều
dã nhất trí cho rằng, Lý Hiền sẽ thừa kế ngôi lớn, làm chủ nhà Đường. Thậm chí
Lý Trị còn nói với Lý Thế Tích: “Đứa trẻ này rất nghiêm minh, không hổ là tài
năng dựng nên nghiệp lớn”. Nếu mấy đứa khác đều được như Lý Hiền thì “Đại Đường
hết phải lo!”.

Đại Đường hết lo, Tắc Thiên lại lo. Võ Tắc Thiên từng nếm mùi độc chiếm đại
quyền, nên không thích có người cầm gậy trên đầu mình. Vừa khéo lúc đó lại có
án Minh Sùng Nghiêm bị giết. Minh Sùng Nghiêm là kẻ luôn giả thần giả quỷ để
chữa bệnh cho mọi người, nghe đâu hắn cũng có biết một chút ma thuật. Nghiêm
từng nói với Võ Tắc Thiên, thái tử Hiền tướng mệnh không tốt, không thể kế
thừa, nên lập người khác như Anh vương Lý Hiển hoặc Tương vương Lý Đán. Sau này,
Minh Sùng Nghiêm bị người khác giết một cách rất thần bí. Nhân viên xét án liền
cho bắt Triệu Đạo Sinh để xét hỏi. Sinh là đối tượng đồng tính luyến ái với Lý
Hiền. Sinh khai, Lý Hiền đã mua chuộc và sai bọn đạo tặc đến giết. Mọi tình
tiết của vụ án đều hết sức chặt chẽ, không có sơ hở. Nhưng có thể khẳng định:
Hoặc một tay Võ Tắc Thiên đã tạo ra án oan này, hoặc Võ Tắc Thiên đã lợi dụng
án Minh Sùng Nghiêm, rồi tác động thêm. Và Võ Tắc Thiên đã đạt được mục đích.

Có thể, Lý Hiền nên đọc sách ít đi một chút. Lý Hiền không nên cướp mất vở
diễn của Võ Tắc Thiên khi Võ Tắc Thiên đang muốn làm đẹp vai diễn của mình. Lý
Hiền chỉ biết thái tử có thể là hoàng đế, nhưng chưa biết ngay cả hoàng đế cũng
có thể bị phế bỏ, huống chi chỉ là thái tử?

Lý Hiển là vị thái tử thứ ba, đã bị phế khi còn ở ngôi hoàng đế. Thằng cha
này là kẻ khốn nạn, là bao cỏ. Lý Hiển nhút nhát, háo sắc, sợ vợ, kém cỏi hơn
cả cha mình. Lý Trị tuy có yếu đuối một chút, nhưng xưa nay vẫn là người tự
biết mình, luôn thận trọng thỏa đáng trong đối nhân xử thế, vì vậy mới có một
ít uy vọng. Ngược lại, Lý Hiển không biết được mình nặng nhẹ mấy cân mấy lạng.
Vừa lên đài được vài hôm, ngồi chưa nóng chỗ, đã vội bợ đỡ nghe theo vợ, muốn
để bố vợ là Vi Huyền Trinh làm tể tướng. Tể tướng Bùi Viêm không bằng lòng, vị
hoàng đế hồ đồ kia liền nói: “Đất nước là của trẫm, trẫm muốn cho ông ta cả
thiên hạ thì có gì là ghê gớm, huống hồ
chỉ là để ông ta làm thị trung?”. Điều đó, không chỉ làm Võ Tắc Thiên bực bội,
không thể dung, mà những người khác cũng hết cách để tiếp nhận. Hơn nữa đây còn
là lời nói tức giận, nên nhẫn nhịn sao được. Vì vậy, anh chàng này chỉ làm
hoàng đế được vài tháng, đã bị Võ Tắc Thiên và Bùi Viêm lôi ra khỏi bảo tọa.

