Các Học Thuyết Tâm Lý Nhân Cách - Chương 27 - Phần 19
The self: Bản thân. Đây là định nghĩa tối hậu khi con người nhận ra ý
nghĩa của chính mình.
The sting of
conscience: Sự châm chọc của
lương tâm. Đây còn được gọi là lo lắng thần kinh được thấy do kết tụ của những
lo lắng hiện sinh. Nhất là lo lắng này có nội dung liên hệ đến các giá trị ý
nghĩa làm người của chúng ta.
The wisdom of the
heart: Sự khôn ngoan của
trái tim. Đây là những thông điệp từ cõi lương tâm của mỗi người trong chúng
ta.
The Sutras: Bài giảng của Phật. Đây là những văn kiện có giá trị nhân
văn và đạo lý mà con người hiện đại hôm này tìm thấy rất nhiều ý nghĩa giá trị
trị liệu, nhất là những huấn dạy về cách giải thoát mình khỏi những điều phiền
muộn đau khổ.
The youngest child: Con út. Đây là khái niệm được Adler giới thiệu. Theo ông
con út là các cá nhân có nhiều đặc tính đặc trưng như họ không muốn mình mãi
mãi nằm ở vị trí sau cùng. Họ được chăm sóc quá nhiều và thường có xu hướng đòi
hỏi nhiều hơn các anh chị của mình. Họ thường có thể là người có ý chí phấn đấu
cao nhưng cũng có thể là những cá nhân yếm thế co cụm, lảng tránh trách nhiệm
phấn đấu của mình.
Theological
considerations: Những đánh giá
thuộc phạm trù thần học. Đây là khái niệm cho thấy thần học luôn có một vai trò
vị trí nhất định trong hệ tâm thức của nhiều người. Vì thế trong nhiều quyết
định thuộc phạm trù đạo đức, họ thường sử dụng các nguyên tắc khái niệm trong
thần học để hướng dẫn những quyết định đánh giá của mình.
Theory: Học thuyết. Đây là những đề xuất mang tính hệ thống, có
tính năng thuyết phục và được đông đảo các nhà chuyên môn chấp nhận. Học thuyết
là những lý luận có cơ sở bằng chứng, có tính năng áp dụng, có khả năng giải
thích được một hiện tượng trong cuộc sống. Học thuyết có thể được kiểm chứng và
được ủng hộ bởi những nguồn kiến thức có liên hệ. Học thuyết có tính năng giá
trị liên hệ đến đời sống chung và cung cấp những qui trình trong các bước giải
thích các nội dung được nêu ra trong một học thuyết.
The theory of
neuronal group selection: Học thuyết
sự chọn lựa các nhóm tế bào thần kinh có liên hệ đến phạm trù ý thức. Đây là
một học thuyết mới cho rằng một số nhóm tế bào thần kinh được chọn lựa đặc biệt
có chức năng đặc biệt đảm trách quá trình hình thành ý thức thông qua những đơn
vị dữ kiện thông tin cơ bản nhất.
Theravada: Nhánh Phật giáo Tiểu thừa. Đây là nhánh Phật giáo chú trọng
đến các giáo luật và chủ trương xa lánh các giá trị vật chất và tập trung vào
các hoạt động khổ tu và kỷ luật bản thân.
Therapeutic style: Phong cách trị liệu. Đây là khái niệm trong trị liệu. Các
nhà trị liệu có những phong cách trị liệu rất khác nhau và vì thế không phải
nhà trị liệu nào cũng là ứng viên cho tất cả các thân chủ. Khi phong cách liệu
pháp không phù hợp với thân chủ, nhà liệu pháp cần mạnh dạn trình bày hạn chế
của mình và đề nghị thân chủ hãy tìm đến một nhà trị liệu có phong cách liệu
pháp phù hợp hơn đối với thân chủ.
Therapeutic roots: Chức năng liệu pháp. Đây là khái niệm cho thấy nhiều lĩnh
vực khác có thể cung cấp những chức năng trị liệu như từ tôn giáo, nghệ thuật,
văn chương, thi ca…Trong đó Tứ Diệu được nhiều nhà tâm lý hiện sinh và các nhà
trị liệu mục vụ tin rằng đã chứa đựng những nền tảng căn bản tìm thấy trong các
học thuyết đề nghị đến chức năng liệu pháp.
