Các Học Thuyết Tâm Lý Nhân Cách - Chương 26 - Phần 1

Chương 26. LINH HỒN CÓ TỒN TẠI HAY
KHÔNG?

CÁC HỌC THUYẾT TÂM LÝ NHÂN CÁCH

NHỮNG THÁCH ĐỐ MỚI VỀ NIỀM TIN TRUYỀN THỐNG

VỀ KHÁI NIỆM BẢN THÂN VÀ TINH THẦN NƠI CON NGƯỜI

1. Dẫn nhập

Tâm thức là một đại
lượng tương đối phức tạp mỗi khi chúng ta nghĩ về nó. Ý thức là một nét đặc
trưng nhất tạo ra định nghĩa con người. Nhiều người vẫn trăn trở với câu hỏi
không biết ý thức là một sản phẩm được tạo ra có nguồn gốc từ sinh học hay đây
là một điều mà con người chẳng cần đến nó mà vẫn tồn tại được. Nhiều người lý
luận rằng thú vật không cần ý thức nhưng chúng vẫn sống? Vậy tại sao con người
lại cứ phải nghiêm trọng hóa về những điều thật sự không cần thiết đến quá
trình hít thở, tiêu hóa, kiếm tiền và sinh con.

Terry Sejnowski, giám
đốc phòng thí nghiệm sinh học thần kinh điện toán của trung tâm Salk ở
California đề nghị rằng: hệ tâm thức của con người có một vai trò không lớn lắm
trong việc đảm nhiệm chức năng quyết định các hành vi và tư tưởng như chúng ta
vẫn nghĩ. Theo ông, một chất hóa học trong bộ não có tên dopamine là thành phần
chủ yếu chịu trách nhiệm thông báo cho toàn bộ hệ thống não, tạo nên phản ứng
trả lời những kích thích đến từ môi trường. Ông tin rằng có một nhóm tế bào não
chịu trách nhiệm sản xuất ra nhiều chất hóa học có nhiệm vụ kích thích não, hay
ức chế não. Kết quả là trạng thái tâm thần của chúng ta có thể thay đổi. Để
giải thích một cách đơn giản hơn, ông nói, những tác nhân trong quá trình tiến
hóa – nhu cầu mà mỗi cá nhân sinh thể cần có để sinh tồn như đi tìm thức ăn,
tìm bạn tình, cũng như né tránh kẻ thù nguy hiểm của mình – tất cả đều được
quyết định bởi cơ năng vô thức. Ông nói: ý thức giải thích những điều đã được
quyết định sẵn cho mỗi chúng ta. Vậy điều đó có ý nghĩa gì trong đời sống con
người? phải chăng ý thức chỉ có một vai trò rất nhỏ trong những biến động nơi
tư tưởng của con người? ông nói tiếp: Thật khó khi tách hẳn suy luận và lý trí
ra khỏi quá trình quyết định của con người (ý thức) – nhưng – chúng ta đã đánh
giá quá cao vai trò và chức năng của ý thức trong quá trình hình thành một
quyết định.

Chẳng biết chúng ta có
đánh giá quá cao hay chúng ta đã đánh giá vai trò của ý thức quá thấp, chỉ biết
hôm nay chúng ta luôn nói về ý thức, ít nhất trong hơn hai mươi năm trở lại
đây. Hiện nay, ý thức đã là một trung tâm thảo luận được kỹ nghệ trí thông minh
(intellectual industry) đặc biệt quan tâm nghiên cứu.

Một điều đáng ngạc
nhiên là sự tập trung nghiên cứu về ý thức từ nhiều người lại càng dẫn đến
những quan điểm mâu thuẫn khác biệt về ý thức. Cố gắng của các nhà thần kinh
học, tâm lý học, các nhà tâm lý học nhận thức, các chuyên gia thông minh nhân
tạo, các nhà vật lý và cả các nhà triết học xem ra càng làm cho những cuộc thảo
luận nảy sinh ra nhiều chiều hướng suy nghĩ rất khác nhau.