Trên thực tế, Lý Hiển cũng không thể coi là vua. Năm Thần Long thứ nhất (năm
705), sau khi Võ Tắc Thiên thoái vị, Hiển lại làm hoàng đế, cuối cùng thì chết
oan. Vì Vi hoàng hậu muốn học theo mẹ chồng làm nữ hoàng, con gái là công chúa
An Lạc muốn làm hoàng thái nữ. Họ hợp mưu cho thuốc độc vào bình rượu, nhằm đưa
vị hoàng đế kia đến Tây Thiên. Truy Tông Lý Hiển - con dê đuôi to, đầu óc ngu
muội, đem cả đời mình gửi vào ba người đàn bà yêu quý nhất: Mẹ ruột Võ Tắc
Thiên, vợ yêu Vi hoàng hậu và con gái cưng Lý Quả Nhi. Thực dễ hiểu, dẫu Võ Tắc
Thiên không phế hắn thì hắn cũng không thể là hoàng đế tử tế được.

Hoàng đế kế tiếp là Duệ Tông Lý Đán một người thông minh. Lý Đán dứt khoát
không lên triều, mọi việc triều chính giao hết cho mẫu hậu xử lý, nói mình còn
ít tuổi, chưa hiểu việc (năm đó Đán hai mươi hai tuổi), mình vô đức vô tài,
chưa thể nắm được việc nước. Hai năm sau, Võ Tắc Thiên đề xuất trả lại ngôi vị
cho Lý Đán, Đán khấu đầu, chịu chết chứ không nhận. Việc đã đến nước này thì
sớm hay muộn, Võ Tắc Thiên cũng phải tìm người khác thay cho Lý gia.

Nhưng Võ Tắc Thiên cũng chẳng vội vàng đội lên đầu chiếc mũ hoàng đế.

Võ Tắc Thiên không phải là người nhẹ dạ manh động (đó là một trong những
nguyên nhân quan trọng khiến bà thành công). Bà thừa hiểu, việc mà bà muốn làm
là việc xưa nay, dưới gầm trời này chưa hề có. Ở Trung Quốc, xưa nay chưa hề có
người đàn bà nào là hoàng đế, là nữ mà chấp chính nắm quyền đã là “bất hợp
pháp”. Muốn vậy, cần có vật đệm, có chuẩn bị, làm cho mọi người thay đổi cách
suy nghĩ và cũng cần biết nhẫn nhịn, chờ đợi, nhìn trước ngó sau. Võ Tắc Thiên
có thể làm được như vậy, bà nhẫn nại, biết kìm nén, nhưng không thể chờ đợi quá
lâu, vì bà đã sáu mươi mốt tuổi.

Thực tế thì tình hình lúc đó cũng không cho phép bà được nhàn nhã, nhìn
trước ngó sau. Đấu tranh về quyền lợi, xưa nay vẫn là cuộc đấu tranh một sống
một chết, nhất là thay triều đổi đại, càng không phải là thêu hoa dệt gấm. Sau
khi Cao Tông qua đời, đế vị bị bỏ trống đã thành vấn đề hết sức nhạy cảm, vở
diễn treo đầu dê bán thịt chó đã hết thời. Võ Tắc Thiên đứng trước hai lựa
chọn: Nên chăng trả lại chính quyền cho con, để con Lý Trị đi bán thịt dê; hay
trưng biển hiệu cửa hàng Võ gia, công khai bán thịt chó. Võ Tắc Thiên rất hiểu,
mọi người đang chờ xem bà trộn bài, thậm chí còn rất nhiều người đang mài dao,
trừng trừng nhìn bà bằng mắt hổ.

Người thứ nhất công khai nhảy ra thách đấu với Võ Tắc Thiên là Từ Kính
Nghiệp. Ngày hai mươi chín tháng chín năm Tự Thánh thứ nhất (năm 684) cũng tức
là hơn bảy tháng sau khi Trung Tông Lý Hiển bị phế, hơn sáu tháng sau khi
Chương Hoài thái tử Lý Hiền tự sát, Từ Kính Nghiệp cất quân ở Dương Châu, tuyên
bố sẽ lật đổ “ngụy chính quyền” của Võ Tắc Thiên bằng vũ lực. Từ Kính Nghiệp là
cháu của Lý Thế Tích. Lý Thế Tích được Thái Tông hoàng đế ban họ Lý, lúc đó, Từ
Kính Nghiệp cũng được gọi là Lý Kính Nghiệp, có điều, lúc này Lý Kính Nghiệp đã
trở mặt với Võ Tắc Thiên, Võ Tắc Thiên liền phẫn nộ tuyên bố Kính Nghiệp không
còn tư cách là họ Lý. Từ Kính Nghiệp cũng thẳng thắn tuyên bố, để chú là Lý Tư
Văn (hiện đã bị Kính Nghiệp bắt) đã không chịu cùng Kính Nghiệp khởi binh đánh
Võ Thị mang họ Võ. Xem ra, Từ Kính Nghiệp và Võ Tắc Thiên đã giống nhau về điểm
này. Lý là họ của hoàng gia, họ cao quý, lẽ nào lại để cho “tên giặc” mang họ
đó? Lý Kính Nghiệp phản bội triều đình, đương nhiên là nên mang họ Từ; Lý Tư
Văn đã theo chân Võ Thị, nên cứ để cho Tư Văn mang họ độc ác ti tiện là Võ Tư.