Think too hard: Nghĩ quá sâu. Đây là khái niệm cho thấy đôi lúc chúng ta
phân tích quá sâu vào các nan đề nên cuối cùng chúng ta bị lạc trong chính những
phân tích của mình. Đây là một khái niệm cho rằng năng lượng chúng ta sử dụng
trong phân tích, nếu không tìm ra hướng xứ lý, nguồn năng lượng ấy sẽ trở thành
những nan đề tạo ra sự mất cân bằng trong hệ tâm thức. Vì thế một khuyến cáo cơ
bản là chúng ta cần tránh tập trung suy nghĩ quá sâu.
Thinking: Tư duy. Đây là khái nhiệm chúng ta xử lý các nan đề bằng
cách phân tích đánh giá các bộ phận dữ kiện thông tin trước khi chúng ta có
những quyết định sau cùng.
Thinking erros: Suy nghĩ sai lệch. Đây là điều chúng ta thường mắc phải khi
chúng ta không điều nghiên và sử dụng quá nhiều chủ quan trong cách tiếp cận và
đánh giá. Những kiểu suy nghĩ sai lệch có thể là kết quả của những cảm tính xốc
nổi, những định kiến quen thuộc, những sơ sót trong quá trình đánh giá, kết
luận quá sớm, không đánh giá toàn bộ các dữ kiện liên hệ.
Threat: Khái niệm sợ hãi. Sợ hãi chính là trạng thái cảnh giác về
sự khủng hoảng về địa hạt hiện tượng của bản thân (vốn luôn cần được duy trì ở
trạng thái cân bằng). Sợ chính là cảm xúc khi chúng ta nhận ra một sự đe dọa mà
chúng ta không có khả năng xử lý. Đôi khi chúng ta sợ vì tính năng không chắc
chắn của các sự kiện xảy ra trong cuộc sống. Cần biết nhiều cá nhân lo sợ vì họ
không biết chuyện gì sẽ xảy ra đối với họ.
Threatening situation: Tình trạng lo âu sợ hãi. Đây là trạng thái chúng ta cảm
thấy mình bị đe dọa. Các tình huống này có thể có những nguyên nhân trực tiếp
nhưng cũng có thể chỉ là những khủng hoảng tâm lý do chính chúng ta biến mình
trở thành những nạn nhân của chính mình. Tình huống sợ hãi kéo dài sẽ khiến
chúng ta suy sụp và tình trạng rối loạn tâm thần rất có thể sẽ xảy ra.
Threshold for
aggressive behavior goes down: Khả năng
kìm hãm hành vi gây hấn giảm. Đây là khái niệm cho thấy nơi các loại động vật
các hành vi gây hấn có thể được điều tiết. Ứng dụng nơi con người, các liệu
pháp tư duy và liệu pháp hành vi có thể giúp cho các cá nhân điều tiết và sửa
đổi các hành vi gây hấn của mình.
Throwness: Bị ném vào thế giới. Đây là khái niệm được các nhà tâm lý
hiện sinh giới thiệu vào nghành tâm lý nhân cách. Theo khái niệm này thì khi
chúng ta chào đời, cả một hệ thống xã hội và thế giới này đã được kiến tạo. Kết
quả là sự xuất hiện của chúng ta trong cuộc sống chính là hiện tượng bị ném vào
thế giới. Đây là một khái niệm có vẻ bi quan nhưng những giải thích của các nhà
tâm lý hiện sinh thật ra có những cơ sở hợp lý.
To make the
unconscious conscious: Biết vô
thức trở thành có ý thức. Đây là câu nói nổi tiếng của Freud khi ông cho rằng
mục tiêu của liệu pháp là đem những nan đề chôn giấu trong cõi vô thức lên trên
bề mặt ý thức để cá nhân có cơ hội xử lý các nan đề của mình.
To entertain
inmages: Khả năng giữ lại
ấn tượng. Đây là khái niệm mà Bandura đã giới thiệu. Chính những ấn tượng này
đã giúp chúng ta lưu giữ các khái niệm trong hệ tâm thức và qua quá trình phát
triển ngôn ngữ của chúng ta.
