Các Học Thuyết Tâm Lý Nhân Cách - Chương 20 - Phần 1
Chương 20. VIKTOR FRANKL HỌC THUYẾT
NHÂN CÁCH HIỆN SINH
CÁC HỌC THUYẾT TÂM LÝ NHÂN CÁCH
1. Dẫn nhập
Vào tháng 9 năm
1942, một bác sĩ trẻ cùng với vợ mới cưới, cha mẹ của ông và một người anh ruột
bị bắt ở Vienna rồi được đưa đến trại tập trung ở Bohemia. Đó là một sự kiện đã
xảy ra và trải qua ba trại tập trung khác nhau đã khiến vị bác sĩ trẻ này – tù
nhân mang số 119.104 – phát hiện ra điều kỳ diệu tuyệt vời nhất trong cuộc đời
của mình.
Sự kiện đầu tiên là
ông bị đuổi ra khỏi nhà với tất cả những bản thảo bị mất sạch. Đó là tất cả
những công trình làm việc của ông – ngay lần người ta đưa ông đến Auschwitz.
Mặc dù ông đã khâu kỹ vào áo khoác nhưng vẫn bị phát hiện và bị tịch thu vào
phút chót. Sau đó ông đã trải qua nhiều đêm cố gắng xây dựng lại toàn bộ công
trình của mình trong trí óc. Rồi ông cắm cúi ghi lại trên những mảnh giấy vụn
mà ông cóp nhặt được.
Vào một buổi sáng
trong lúc ông cùng đoàn tù nhân đi làm việc trên một tuyến đường sắt trước lúc
mặt trời mọc, một giây phút kỳ diệu đã xảy ra: Một bạn tù lớn tiếng lo lắng hỏi
về tin tức số phận người vợ của mình. Điều đó đã khiến vị bác sĩ trẻ này nghĩ
đến người vợ của ông và ông nhận ra rằng cô ấy cũng đang ở với ông.
Sự giải cứu đến từ
tình yêu. Một người đã mất tất cả, chẳng còn gì để ham sống nhưng đã tìm thấy
hạnh phúc, nhưng đấy chỉ là một phút giây ngắn ngủi trong tâm tưởng của ông về
người vợ thân yêu của mình.
Rồi trải qua cơn
đau của mình, ông không thể làm gì hơn, chỉ có thể nhìn thấy những lựa chọn mà
ông dựa vào đó để sống sốt – chính là nhìn vào tương lai – dù đó là một nỗi đau
tàn nhẫn nhất. Tuy nhiên ông vẫn hy vọng được nhìn thấy người thân của mình sau
này. Và ông tin chỉ có hy vọng mới giúp ông vượt qua được những nỗi đau của nhà
tù.
Đó là điều kỳ diệu
nhất mà ông đã tìm thấy trong nỗi đau xa cách. Và đây cũng là điều khiến ông
rất bất ngờ. Ông phát hiện ra con người còn có cả mục đích của cuộc sống nữa.
Tuy mục đích cuộc sống trần trụi nhưng vẫn tồn tại giữa hai cực sáng tạo và
hưởng thụ, sẵn sàng chờ đợi tinh thần trách nhiệm của con người góp sức để có
một quyết định hướng đến khả năng cao hơn của hành vi đạo đức. Đây chính là
thái độ không chịu đầu hàng của con người, chính là động cơ tồn tại ở trong mỗi
con người. Khát khao tồn tại này được điều khiển từ những nguồn trợ lực từ bên
ngoài. Không có đau khổ và cái chết, đời sống của con người không bao giờ được
kiện toàn. Đó là những suy nghĩ của một bác sĩ trẻ, tên của ông là Vicktor Emil
Frankl.
2. Tiểu sử của
Viktor Frankl
Viktor Frankl sinh
tại Vienna vào ngày 26 tháng 3 năm 1905. Cha của ông, tên là Gabriel Frankl,
một người có tính kỷ luật cao. Đến từ Moravia, một nhân viên tốc ký khiêm tốn
và sau đó trở thành giám đốc bộ Phúc Lợi Xã Hội của chính phủ. Mẹ của ông, Elsa
Frankl, một người đàn bà tần tảo, nhu mì đạo đức đến từ Prague.