Cuối cùng chúng ta đã
thu lượm được điều gì từ những cố gắng ấy? Liệu chúng ta có đến gần hơn được
với bộ não vật lý trong việc giải thích các mối liên hệ đến tư duy, kinh
nghiệm, ý thức về bản thân của mỗi cá nhân chúng ta? Phải chăng khoa học đã
nghiên cứu ý thức bằng ngả đi tìm một mô hình chuyển động thuyết nhật tân
(Copernican movement), một mô hình giống như các hành tinh xoay quanh trung tâm
điểm là mặt trời? Và hiện nay người ta vẫn đang đợi chờ kết quả của những công
trình thí nghiệm để có một học thuyết toàn diện và thuyết phục về ý thức?

2. Cuộc chiến giữa các nhà tư tưởng

Cuộc chiến vẫn tiếp
diễn. Những câu hỏi về ý thức và những câu trả lời luôn là một mảng đề tài lớn
mà nhiều người vẫn hướng về La Jolla, một điểm nóng trên hành tinh chúng ta.
Đây là nơi tập trung nhiều trung tâm được trang bị những dụng cụ nghiên cứu
hiện đại và đầy đủ về ý thức. Nói khác đi La Jolla là nơi đầy hứa hẹn trong
nghiên cứu về ý thức nơi con người.

Một điều thú vị có thể
dễ nhận ra là với đà phát triển của khoa học kỹ thuật và máy móc, chúng ta vẫn
không bằng lòng với những khám phá về cõi ý thức của mình. Chúng ta càng lúc
cành hăm hở hơn trong việc đi tìm một câu trả lời từ một bộ phận quan trọng của
cơ thể – Bộ Não. Đây là một cơ quan đầu não, đầy những vết nhăn, nặng chừng 1.5
kg (3 pounds) cực kỳ quan trọng với con người. Các nhà học thuyết phân tích đã
khiến nhiều nhà thần học, triết học và những người có não thức truyền thống lo
lắng rằng khoa học đang tấn công vào thành lũy cuối cùng của linh hồn, hoặc ít
nhất những cố gắng của các nhà học thuyết phân tích đang tấn công vào khái niệm
ý thức bản thân. Các nhà thần học và triết học vẫn hy vọng rằng ý thức không
thể chặt ra thành từng khúc nhỏ được.

Từ chối hẳn sự hiện
diện của linh hồn hoặc cố gắng trong việc phản chứng những đặc tính phi vật
chất của ý thức là một hướng đi đã có từ lâu nhưng chưa ai có thể cung cấp đầy
đủ các dẫn chứng thuyết phục sắc bén. Cứ thế, các cuộc tranh cãi luôn tạo ra những
hiệu ứng hấp dẫn mà con người đã mải mê săn đuổi. Phải chăng chúng ta đạt được
những thành tựu hôm nay do học hỏi bắt chước từ đời sống văn hóa? Hay chúng ta
đơn giản chỉ là một sản phẩm của quá trình tiến hóa. Cứ thế tôn giáo và khoa
học đã, đang và có lẽ sẽ tiếp tục giằng co trong cuộc chiến này.

Giả sử có những tiếng
nói chung cất lên nhằm chứng tỏ rằng có một điểm đồng ý từ hai lối tiếp cận với
khái niệm ý thức nơi người gặp nhau: liệu tôn giáo và khoa học có chịu lắng
nghe nhau và ngồi chung xuống một bàn thương nghị, hay cả hai bên đều phản đối
thiện chí đi tìm tiếng nói chung ấy?

Tất nhiên cả hai phía
đều có những lý do và hy vọng về giấc mộng chiến thắng vinh quang của mình. Cho
đến thời điểm hiện tại tất cả những học thuyết đều quá chung chung và có quá
nhiều điểm yếu để đối phương có thể tấn công. Trong lúc khoa học thần kinh hiện
đại đang ráo riết nghiên cứu về lĩnh vực tự nhiên và vật lý nhiều người càng tỏ
ra quan ngại vì họ sợ tiến trình này sẽ làm rối rắm thêm quá trình phân chia
các hiện tượng đời sống con người, trong đó bao gồm cả ý thức.