Toleralt: Kiên nhẫn. Đây là trạng thái chúng ta sử dụng khả năng kiềm
chế của mình khi tiếp cận với những nan đề có nội dung và cường độ lớn hơn khả
năng của chúng ta. Kiên nhẫn chính là thái độ can đảm khi chúng ta đè nén những
xúc cảm và thể hiện được thiện chí bình tĩnh với mình và với hệ tâm thức của
mình.
Tomb world: Thế giới nhà mồ. Theo Binswanger, đây là thế giới bình
thường chúng ta đang sống nhưng với một số cá nhân thì đây là thế giới vật chất
tầm thường: họ muốn đến được với những thế giới tự do bay bổng cao hơn và họ
tin đấy là thế giới được giải thoát.
Taken economy: Tặng thưởng giá trị kinh tế. Đây là mô hình điều chỉnh hành
vi khi các cá nhân có những biểu hiện tốt sẽ được tặng thưởng những thứ có giá
trị kinh tế. Kinh tế ở đây được hiểu theo nghĩa những phần thưởng như bằng
khen, nghỉ lễ, được quà…Tuy nhiên một trở ngại của mô hình này là khi các tặng
thưởng không được duy trì, các hành vi tích cực cũng sẽ ngưng theo. Đây là thí
nghiệm thực hiện trong các trại cải huấn cho thấy có kết quả. Nhưng khi họ trở
về với môi trường cũ thì các hành vi này chấm dứt vì các tặng thưởng kinh tế
không còn nhiều ý nghĩa với họ nữa.
Tool box: Hộp dụng cụ. Đây là khái niệm ẩn dụ trong liệu pháp. Nhà tư
vấn tâm lý cần có những hướng xử lý uyển chuyển phù hợp với điều kiện hoàn cảnh
của từng thân chủ để đem lại giá trị hiệu quả cao nhất.
Top–down: Mô hình phân tích từ trên đi xuống. Đây là khái niệm áp
dụng trong việc phân tích lý giải các sự kiện. Theo mô hình này, các sự kiện
được phân tích từ các nguyên nhân gián tiếp, đi đến các nguyên nhân trực tiếp,
sau đó đi xuống kết quả cụ thể.
Totallities: Đặc tính tổng thể. Đây là khái niệm giải thích rằng các
sinh thể trong đời sống (hữu cơ, tâm thần, xã hội) luôn có sự hiện diện đặc
tính tổng thể. Tuy một sinh thể có những bộ phận tách biệt với những chức năng
riêng nhưng chúng được tổ chức sắp xếp có tác động lên những bộ phận khác; như
một cơ quan thống nhất. Xin xem systems.
Tratiets: Đặc tính. Đây là khái niệm được hiểu theo bối cảnh đặc tính
di truyền. Chúng ta biết các thành viên trong một chủng loại luôn được thừa
hưởng những đặc tính đặc trưng từ thế hệ tổ tiên và đến lượt chúng sẽ truyền
lại cho thế hệ con cháu. Trong bối cảnh tâm lý, các đặc tính được coi là những
nét đặc trưng riêng của những loại nhân cách khác nhau, ví dụ như đặc tính ích
kỷ, hà tiện, rộng rãi, cởi mở, thân thiện, dễ dãi, khó tính.
Transcend: Vượt qua. Đây là khái niệm khi một cá nhân vượt qua
được những hệ thống được định sẵn, vượt qua những giới hạn của mình để thật sự
trưởng thành. Đây được coi là bước quyết định khi chúng ta không còn bị ràng
buộc bởi những cảm xúc và những xung động vốn luôn có quá nhiều tác động lên
chúng ta trước đó.
Traditionalist: Nhóm truyền thông. Đây là những cá nhân luôn thích ở lại
với những giá trị truyền thống. Họ luôn e dè với những thay đổi. Họ cổ xúy giá
trị truyền thống và tin rằng những giá trị mới là những hướng đi phá cách, vốn
không tồn tại lâu. Theo họ thì các tư tưởng tự do chính là những đe dọa lên giá
trị bền vững đã tồn tại lâu trong lịch sử. Tuy những ưu tư của họ là có cơ sở,
nhưng họ không nhận ra là xã hội luôn thay đổi và những hình thái tư tưởng mới
là điều không thể tránh khỏi.
Transcranial
magnetic stimulation: TMS máy kích
thích từ trường bên trong não. Đây là một trong những kỹ thuật hiện đại cho
phép các nhà nghiên cứu tìm hiểu và đánh giá các hoạt động của não.