Là con trai giữa
trong ba người con, cậu bé Viktor rất thông minh và hiếu kỳ. Mặc dù chỉ mới bốn
tuổi nhưng cậu bé đã nằng nặc đòi lớn lên sẽ trở thành một bác sĩ. Khi học
trung học, cậu bé đã nhiệt tình tham gia tổ chức Công nhân xã hội thanh niên
địa phương. Với cá tính rất thích được tiếp xúc với người khác đã khiến ông có
hứng thú với môn tâm lý. Ông tốt nghiệp cấp ba với bài luận phân tích tâm lý về
triết gia Schopenhauer, được chọn đăng trên một tạp chí Thế Giới về phân tích
tâm lý, sau đó ông bắt đầu có những liên hệ mật thiết với Sigmund Freud.
Năm 1925, một năm
sau khi tốt nghiệp cấp ba và chuẩn bị học Đại học ngành y, ông gặp Freud.
Frankl có vẻ thích học thuyết của Alfred Adler và năm đó ông có một bài đăng
trên tạp chí của Alfred Adler. Năm sau ông giới thiệu khái niệm ý chí đi tìm ý
nghĩa cuộc đời (logotherapy) với đông đảo công chúng lần đầu tiên, sau đó ông
tiếp tục gọt dũa và chuẩn bị tách ra một nhánh tâm lý riêng trong cộng đồng tâm
lý Vienna lúc bấy giờ.
Vào năm 1928 và
1929, Frankl tổ chức một trung tâm tư vấn miễn phí cho các trẻ em tuổi dậy thì
ở Vienna với sáu thành phố khác và bắt đầu làm việc với phòng khám của các
trường đại học. Năm 1930, ông hoàn tất chương trình đào tạo bác sĩ y khoa và
được mời vào chức phó giáo sư. Sau vài năm, Frankl bắt đầu tiếp tục học về thần
kinh học.
Năm 1933, ông được
giao nhiệm vụ trưởng khoa chăm sóc các bệnh nhân nữ có ý định tự tử tại một
bệnh viện tâm thần với nhiều bệnh nhân trong năm. Năm 1937, Frankl mở phòng
mạch đầu tiên với hai chuyên ngành tâm thần và thần kinh. Một năm sau đó, quân
đội của Hitler tấn công Áo. Và rồi ông có được thông hành đi Hoa Kỳ năm 1939
nhưng vì lo lắng cho cha mẹ đã lớn tuổi nên ông cứ nấn ná mãi. Cuối cùng thông
hành của ông đã hết hạn.
Năm 1940, Frankl
được giao chức giám đốc ban thần kinh của bệnh viện Rothschild là nhà thương
duy nhất giành cho người Do Thái tại Vienna trong suốt thời gian chính quyền
Đức quốc xã cai trị. Ông đã chẩn đoán cho nhiều bệnh nhân để giúp họ tránh khỏi
bị chích thuốc cho chết áp dụng đối với những bệnh nhân tâm thần. Trong thời
gian này ông bắt đầu viết cuốn Árztliche Seelsorge, dịch sang tiếng Anh có tên
gọi The Doctor and the Soul (Bác sĩ Và Tâm hồn).
Frankl làm đám cưới
năm 1942 và trong tháng 9 năm đó, bản thân ông cùng vợ, cha mẹ và người anh tất
cả đều bị bắt giam rồi đưa đến trại tập trung ở Theresienstadt, Tỉnh Bohemia.
Cha của ông chết rũ trong trại tập trung vì đói. Mẹ và anh của ông bị giết ở
trại Auschwitz vào năm 1944. Vợ của ông chết tại Bergen – Belsen năm 1945. Chỉ
có cô em gái Stella là sống sót, vì cô đã cố gắng tranh thủ di dân đến nước Úc
vào thời gian sớm hơn.
Khi ông được chuyển
đến Auschwitz, bản thảo Bác Sĩ Và Tâm Hồn bị phát hiện và phá hủy. Khát khao
được hoàn thành công việc của mình, hy vọng được đoàn tụ cùng vợ và gia đình,
đấy là động lực đã giúp ông tràn đầy hy vọng trong tình huống tuyệt vọng như ở
lúc này.
Sau đó ông được
chuyển trại thêm hai lần nữa, rồi Frankl mắc bệnh sốt thương hàn. Ông cố gắng
phấn đấu bằng cách tái tạo lại bản thảo của mình trên những mảnh giấy giành dụm
được. Tháng 4 năm 1945, trại tập trung của ông được giải phóng, ông được đưa về
Vienna và lúc ấy mới biết là tất cả những người thân của ông đã chết hết. Gần
như sụp đổ và cô độc một mình trong thế giới này, ông được người ta giao chức
điều hành ban thần kinh của bệnh viện Đa khoa Vienna, một nhiệm vụ mà ông đã
liên tục giữ trong 25 năm liền.