Nhiều người lo lắng
rằng nếu ý thức nơi con người trở thành những đại lượng vật lý, thế giới loài
người sẽ có những biến động cực kỳ to lớn. Hoặc nếu như có ai đó tìm ra những
nguyên nhân có nguồn gốc sinh học và vật chất ảnh hưởng lên ý thức của con
người; lúc đó những giá trị tinh thần truyền thống liệu có bị hủy diệt không?
Những kiến thức khoa học mới đây nhất đã thách thức phía tôn giáo hãy tìm ra
những giải thích mang tính vật chất cơ bản về những hiện tượng trong thế giới
huyền bí siêu nhiên. Ngược lại các nhà triết lý và thần học thì thách thức khoa
học sẽ xẻ đôi cơ thể và ý thức cụ thể bằng cách nào?

3. Cơ thể và tinh thần

Một điều đáng chú ý là
mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất là nền tảng căn bản quan trọng nhất mà
nhiều tôn giáo vẫn sử dụng để duy trì khái niệm linh hồn. Một điều lợi chung
cho nhân loại là khi cả hai phe khoa học và tôn giáo cùng chạy đua, chúng ta đã
có cái nhìn mỗi ngày một khác hơn về thực trạng con người. Trong đó những giá
trị truyền thống như Kinh Thánh Do Thái hay từ Huấn giảng của Phật giáo đã có
tự ngàn xưa bây giờ được truy cập và trích dẫn như một nhắc nhở rằng vật chất
và tinh thần phải là hai đại lượng hòa nhập, đan quyện, có âm có dương chứ
không phải là hai đại lượng chống đối nhau.

Thám hiểm mối quan hệ
giữa bộ não vật lý và ý thức không phải đơn giản chỉ là một lĩnh vực lớn có
liên hệ đến câu hỏi về trí thông minh mà khám phá này còn giúp chúng ta vén ra
bức màn về các nan đề gay cấn như sống – chết mà chúng ta vẫn chưa tìm ra được
một câu trả lời chính xác.

Joseph Dial là giám
đốc một trung tâm nghiên cứu khoa học ý thức có trụ sở tại San Antonio, Texas
Hoa Kỳ. Ông là người đã có nhiều đóng góp đáng kể trong lĩnh vực này đã nhận
xét: Khám phá khoa học có những ứng dụng lâm sàng khi chúng ta nói về tình
trạng bất tỉnh dài hạn và ý thức bị ảnh hưởng nặng như trường hợp của những
người thực vật. Chúng ta cần tìm hiểu nhiều về ý thức, về khái niệm bản thân,
về ý thức nhân định của mình để xác định xem ở trạng thái bất tỉnh dài hạn hoặc
trạng thái thực vật liệu con người có còn sở hữu bản thân họ nữa hay không? Và
vì không còn tỉnh táo để sử dụng ý thức của mình, như vậy họ có còn ý thức được
rằng họ vẫn có một ý thức nhân định cụ thể.

Ý thức được chúng ta
gắn cho những chức năng và vai trò quyết định chủ động bên trong bản thân mình
hay là những hiện thân đại diện cho đời sống tâm linh của chúng ta. Đây là
những giá trị mà nhiều nhà triết lý tiền bối cổ xưa đã nhắc đến như một khái
niệm hoàn toàn khác hẳn với các khái niệm thuộc về thế giới tự nhiên vật lý.
Plato đã tin rằng tâm hồn và linh hồn là hai bộ phận khác hẳn với cơ thể vật
chất của con người. Chỉ có tâm hồn và linh hồn của con người là bộ phận biết lý
luận và phân biệt xấu đẹp thiện, ác và là bộ phận tồn tại vĩnh cửu.