Transcendentthou: Sự liên hệ giữa bản thân và một thực thể siêu nhiên. Đây là
hiện tượng liên hệ qua mô hình mối quan hệ giữa bản thân nội tại (immanent
self) và một thực thể siêu nhiên đối diện nào đó. Nhiều cá nhân có cảm giác họ
liên hệ với một thực thể siêu nhiên và đây là một nguồn năng lượng nội tại
khiến họ làm được nhiều điều khiến chúng ta rất bất ngờ và khó giải thích.
Transcendence: Vượt qua chính mình. Đây là một khái niệm có tính siêu nhiên. Một hình
thức vượt qua được những rào cản ràng buộc của thế giới vật chất để đến với một
giới cảnh có thể nhìn thấy mình từ bên ngoài. Đây là hiện tượng mang tính siêu
nhiên khi con người không còn bị chi phối nhiều bởi các xung lực và những trói
buộc của thế giới vật chất.
Transcendent: Trạng thái vượt qua chính mình. Trạng thái nhận ra mình từ bên ngoài,
có những biểu hiện khác thường, cuộc sống đã chuyển qua một tâm thức của thế
giới khác. Sự liên hệ với thế giới và vũ trụ đi vào một quỹ đạo mới. Con người
cảm thấy mình là một thực thể tự do hoàn toàn và những ảnh hưởng của trọng lực
vật chất xem ra không còn đáng kể nữa.
Transference: Liên tưởng. Đây là khái niệm ứng dụng trong liệu pháp. Hiện tương xảy ra
khi một thân chủ nghĩ rằng nhà liệu pháp là người thân của họ hoặc có thể là kẻ
thù của họ. Vì thế kỹ năng cua nhà trị liệu đóng vai một người thân của thân
chủ, hoặc là những cá nhân mà thân chủ đang có nan đề. Điều này sẽ giúp thân
chủ khai thác được cảm xúc của mình.
Transaction: Một lần giao dịch. Đây là khái niệm chỉ về quá trình giao
tiếp liên hệ giữa hai cá nhân trong một mối quan hệ. Giao dịch được hiểu là
những trao đổi, chia sẻ, cộng tác, chuyển giao thông tin, hợp tác, hỗ trợ, tâm
tình, giúp đỡ, và cả những hiểu lầm, hằn học, chỉ trích và những hành vi khác.
Nhìn chung khái niệm giao dịch chính là những hoạt động hành vi liên kết 2 hay
nhiều người lại với nhau.
Transistion: Quá trình chuyển tiếp. Đây là khái niệm được Kelly áp dụng
trong học thuyết của mình. Đây là quá trình chuyển tiếp giữa những hệ cấu trúc
nhằm tạo ra những cảm xúc. Khi tín hiệu được giới thiệu, hệ tâm thức của chúng
ta sẽ đánh giá và nội dung của các tín hiệu này được chuyển tiếp thành cảm xúc,
năng lượng của hệ tâm thức được chuyển sang năng lượng cảm xúc.
Transparent
templates: Mô hình tờ giấy
mẫu can trong suốt. Đây là khái niệm trong liệu pháp. Khi cá nhân nhận ra những
khung tư duy lệch hướng của mình cần được sửa đổi, họ sẽ có quyết định thay
đổi. Bước đầu tiên là tẩy xóa những cấu trúc tư duy thiếu lành mạnh đế biến hệ
tâm thức của mình thành một tờ giấy can trong suốt sau đó được áp lên khung tư
duy lành mạnh để vẽ lại một hệ tâm thức bao gồm những khung cấu trúc mới. Đây
là một khái niệm mang tính ẩn dụ.
Transpersonal
psychology: Tâm lý siêu
nhiên. Đây là những huyền thoại truyền thống và những hiện tượng tâm lý bên
ngoài con người được khảo sát. Tâm lý siêu nhiên có đối tượng nghiên cứu là
những sự kiện hiện tượng bên ngoài hệ tâm thức nhưng có tác động lên hệ tâm
thức. Đối tượng được quan tâm là những hiện tượng có nguồn gốc tôn giáo, thần
học, và những đại lượng thần bí chưa được giải thích hoặc không thể giải thích
được.