Rồi ông lại tiếp
tục xây dựng cuốn sách của mình và đã được phát hành. Ông được mời dạy học tại
trường Đại học Y khoa Vienna. Chỉ trong vòng chín ngày, ông đọc cho người khác
chép một cuốn sách khác có tên: Con Người Đi Tìm ý Nghĩa Của Mình (Man's Search
for Meaning). Trước khi ông nằm xuống, cuốn sách ấy bán hết chín triệu bản,
trong đó năm triệu bản được bán ở Hoa Kỳ.
Trong thời gian
cuốn sách ấy ra đời, ông gặp một phụ tá ở phòng mổ tên là Eleomore Schwindt
(Elly) và ông đã yêu ngay cô vào lần đầu gặp gỡ. Dù cô chỉ bằng nửa tuổi của
mình, ông nói chính cô đã cho ông can đảm để xây dựng lại tất cả bắt đầu từ con
số không. Họ cưới nhau vào năm 1947 và có một bé gái tên là Gabriele sinh vào
tháng 12 năm đó.
Năm 1938 Frankl
nhận bằng tiến sĩ triết học. Luận án của ông với tên gọi Thượng Đế Vô Thức –
vốn là một khảo sát về mối liên hệ giữa tâm lý và tôn giáo. Năm đó ông được mời
làm phó giáo sư thần kinh học và tâm thần học của Đại học Vienna. Năm 1950, ông
sáng lập và trở thành chủ tịch của Tổ chức y học nước Áo về Tâm Lý liệu Pháp.
Sau khi chính thức
trở thành giáo sư, ông càng trở nên nổi tiếng hơn bên ngoài nhóm bạn thân của
mình ở Vienna. Công việc của ông đã khiến nhiều tổ chức cấp bằng tiến sĩ danh
dự, chức vụ giáo sư danh dự và rất nhiều bằng khen, trong đó có cả giải Oskar
Pfister do Tổ chức Tâm Thần Học Hoa Kỳ và được đề cử vào danh sinh giải thưởng
Nobel Hòa Bình.
Frankl tiếp tục
giảng dạy tại trường Đại học Vienna cho đến năm 1990 khi ông đã 85 tuổi. Cần
nhắc thêm ông là một người hăng say leo núi và thi được bằng lái máy bay vào
tuổi 67.
Năm 1992, bạn bè và
gia đình đã thành lập Học viện Viktor Frankl để tôn vinh và ghi nhớ thành quả
của ông. Năm 1995, ông hoàn thành cuốn hồi ký của mình. Vào năm 1997, ông xuất
bản cuốn sách sau cùng: Con Người Đi Tìm ý Nghĩa Tối Hậu Của Mình (Man's Search
for Ultimate Meaning), dựa trên luận án tiến sĩ của mình. Ông viết tất cả 32
cuốn sách mang tên mình và sách được dịch ra 27 ngôn ngữ.
Viktor Emil Frankl
từ trần ngày 2 tháng 9 năm 1997 vì bệnh trụy tim. Ông để lại vợ và con gái,
tiến sĩ Gabriele Frankl–Vesely, có cháu ngoại là Katharina và Alexander, chắt
là Anna Viktoria. Nhiều người tin rằng ảnh hưởng của ông đến tâm lý học và tâm
thần học sẽ kéo qua những thế kỷ sau này.
3. Học thuyết của
Viktor Frankl
Học thuyết và liệu
pháp của Viktor Frankl thai nghén và nảy sinh trong khoảng thời gian ông sống
trong trại tập trung của Đức quốc xã. Trong thời gian này, ông đã quan sát ai
là người sống sót và ai không vượt qua được (ngay cả việc có được cơ hội để
sống!) và thế là ông bắt đầu tin vào nhà triết lý Friedrich Nietzsche đã nói
rằng: Bất cứ ai có một lý do để sống sẽ vượt qua được hầu như tất cả những khó
khăn trước mặt. Frankl nhìn thấy những ai đang hy vọng được gặp lại người thân
yêu, hoặc những ai tin rằng họ có một chương trình kế hoạch cần phải được thực
hiện và những người có niềm tin mãnh liệt… Đây chính là những con người có cơ
hội sống sót cao hơn những người đã mất hết hy vọng.
Ông gọi liệu pháp
của mình là logotherapy, từ Tiếng Hy Lạp, logos có các nghĩa sau: học tập, từ
ngữ, Ngôi Lời, tinh thần, Thượng đẽ hoặc có ý nghĩa. Với Frankl, ông chọn nghĩa
sau cùng: Có ý nghĩa, tuy nhiên các nghĩa khác của từ logos này đều có những
gián tiếp liên hệ đến học thuyết của ông. So với Sigmund Freud khi cho rằng
động cơ phấn đấu của con người vì khoái cảm lạc thú và Alfred Adler cho rằng
động cơ phấn đấu của con người đến từ muốn có quyền lực. Viktor Frankl cho rằng
động cơ phát triển của con người là đi tìm ý nghĩa và mục đích của mình.