Ý tưởng của ông quá
mạnh mẽ và hấp dẫn đến nỗi nhiều nhà triết học hiện đại vẫn tin theo và không
chỉ có các nhà triết học, thần học mà cả nhiều người trong chúng ta vẫn đang
nhìn vào tâm hồn và linh hồn từ những góc độ khác nhau. Nhiều người vẫn cố gắng
đi tìm cho mình một câu trả lời về linh hồn – nhất là những người có niềm tin
vào các giáo lý tôn giáo; đặc biệt là Kitô giáo. Các tín hữu Kitô tin rằng khi
họ chết, xác sẽ hư mất nhưng linh hồn tiếp tục sống, đem theo những cảm giác
vẫn thấy tồn tại trong ý thức và một ý thức về bản thân chính mình. Trong nhiều
tôn giáo họ còn tin rằng sẽ có ngày tất cả mọi nhân vị con người sẽ sống lại cả
hồn lẫn xác và trải qua một cuộc phán xét sau cùng. Sau lần phán xét này, con
người sẽ được vào thiên đàng hay hoả ngục cả phần hồn lẫn phần xác.

Khoa học thí nghiệm
bắt đầu đến với con người từ thế kỷ XVII đã thay đổi nhiều giả thiết mà Kitô
giáo Tây phương đã thống trị trong suốt một thời gian rất dài, trong đó có cả ý
tưởng cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ. Tuy nhiên những tư tưởng lớn
của thời kỳ hiện đại hôm nay đã không coi khám phá phản chứng ấy là kẻ thù của
tôn giáo, họ chỉ quan tâm đến vị trí đặc biệt của linh hồn và người bạn thân
của nó là ý thức.

Nhà toán học và triết
lý vĩ đại Pháp Rene Descartes (1596–1560) đã để lại cho hậu thế nhiều công
trình, trong đó ông đã tranh luận rằng thực tế bao gồm hai bộ phận hoàn toàn
khác nhau đó là chất liệu vật chất và chất liệu tư duy. Hai đại lượng vật chất
và tư duy này có tác động lên nhau như thế nào? Theo ông, các bộ phận cơ quan
của cơ thể gửi những tín hiệu và thông tin đến trung khu ý thức (thông qua các
tế bào não) đến với tuyến tùng quả, là một tuyến quan trọng nằm bên trong bộ
não.

Sau khi xử lý các dữ
kiện, ý thức (nằm giữa tuyến tùng quả) sẽ có những quyết định và điều khiển
giúp cơ thể có các phản ứng thích hợp; qua việc làm, qua lời nói và ý tưởng. Ý
kiến về hai bộ phận ý thức và bộ não vật lý cùng tồn tại song song này của ông
về sau được nhiều người bàn cãi, họ gọi hiện tượng này là con ma trong cỗ máy.
Nhưng từ đó về sau, các nhà thần học Kitô giáo và nhiều người khác đã tìm thấy
nơi Descartes nhưng giải thích thuyết phục, giúp họ duy trì thế đứng vị trí của
linh hồn trong thế giới con người.

Một loạt những thí
nghiệm về các con chuột và một hệ thống đường hầm chằng chịt, vốn là những thí
nghiệm có trước các nhà triết học, đặc biệt là lĩnh vực tâm lý học, đã đánh
thức nhiều người trong việc đi tìm chân dung thật sự của cõi ý thức. Những thí
nghiệm này đã thúc đẩy việc hoàn thiện các phương pháp thí nghiệm và quá trình
thăm dò điều tra. Ngoài ra các thí nghiệm này còn kích thích niềm tin cho rằng
tất cả mọi hiện tượng trong đời sống đều có thể được phân tích thành những bộ
phận đơn vị cơ bản nhỏ hơn. Người ta bắt đầu tin rằng tương quan tác động giữa
các bộ phận này được điều khiển bởi một định luật có thể khám phá bởi các hệ
thống luật tự nhiên.

Tiếp theo đó một nhà
tâm lý học người Đức của thế kỷ XIX, cũng là một nhà khoa học của Đại học
Harvard tên là William James đã gánh vác những nghiên cứu về ý thức trong một
thời gian thật dài, đáng chú ý nhất là cuốn sách của ông. Các nguyên lý trong
tâm lý học, được viết vào năm 1890.