Translate: Chuyển tải hay diễn đạt. Đây là khái niệm khi cá nhân sẽ
chuyển tải những hình ảnh trong hệ tâm thức hay những mô tả ngôn ngữ trở thành
hành vi thật sự. Nói khác đi đây là quá trình diễn dạt các hành vi như những
thông điệp của tư tưởng. Ví dụ thay vì thể hiện tinh thần giúp đỡ, cá nhân sẽ
có những hành động cụ thể thay vì chỉ là những lời nói suông.
Traumatic
experiences: Kinh nghiệm đau
thương. Đây là những vết thương lòng. Những ký ức khó chịu khi chúng ta trải
qua những kinh nghiệm thất bại, những lần bị từ chối, bị hất hủi, khi cá nhân
cảm thấy mình hoàn toàn vô dụng và tự tin của họ ở mức thấp nhất. Đây là những
lần bị tổn thương, bị làm nhục, hoặc những lần khủng hoảng tâm lý. Đây là những
kinh nghiệm thường đem lại những cảm giác khó chịu mỗi khi cá nhân nghĩ về
những kinh nghiệm này.
Traumatic
stimulation: Kích thích gây
đau đớn. Đây là những kích thích tạo ra những cảm xúc khó chịu như đau đớn thể
xác, mệt mỏi tinh thần, có tính đe dọa, gây sợ, hoặc những kích thích đặt hệ
tâm thức vào những tình huống khó chịu, phá vỡ sự cân bằng của hệ tâm thức. Vì
thế những kích thích gây đau đớn có thể là những tai nạn, các sự kiện, hành vi,
lời nói thiếu cân nhắc và những nhận xét ích kỷ.
Trickster: Nguyên mẫu phá đám. Theo Carl Jung thì trong hệ tâm thức
chúng ta luôn có những nguyên mẫu phá đám. Đây là hiện tượng trong hệ tâm thức
của chúng ta luôn có những tư tưởng thích đùa thiếu nghiêm túc, thích phá ngang
những hoạt động của người khác. Khi nhìn thấy sự thành công của người khác,
chúng ta thường không vui và không bằng lòng, chúng ta nghĩ đến những điều tiêu
cực như mong cho họ được thất bại. Nhìn chung đây là một nguyên mẫu tiêu cực.
Trishna: Những ràng buộc vật chất. Khái niệm ràng buộc được chuyển
ngữ từ khái niệm trong kinh Phật, có thể tạm dịch là sự khát (thrist), đam mê
(desire), quyến rũ (lust), thèm khát (craving), đeo đuổi (clinging) những giá
trị vật chất tạm bợ. Đây là những đặc tính của ràng buộc được mượn từ các ý
tưởng trong Phật giáo.
True self: Bản thân con người thật. Đây là khái niệm khi chúng ta nhìn
vào tấm gương của lương tâm và nhận ra chính mình trong đó. Bản thân con người
thật chỉ có thể được nhìn thấy khi chúng ta thật sự nghiêm túc và đạt được một
giới cảnh phát triển tâm thức tương đối nhất định. Bản thân con người thật là
một khái niệm định nghĩa của chúng ta, đấy là tuyên ngôn sống và là hình ảnh
của mình trong bối cảnh ý nghĩa kinh nghiệm làm người.
Trust: Tín thác tin tưởng. Đây là trạng thái cơ thể không có bất
cứ mâu thuẫn nào đối với môi trường chung quanh. Khái niệm này còn được sử dụng
trong quá trình phát triển của các em nhỏ. Đây là thời điểm quan trọng nhất
trong việc hình thành những cơ sở cấu trúc tư duy sau này. Nếu em bé được cha
mẹ chăm sóc tốt, em sẽ tin tưởng vào môi trường bên ngoài. Nhưng khi em không
được chăm sóc em sẽ mất niềm tin vào thế giới chung quanh. Những cảm giác này
sẽ đi vào thế giới tiềm thức và có ảnh hưởng lớn đến nhân cách của em sau này.
Chữ U
Ubiquitous
complaint: Những lời ca thán
xảy ra ở khắp nơi. Đây là khái niệm ủng hộ cho cõi vô thức tập thể. Khái niệm
này được Carl Jung giới thiệu. Chúng ta nhận thấy rằng thái độ bất mãn và trạng
thái không bằng lòng với cuộc sống là một trạng thái tâm lý chung. Và vì thế
tuy là những cá nhân riêng biệt, chúng ta luôn chia chung những cảm nhận của
thế giới con người.