Việc tranh giành họ là việc đáng buồn cười ở ngày nay, nhưng lúc đó lại là
việc rất nghiêm túc. Cả hai bên đều tuyên bố với cả nước, để tỏ mình là đường
đường chính chính. Kỳ thực, Từ Kính Nghiệp mang họ gì đều không quan trọng,
điều quan trọng là, hành động lần này của Kính Nghiệp, hình như vừa mở đầu đã
có dấu hiệu thất bại. Ngay từ đầu, Kính Nghiệp đã không có chuẩn bị về tư
tưởng, tổ chức, quân lính và tài chính, chỉ là mấy vị quan thất ý, mấy văn nhân
lạc lõng, sau khi tụ lại với nhau đã ầm ĩ, khẳng khái trần tình và vội vã khởi
binh, nói mạnh rằng, sẽ lật đổ cả thiên hạ, như vậy thì thất bại là đúng.

Nhưng Từ Kính Nghiệp đã không nghĩ tới những điều đó. Mở đầu, Từ Kính
Nghiệp rất vênh váo. Từ Kính Nghiệp mời Lạc Tân vương viết hịch văn, mắng mỏ
chửi rủa Võ Tắc Thiên, tuyên truyền cổ động bàn dân thiên hạ. Lạc Tân Vương
không hổ là một trong “Sơ Đường tứ kiệt”, văn phong thực kỳ lạ. Lạc Tân vương
là người bất đắc chí, u uất lâu ngày, bị phẫn cộng với thù riêng, nộ khí từ
hịch văn bốc lên ngùn ngụt, khiến trời sầu đất thảm, quỷ thần phải rơi lệ. Dưới
ngòi bút của Lạc Tân vương, Võ Tắc Thiên là loại người chẳng ra gì, bản tính
bất lương (không hòa thuận), xuất thân ti tiện (thực chất là hàn vi), che giấu
lịch sử (giấu việc vụng trộm trước tiên đế), trà trộn vào cung Cao Tông (mưu
toan thành người được o bế ở hậu phòng). Vừa vào cung đã lộ đuôi con hồ ly (mọi
người ghen ghét, người đẹp không nhường; khép nép gièm pha, hồ mị mê hoặc chủ).
Một khi có quyền lực là bản tính lang sói lộ ra (cặp kè kẻ xấu, tàn hại trung
lương, giết em hại anh, giết vua hại mẹ). Thực là vô cùng ác độc, không thể
tha, lẽ ra trời đất phải tru diệt từ lâu rồi (nhân thần đều ghét, trời đất
không dung)! Huống chi, lúc này Võ Tắc Thiên đang mưu đồ lật đổ Đại Đường, hòng
cướp đế vị, khiến linh hồn tiên đế không được yên nghỉ, các con yêu của tiên đế
không được yên thân (một tảng đất chưa khô, đứa con côi cút sáu thước, biết gửi
gắm cho ai), đúng là “chuyện này có thể nhẫn nhịn, thì còn có chuyện gì không
nhịn được nữa đây” (tột cùng của sự nhẫn). Từ Kính Nghiệp là “cựu thần hoàng
Đường, con trưởng của công hầu”, đã “thờ tiên quân để thành nghiệp”, lại “nhận
hậu ân của triều đình”, đương nhiên không thể thấy chết không cứu, buông tay
ngồi nhìn. Để “thuận theo lòng người, hợp ý thiên hạ”, Kính Nghiệp giương cao
ngọn cờ chính nghĩa, tập kết vũ trang trừ yêu. Đây thực là một lực lượng hùng
mạnh! “Nam liền Bách Việt, bắc tận sơn hà, thiết kỵ thành đàn, cơ giới liên
tiếp”. Đấy thực là đạo quân uy vũ! “Tiếng người đông làm nổi gió bắc, mũi kiếm
sắc đã bình miền nam, lời thì thầm làm tuyết tan trên đỉnh núi, tiếng la thét
làm gió mây phải đổi màu”. Một lực lượng không ai thắng nổi (lấy đó đánh địch,
địch nào không lui). Một đội quân như vậy sẽ không có đối thủ (lấy đó đánh
thành, thành nào không đổ). Mong được thắng lợi thì thắng lợi đã rõ ràng. Không
tin, “thử xem, nay trong thành, thiên hạ là của nhà nào!”.