Nhưng một điều thật
khó hiểu xảy ra ngay sau đó; song song với việc xuất bản cuốn sách, ngành Tâm
lý học đã bất ngờ bỏ hẳn việc kiểm tra và khám phá về ý thức. Họ rất thất vọng
với những điều tìm thấy trong quá trình phản tỉnh từ nội tâm. Làm sao chúng ta
có thể viết những báo cáo rất chủ quan của con người về những kinh nghiệm riêng
tư trở thành những đối tượng khoa học khách quan? Từ đó các nhà tâm lý bắt đầu
đi theo dấu chân của nhà bác học lừng danh Nga Ivan Pavlov và John Watson trong
cố gắng khám phá ý thức qua những đại lượng có thể quan sát được là hành vi của
chúng ta.

Với những ai không
thích thí nghiệm qua chuột, người ta tìm thấy nơi Sigmund Freud những hấp dẫn
khi ông giới thiệu khái niệm vô thức của con người. Freud đã đưa ra những khái
niệm rất thuyết phục và sau đó hơn nửa thế kỷ, các nhà tâm lý đã chọn lựa giữa
đi theo nhánh hành vi hoặc họ sẽ chọn đi theo học thuyết phân tích tâm lý. Thế
là các tâm lý gia bỏ hẳn việc nghiên cứu và khám phá về ý thức. Họ giao nhiệm
vụ quan trọng này cho các nhà triết học.

4. Sự góp mặt của máy điện toán

Thật chậm rãi nhưng
những phát triển của máy điện toán sau đó đã đem đề tài ý thức này trở về với
tranh luận. Sự phát minh ra phần mềm lập trình được kiểm soát bằng máy điện
toán đã khai sinh ra một lĩnh vực khoa học mới: Ngành trí thông minh nhân tạo.
Đấy là một ngành khoa học điện toán chuyên tâm vào việc chế tạo máy móc có khả
năng thực hiện những thao tác đòi hỏi trí thông minh. Chính sự ra đời của lĩnh
vực khoa học mới mẻ này đã kích thích ngành Tâm lý trong việc đi tìm những
nguyên lý chung về các quá trình thao tác tinh thần. Từ đó nhánh tâm lý học tư
duy ra đời.

Một điều quan trọng
đáng kể là những nghiên cứu khoa học về ý thức không phát triển ở giai đoạn
trước vì thiếu hẳn các phương tiện khoa học kỹ thuật cần thiết. Ngày đó, vào
thời điểm của Freud và Pavlov, chúng ta chưa có máy móc hiện đại để có thể quan
sát những phản ứng hoạt động của não khi một cá nhân nhìn thấy màu đỏ hay màu
trắng; hoặc chưa có máy ghi lại phản ứng của điện đồ não khi con người cố gắng
tập trung học thuộc lòng một số điện thoại mới. Ngày nay khoa học kỹ thuật đã
cho phép các nhà khoa học quan sát phản ứng của não khi một cá nhân vận dụng ý
thức để xử lý các thông tin.

Khoa học kỹ thuật cho
phép các nhà khoa học vẽ được bản đồ chính xác những vùng phản ứng của não cũng
như những dụng cụ máy móc cho phép các nhà khoa học đọc được những phản ứng của
não, bao gồm cả kỹ thuật rọi hình từng phần bằng vi tính, đọc được điện tích
dương thoát ra từ kỹ thuật rọi hình từng phần, đọc và quan sát hình ảnh qua kỹ
thuật nội soi âm từ, quan sát chức năng hình ảnh qua kỹ thuật nội soi âm từ,
máy đọc và ghi biểu đồ não…Những dụng cụ này đã cho phép việc khám phá ra toàn
bộ cấu trúc, lối làm việc và những vận hành của não. Các trang thiết bị mới này
cho phép các nhà khoa học tìm hiểu não mà không cần phải mổ xẻ. Một thiết bị
mới là máy kích thích từ trường bên trong não đã cho phép các nhà khoa học can
thiệp các hoạt động của bán cầu não có chức năng điều khiển những nhiệm vụ đòi
hỏi cần có ý thức.