Ulterior motive: Động cơ nhân phẩm. Đây là khái niệm nói về những cá nhân
luôn cố gắng sống tốt. Họ sống đàng hoàng đứng đắn với phẩm vị con người, họ
tránh tạo ra những tì vết và thường không có những động cơ mờ ám tiêu cực nào.
Ultimate
meaninglessness: Vô nghĩa tối hậu.
Theo triết gia Sartre nói rằng chúng ta phải học tập để chấp nhận sự vô nghĩa
tối hậu. Thật ra chân lý là một khái niệm lý tưởng và chúng ta dù có cố gắng
cách mấy vẫn khó tìm thấy được chân lý thật sự. Vì thế chúng ta cần làm quen
với sự vô nghĩa tối hậu. Nói khác đi khi đạt đến một giới cảnh phát triển tâm
thức rất xa, chúng ta sẽ nhận ra tất cả mọi giá trị chỉ có ý nghĩa tương đối
chứ không phải là những giá trị tuyệt đối nữa. Đây là một cách nói khác là
chúng ta chẳng bao giờ đi đến tận chân trời vì chân trời thật ra không hiện
diện nhưng tồn tại trong cách nhìn của chúng ta.
Ultimate causality: Căn nguyên tối hậu. Ngành vật lý vật chất đề nghị rằng việc
đi tìm một căn nguyên tối hậu trong việc chia nhỏ và chia nhỏ hơn vật chất là
một điều mạo hiểm không thể nói trước được. Vì chứng cứ từ vật lý lượng tử cho
thấy càng phân tích, vật chất sẽ trở thành một thế giới gần như không hiện
điện. Theo họ nếu cố gắng phân tích hệ tâm thức, chúng ta sẽ chỉ tìm thấy những
giá trị triệt tiêu hoàn toàn.
Ultimate reality: Thực tế tối hậu. Trong mỗi một cách nhìn là một lối tiếp
cận về một thực tế đặc trưng với những hệ giá trị tư duy của riêng người đó,
mang đậm tính năng tức thời tại một nơi chốn vào một thời điểm nhất định. Thực
tế tối hậu là một thực tế rất riêng trong cách nhìn của chúng ta và chỉ tồn tại
trong cõi riêng của mỗi người chúng ta.
Ultimate truth: Chân lý tối hậu. Theo triết gia Vaihinger tin rằng chân lý
tối hậu luôn luôn nằm ngoài tầm tay với của con người. Nói khác đi đây là cảnh
giới tồn tại trong khao khát tìm kiếm của chúng ta nhưng không tồn tại trong vũ
trụ này, kể cả trong thế giới phi vật chất. Chính vì thế trong kinh nghiệm làm
người, chúng ta luôn khao khát đi tìm chân lý tối hậu nhưng chẳng ai có thể tìm
ra nó ngoài những kinh nghiệm nhìn thấy sự vô thường của tất cả mọi hiện tượng.
Ultimate unity: Nguyên mẫu tổng hợp sau cùng. Đây là nguyên mẫu tổng hợp
của tất cả các nguyên mẫu khác nhau. Theo Carl Jung thì chúng ta ứng xử một
phần rất lớn dựa vào những nguyên mẫu vốn là những chất liệu cơ bản tạo ra các
nền tảng khung tâm thức. Vì thế nguyên mẫu tổng hợp tối hậu là kho tàng cảm xúc
của nhân loại tồn tại trong chúng ta. Nhưng chỉ khi nào một điều kiện hoàn cảnh
hợp lý, đúng thời điểm diễn ra, sẽ cho phép chúng ta truy cập những nguyên mẫu
ngủ đông này. Đây chính là một cách nói khác của cõi vô thức chung.
Umwelt: Thế giới vật chất. Đây là khái niệm của triết gia
Heidegger. Theo ông thế giới chúng ta đang sống bao gồm: thế giới vật chất
(Umwelt), thế giới xã hội (Mitwelt), và thế giới nội tại (Eigenwelt).
Unalive: Trạng thái chết chóc. Đây là khái niệm không nhận ra giá
trị ý nghĩa của đời sống. Cá nhân có những khung tư duy gần gũi với sự chết, sự
thất bại, sự tù đọng ngột ngạt, trạng thái hằn học. Các cá nhân có não thức này
thường có xu hướng hành vi hủy hoại mình và hủy hoại các sinh thể sống và những
người khác.