Đây đúng là bài hịch văn tinh tế nhất, xuất sắc nhất trong lịch sử Trung
Quốc, lời hịch đanh thép, khí thế ngời ngời, ngay cả Võ Tắc Thiên, đọc xong
cũng vỗ bàn khen hay, một nhân tài như thế này mà chưa được phát hiện, thực là
“sai lầm của tể tướng”. Phản quân của Từ Kính Nghiệp tự nhiên được hời, thành
quân của người nhân, quân chính nghĩa, quân uy vũ, quân thắng lợi. Đáng tiếc,
vũ khí phê phán không thể thay cho phê phán bằng vũ khí. Đội quân ô hợp Từ Kính
Nghiệp tạm có được không thể là đối thủ của thiên binh vương triều. Chỉ qua mấy
hiệp đã bị đánh cho tơi bời khói lửa, phải trốn chạy.

Kỳ thực, vết tích bại trận của Từ Kính Nghiệp đã hiện rõ ngay trong lời
hịch của Lạc Tân vương. Trong lời kết của hịch văn Từ Kính Nghiệp có hứa: “Cùng
chỉ sơn hà, sẽ thưởng tước vị”. Ý muốn nói, Từ mỗ xin đảm bảo với mọi người,
chỉ cần các vị tham gia hành động của Từ mỗ, vậy, sau khi thành công, mọi tước
vị sẽ được phong thưởng, lúc này có thể chỉ sơn hà làm tư. Khẩu khí như vậy, là
cả miền núi sông rộng lớn này, lúc đó đã trở thành của Từ Kính Nghiêp, đây
chính là cuồng vọng, kiêu binh tất bại? Chưa nói tới chuyện, lúc đó thắng bại
còn chưa rõ, và dù tương lai có thắng lợi, quan tước không phải một mình Từ
Kính Nghiệp phong, ân vinh cũng không phải một mình Từ Kính Nghiệp thưởng. Về
mặt lý luận, đó là việc của hoàng thượng. Bằng khẩu khí của hoàng đế, Từ Kính
Nghiệp đã nói như vậy, chẳng phải đã để lộ dã tâm của lang sói, muốn xưng
vương, xưng đế? Từ Kính Nghiệp tiến đánh Võ Tắc Thiên, nếu nói ít nhiều có chút
khả năng thắng lợi, như vậy mới có được chữ “nghĩa”. Lúc này đã lấy lợi thay
nghĩa, vốn chính trị đã mất, còn lại tự chuốc lấy diệt vong.

Thực tế thì Từ Kính Nghiệp bại chính là bại ở điểm này. Quân sư Ngụy Tư Ôn
từng nói với Từ Kính Nghiệp, chúng ta phải lấy việc giúp vua, khôi phục Đường
thất để hiệu triệu, cần phải trực tiếp lấy Lạc Dương, tranh thủ để người thiên
hạ vùng lên hưởng ứng. Nhưng Từ Kính Nghiệp vẫn không thể chống lại sự cám dỗ
của cái gọi là “Kim Lăng vương khí” và căn cứ địa xưng vương, không chịu đánh
về hướng bắc, lại cho quân tiến về hướng đông. Kết quả, bị bại trận, trên đường
chạy về phía Cao Ly, liền bị bộ hạ giết chết. Từ Kính Nghiệp chỉ âm ỉ được
chừng bốn, năm mươi hôm rồi thân bại danh liệt, chỉ có thể nói là đáng đời.