5. Cấu trúc vận hành của não

Tuy nhiên trước khi có
sự xuất hiện của loại máy móc này, vào thập kỷ 40, một nhà khoa học Canada tên
Donald Hebb đã giới thiệu một giả thuyết uyển chuyển của mình: Một số tế bào
não khi hoạt động với nhau qua mô thức phản ứng dây chuyền tiếp nối bằng cách
chuyển đổi các điện tích trên thân tế bào thần kinh tạo thành những liên minh
tế bào. Quá trình này xảy ra khi não tiếp nhận những tín hiệu dữ kiện đến từ
môi trường xung quanh. Sau đó những tín hiệu này được tổ chức thành những khái
niệm có ý nghĩa nội dung nhất định và tiếp tục tồn tại ngay cả sau khi quá
trình liên minh tế bào kết thúc. Đơn giản hơn đây chính là quá trình hình thành
trí nhớ. Khi có những dữ kiện tín hiệu tương tự xảy ra, những liên minh tế bào
này sẽ được tập hợp và não có thể truy cập các dữ kiện đã được lưu trữ trong
tâm thức. Đây là những nền tảng cơ bản của cấu trúc thần kinh–sinh lý của tư
tưởng. Hebb đã kết luận: đây là những hoạt động phản ứng chuỗi của những nhóm
liên minh tế bào.

Cốt lõi của giả thuyết
này là những tế bào thần kinh trong phản ứng dây chuyền liên kết với nhau đã
trở thành ý tưởng quan trọng then chốt đối với những nhà khoa học thần kinh
hàng đầu trong suốt thời gian hai mươi năm qua. Như thế sẽ không quá quắt lắm
khi chúng ta hỏi các nhà khám phá rằng những giải mã về điều bí hiểm như thế
liệu có thể đơn giản hóa ý thức thành những bộ phận đơn vị nhỏ bé nhất? Hoặc ít
nhất chúng ta có thể hiểu được hệ thống cung cách làm việc của ý thức – thông
qua nhiều hệ thống tế bào thần kinh.

Trong số những nhà
nghiên cứu về lĩnh vực táo bạo này khi giải thích cấu trúc vận hành của ý thức
đã có một vài người đạt giải thưởng Nobel. Và họ cũng là những người đã thay
đổi lĩnh vực nghiên cứu từ các ngành khoa học khác chuyển sang nghiên cứu về ý
thức, và họ đặc biệt có những đam mê sâu sắc đối với khu vực này.

Gerald Edelman là
người đoạt giải thưởng Nobel năm 1972 trong lĩnh vực miễn dịch học và ông sáng
lập ra Viện khoa học thần kinh nằm phía tây của Viện Salk tại La Jolla. Edelman
mở học viện này năm 1981, đối diện với học viện Rockefeller ở New York nhưng
sau đó tọa lạc tại La Jolla vào năm 1993. Tại đây ông còn giữ chức vụ giám đốc
ban thần kinh sinh học của Học viện Nghiên cứu Scripps, đối diện với Học viện
Khoa học thần kinh. Ông là một người nói năng lưu loát về âm nhạc, nghệ thuật,
triết học cũng giống như ông nói chuyện về khoa học. Đam mê đầu tiên của ông là
đàn vĩ cầm, nhưng ông lo lắng rằng mình không có đủ tố chất trở thành một người
nghệ sĩ biểu diễn có tài – thế là ông quyết định đi theo con đường y học, sau
đó ông tập trung vào nghiên cứu. Ông cho rằng Thuyết tiến hóa (Theory of
evolution) của Darwin đã cung cấp nền tảng để ông nghiên cứu về cấu trúc của
các chất kháng thể và đây cũng là nền tảng trong học thuyết của ông về sự chọn
lựa các nhóm tế bào thần kinh có liên hệ đến phạm trù ý thức. Ông kể rằng ông
có nguyện vọng đem quá trình chọn lọc áp dụng với các tế bào thần kinh trong
tiến trình xây dựng ý thức.