Underrated: Đánh giá quá thấp. Đây là não thức không nhận ra các giá
trị một cách đúng nghĩa. Cá nhân thường trừ hao quá nhiều và vì thế cách tiếp
cận và đánh giá của họ trở nên không còn khách quan chính xác. Trong bối cảnh
sức khỏe tâm thần, đây là não thức không nhận ra các giá trị tích cực của mình
và không nhận ra những giá trị tích cực của người khác.
Uncertainty: Không chắc chắn. Đây là thuật ngữ nói về các tâm trạng lo
lắng. Các cá nhân thường sử dụng các cấu trúc tư duy hoài nghi để áp dụng vào
các quá trình đánh giá. Thường thì con người là những sinh thể có những nỗi lo
sợ khi chúng ta đi vào cõi mông lung không chắc chắn. Nói khác đi con người
thường có xu hướng không thích những điều mạo hiểm khi họ không nắm chắc được
điều gì sẽ xảy ra đối với họ.
Unassailability: Nhu cầu luôn luôn mình phải đúng. Đây là nhu cầu thái quá
để trở thành hoàn hảo cầu toàn (perfection). Đây là não thức khi các cá nhân có
nhu cầu mình không bao giờ sai. Tất nhiên thái độ lành mạnh nhất khi tiếp cận
với cuộc sống là chúng ta cần chuẩn bị tinh thần để nhận ra những hạn chế nhược
điểm của bản thân và những lần làm sai, phạm lỗi chính là cơ hội để chúng ta
sống khiêm tốn hơn và có những cơ hội sửa đổi để càng hoàn thiện hơn nữa.
Unavoidable death: Sự chết không tránh khỏi. Trong thế giới nội tâm của chúng
ta thường chất chứa những lo lắng, mặc cảm, và cả sự cảnh giác băn khoăn về sự
chết không tránh khỏi. Đây là não thức rất tự nhiên. Chúng ta ý thức được giới
hạn của tồn tại của mình. Với cá nhân có khung tư duy lành mạnh họ sẽ tập trung
năng lượng của mình vào hiện tại, một số trở nên lo lắng thái quá, một số đầu
tư vào những hoạt động tôn giáo để chuẩn bị cho mình một kiếp sau tốt đẹp hơn.
Tất nhiên chỉ có riêng cá nhân mới hiểu được điều họ cần và hành vi của họ hoàn
toàn hợp lý trong khung tư duy và nhận thức của họ.
Uncertain: Khó khăn bấp bênh. Đây là những điều bất ngờ có thể xảy ra
và chúng ta thường có rất ít kiểm soát ngoài những tiên liệu mang tính tương
đối với những xác suất nhất định. Nhiều cá nhân hoàn toàn không có khả năng
kiên nhẫn và khả năng chấp nhận trạng thái không chắc chắn.
Unconditional
positive regard: Tôn trọng thân
chủ là người tốt trong mọi hoàn cảnh. Đây là một chủ thuyết quan trọng trong
liệu pháp đi theo học thuyết của Rogers. Theo ông dù trong bất cứ hoàn cảnh nào
các thân chủ đều được tôn trọng, bất kể là khung tư duy, nhận thức, tư tưởng và
hành vi của họ như thế nào. Theo ông con người chỉ hướng đến những giá trị tích
cực khi họ nhận ra bản thân họ thật sự có những tiềm năng giá trị và họ có cảm
giác mình được tôn trọng.
Unconditional
self-acceptance: Chấp nhận chính
mình một cách vô điều kiện. Đây là khái niệm trong học thuyết của Rogers. Theo
ông chúng ta cần mạnh dạn chấp nhận chính bản thân con người của mình. Chúng ta
có quá nhiều thói quen chấp nhận mình từ những tiêu chuẩn bên ngoài và thường
tự trách mình khi khả năng của mình không đạt với tiêu chuẩn bên ngoài. Theo
ông thì dù ít hay nhiều, chúng ta luôn có những giá trị tiềm tàng rất lớn và
chúng ta cần chấp nhận tất cả những khả năng của mình, dù đó là những khả năng
khiêm tốn nhất.