Trước lúc Võ Tắc Thiên loại bỏ tư cách họ Lý của Từ Kính Nghiệp một hôm,
tức là ngày mười tám tháng mười năm Tự Thánh thứ nhất, tể tướng Bùi Viêm bị
chém oan và cũng không oan.

Bùi Viêm chết vì tội mưu phản. Chứng cứ là Bùi Viêm có tiếp xúc với phần tử
phản loạn là Lạc Tân vương, còn có thư từ qua lại với Từ Kính Nghiệp. Nghe nói,
để Bùi Viêm mang tội mưu phản, Lạc Tân vương đã soạn một câu ca dân gian “nhất
phiến hỏa, lưỡng phiến hỏa, phi y tiểu nhi đương điện tọa”, và giải thích là:
“Phi y” là Bùi, “nhất phiến hỏa, lưỡng phiến hỏa” là Viêm, “tiểu nhi” là Tử
Long (tự của Bùi Viêm), “đương điện tọa” rõ ràng là làm hoàng đế, như vậy đã
kích thích lòng dạ muốn phản của Bùi Viêm. Lại nghe nói, trong thư Bùi Viêm gửi
cho Từ Kính Nghiệp chỉ có hai chữ “thanh nga”, Võ Tắc Thiên đã đoán ra tháng
mười hai (thanh), ngã tự dữ (nga)”, tức là vào tháng mười hai, Bùi Viêm sẽ phát
động chính biến ở triều đình, hưởng ứng quân Dương Châu. Tóm lại, theo cách nói
đó, Bùi Viêm có động cơ phạm tội, sự thực có phạm tội, chứng cứ rành rành,
không cho phép giải thích, phải giết.

Kỳ thực, Bùi Viêm không cùng đường với Từ Kính Nghiệp. Bùi Viêm cảnh giác
với con người này, ông không muốn dây vào việc Từ Kính Nghiệp muốn làm. Mục
đích của Từ Kính Nghiệp, lật đổ Võ thị, tự xưng vương. Mục đích của Bùi Viêm,
buộc thái hậu thoái vị, hoàn trả chính quyền cho Duệ Tông. Họ có điểm chung là
lật Võ nhưng điểm khác nhau quá lớn. Bùi Viêm phản đối vũ trang phản loạn, càng
không muốn để Từ Kính Nghiệp trở thành vấn đề. Bùi Viêm dự định cùng Trình Vụ
Đỉnh tiến hành “binh gián” với Võ Tắc Thiên, giống như “Tây An sự biến” của
Trương Học Lương, Dương Hổ Thành đối với Tưởng Giới Thạch. Có điều, Trương,
Dương đã thành công, còn Bùi và Trình thì không thành. Nguyên nhân không thành
công vì vận khí không may. Họ định nhân lúc Võ Tắc Thiên du ngoạn Long Môn “cho
quân ra ép”, buộc Võ Tắc Thiên phải trao trả chính quyền. Chỉ vì hôm đó xấu
trời, mưa liên miên, không thể thực hiện được kế hoạch.

Vì vậy, lúc Từ Kính Nghiệp khởi binh ở Dương Châu, có thể nói, Bùi Viêm có
hai tâm trạng: “một là vui, hai là sợ”. Vui vì, cuối cùng đã có người công khai
khiêu chiến với quyền uy của Võ Tắc Thiên, có thể bà ta sẽ không thể độc quyền
chuyên chế nữa. Sợ vì, một khi cuộc chiến bắt đầu, sẽ rất khó để ổn định thời
cuộc. Hơn nữa, chưa biết phải làm gì để đối phó với hoàng thái hậu túc trí đa
mưu hiện nay hoặc với Từ Kính Nghiệp nắm trọng binh sau này. Nhưng đây là một
cơ hội tốt trời ban, ngàn năm mới có một lần, có thể ngồi chơi hưởng lợi, nên
Bùi Viêm không thể bỏ mặc. Bùi Viêm quyết định chơi ván bài này. Bùi Viêm liền
nói với Võ Tắc Thiên: “Hoàng đế tuổi cao, không tự nắm chính trị, nên bọn phỉ
mới có cơ làm càn. Nếu thái hậu trả lại chính quyền cho hoàng thượng, thần cho
rằng bọn phản quân không đánh cũng tan”.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3