Eldeman viết rất nhiều
sách về lĩnh vực ý thức. Ông đã khám phá ra nhiều cách khác nhau minh họa hoạt
động của những mạch tế bào thần kinh. Theo Eldeman, trong các giai đoạn phát
triển từ khi trẻ em còn nằm trong bụng mẹ, nhiều nhóm tế bào não liên kết lại
với nhau một cách có tổ chức; có thể được khoanh vùng lại thành khu vực bản đồ,
tuân theo những định luật di truyền học. Sau đó chính kinh nghiệm thu thập được
từ môi trường sống đã tiếp tục củng cố những chức năng đặc biệt của các nhóm tế
bào não này hoặc làm suy giảm đi những liên kết của chúng. Kể cả việc sẽ có
những nhóm liên kết tế bào mới sẽ được sinh ra – dựa trên những nhu cầu bên
trong cơ thể hay đến từ thế giới bên ngoài, nhất là khi những tổ hợp tế bào
thần kinh mới này cung cấp hiệu quả có lợi cho cơ thể nhằm xử lý phù hợp với
điều kiện sinh hoạt trong môi trường.

Edelman nói rằng: Quá
trình diễn ra liên tục song song giữa những tín hiệu tại các vùng khác nhau của
bản đồ não bộ, đồng thời cùng diễn ra với những mạng liên kết thuộc hệ thống
cấu trúc của não là khung cơ bản tạo cơ hội để các nhóm tổ hợp tế bào thần kinh
liên kết lại. Hoạt động của các nhóm tế bào thần kinh từ những khu vực bản đồ
có mối quan hệ gần gũi với những đối tượng vật thể vốn trực tiếp nối kết với
trí nhớ. Khung cơ bản sẽ điều khiển các phản ứng liên kết giao thoa và cũng là
những kinh nghiệm đặc trưng rất khác nhau. Chẳng hạn như ký ức về một hoạt cảnh
nằm trong hệ ý thức mà các nhà nghiên cứu gọi là một hiện tượng đặc trưng.

Liệu nền tảng cơ bản
của quá trình sinh–hóa học được coi là đã điều khiển những hiện tượng đặc trưng
có đủ sức thuyết phục và cung cấp cho chúng ta kết luận về tất cả những kinh
nghiệm của nhân loại. Vậy, kinh nghiệm tinh thần đòi hỏi đến những lý luận ý
thức cao cấp có liên hệ đến khái niệm cảm giác về ý thức bản thân và ngôn ngữ
sẽ được giải thích như thế nào đây? Edelman cho rằng con người có hai hệ ý
thức. Ông nói chúng ta đã tiến hóa để có những cấu trúc ý thức làm nền tảng cơ
sở cho ngôn ngữ phát triển. Ông nói: Nhưng kể từ khi con người phát hiện ra các
luật lệ cấu trúc văn phạm trong ngôn ngữ, tất cả mọi điều không rõ ràng nhầm
lẫn sẽ biến mất.

Mọi sinh vật – trong
cố gắng đi xa nhất của mình chỉ cho phép chúng hiểu được những biểu tượng bằng
cách sử dụng ý thức. Đời sống sinh vật không thể nào hoàn toàn được phân tích
thành những bộ phận đơn vị quá nhỏ. Hiện tại Edelman có 36 nhà nghiên cứu cùng
làm việc tại Viện nghiên cứu của ông trong việc chế tạo ra một bộ máy robot có
khả năng nhặt lên những vật thể chúng muốn và tránh không nhặt lên những đồ vật
chúng không muốn. Máy robot này hoạt động hoàn toàn không dựa vào một hệ thống
hướng dẫn đã được lập trình sẵn mà do các máy này học được từ kinh nghiệm bản
thân của chúng qua những khả năng biết thay đổi biết sáng tạo và củng cố những
kinh nghiệm này. Đây là thế hệ máy robot mới thỉnh thoảng chúng có thể tự thay
thế những vi mạch thần kinh tổng hợp nhân tạo trong phần mềm, thông qua những
lần nhặt đúng vật thể chúng muốn hoặc nhặt lầm vật thể chúng không muốn.

Edelman nói tiếp:
Những loại máy dựa vào mô hình não người sẽ xuất hiện nếu ý thức là một quá
trình vật lý tuân theo luật tự nhiên. Theo như lời của ông, ít nhất chúng ta có
thể mong đợi một khả năng khả thi trong tương lai sẽ xảy ra. Chúng ta có thể
chứng kiến những thế hệ robot có bộ xử lý thông minh như người.

Một nhà khoa học được
giải thưởng Nobel khác là Francis Crick, người đã chuyển quá trình nghiên cứu
về ý thức qua ngả khác có thể giải thích một cách dễ hình dung hơn trong việc
sử dụng khoa học để khám phá về lĩnh vực ý thức nơi con người. Ông là người đã
cùng James Watson khám phá về hai nhánh xoắn cấu trúc của DNA (double helical
structure of DNA). Sau hai thập kỷ tìm ra khám phá bước ngoặt vào năm 1953 ấy,
ông đã có những đóng góp rất lớn vào sinh học phân tử và sinh học phát triển.
Năm 1976, Crick rời Đại học Cambrigde để đến Viện Salk tham gia một đề án đã
khiến ông rất hào hứng mê say từ những năm đầu thập kỷ 50: Nền tảng cơ bản sinh
học của ý thức.

Không lâu sau đó ông
làm việc với Christof Koch, một nhà khoa học trẻ tuổi người Đức đầy hứa hẹn.
Koch là người được đào tạo chuyên môn vật lý và có một đam mê đặc biệt với các
tế bào thần kinh, các quá trình nhận thức và say mê môn thể thao leo núi. Hai
nhà khoa học này đã bắt đầu lao vào một hành trình mà họ gọi là những liên hệ
thần kinh của ý thức một tên gọi mà hai ông đã định nghĩa là. Những tập hợp đơn
vị nhỏ nhất của các sự liên hệ tế bào thần kinh cho phép những phạm trù đặc
trưng nhất định của nhận thức ý thức được xuất hiện.

Tên gọi cuốn sách Một
Học Thuyết Bất Ngờ (The Astonishing Hypothesis) năm 1994 của Crick có câu đầu
tiên viết rằng: Một Học Thuyết Bất Ngờ là điều viết về bạn, những niềm vui và
đau khổ của bạn, những ký ức và cả những khát khao, những cảm giác về nhân vị
cá nhân và ý chí tự do của bạn, thật ra chẳng khác gì hơn là những hành vi vốn
là kết quả của một tập đoàn mênh mông những tế bào thần kinh và những phân tử
hoá học liên kết chúng lại.

6. Hai hướng nhìn khác nhau

Mặc dù Crick qua đời
vào năm 2004, Koch vẫn tiếp tục công cuộc nghiên cứu về đề tài này với Học viện
Kỹ thuật California tại Pasadena. Trong tác phẩm của mình: Hành Trình Đi Tìm Ý
Thức (The Quest for Consciousness), Koch đã phát biểu với một thái độ tự tin
hơn cả người thầy của mình khi hai người tập trung vào các tế bào thần kinh.
Ông không chỉ khám phá được sự liên hệ mà còn tìm ra nguyên nhân tạo ra ý thức.
Trong buổi hội thảo lần thứ mười của Hiệp hội nghiên cứu Khoa học về ý thức tại
Oxford, tổ chức ở Anh Quốc, Koch có vẻ rất xuề xòa và khôi hài khi nói với một
cử tọa ba trăm nhà nhận thức học và các nhà triết học. Koch cho rằng ông có
những khám phá rất thực tế có thể thực hiện được qua thí nghiệm.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3