Ông còn sử dụng một
khái niệm khác trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là tâm trí hay tinh thần – noos.
Trong truyền thống của ngành Tâm lý, ông đề nghị rằng chúng ta tập trung quá
nhiều vào động năng tâm thần, trong đó cách chúng ta nhìn vào tâm lý như một
ngành học có thể được phân tích và làm cho tâm lý trở thành một ngành học đơn
giản. Frankl khuyến cáo rằng, chúng ta nên chú ý nhiều hơn nữa đến động năng ý
thức tinh thần, trong đó sự hoà quyện linh hoạt của động năng này là điều cần
thiết cho sức khỏe của mỗi chúng ta, ít nhất nó sẽ giúp chúng ta tìm ra ý nghĩa
của mình. Con người cần đến sự hòa quyện linh hoạt để phấn đấu vì một ý nghĩa
cao cả hơn.
Có lẽ vấn đề đầu
tiên Frankl quan tâm đến trong thời gian ông mới bắt đầu sự nghiệp bác sĩ của
mình là sự nguy hiểm của phân tích (danger of reductionism). Sau đó, như ta
thấy hiện nay tâm lý trở thành một ngành học mà các nhà khoa học đang kéo nó
gần với sinh lý. Họ cho rằng tâm lý có thể phân tích thành những khu vực nhỏ
hơn, ví dụ tâm thức tư tưởng có thể là phản ứng phụ của những vận hành của não
– và khía cạnh tinh thần của con người chẳng có giá trị đáng kể để ta phân
tích. Ông tin rằng những thế hệ bác sĩ và các nhà khoa học đang quảng bá và cổ
xúy những tư tưởng phân tích và điều này sẽ dẫn đến những chỉ trích sai lầm
trong tiến trình nghiên cứu về sự hiện diện của con người.
Mục tiêu của ông là
đem thái độ cách nhìn sinh lý của tâm lý học đến gần hơn với lăng kính tinh
thần và ông coi đây là một bước quan trọng trong việc đem lại một hướng trị
liệu hiệu quả. Như ông đã phát biểu (1975): Sự phân tích quá máy móc về con
người trên bình diện thần kinh học cần đến những liệu pháp có khả năng xây dựng
lại con người.
4. Lương tâm
Một trong những
khái niệm cơ bản nhất của ông là lương tâm. Ông coi lương tâm như một đại lượng
tinh thần vô thức, khác hẳn với bản năng vô thức mà Freud và nhiều người khác
vẫn tin theo. Theo ông, lương tâm không đơn thuần là một bộ phận của con người,
mà nó là một phần cốt lõi trung tâm của con người và là nguồn năng lượng chủ
yếu của đạo đức cá nhân.
Theo ông: Làm người
đồng nghĩa với có trách nhiệm – có trách nhiệm với sự hiện diện của chính mình.
Lương tâm thuộc trực giác đã được cá nhân hóa ở một mức rất cao. Nó là đại diện
của con người thật trong điều kiện hoàn cảnh thật và không thể phân giảm dựa
trên những qui luật vũ trụ đơn giản. Lương tâm cần phải được sống qua trải
nghiệm.
Ông gọi lương tâm
là sự khôn ngoan của trái tim, nhạy cảm hơn những gì mà chúng ta vẫn cho là đã
nhạy cảm đủ. Ông cho rằng lương tâm là trạng thái hiểu biết chính mình, được
cài đặt trước những phản ứng của một cá nhân và có tính năng bản thể.
Tương tự như Erich
Fromm, Frankl nhận xét rằng thú vật có những bản năng để hướng dẫn chúng. Trong
những chế độ xã hội Nguyên Thủy, chúng ta đã dần dần thay thế bản năng đó bằng
những giá trị truyền thống. Và hiện nay, chúng ta đã không còn những bản năng
như thế. Chúng ta cố gắng tìm hướng dẫn trong những giải thích từ sự phục tùng
chung và những thông lệ đã thành nếp. Điều này đã là một cản trở chúng ta trong
việc sử dụng tự do của mình để đi tìm ý nghĩa giá trị thật sự của riêng mình.
Theo ông: ý nghĩa
con người phải được tìm thấy chứ không ai có thể dạy cho chúng ta được. Ý nghĩa
cũng giống như tiếng cười, không ai có thể bắt người khác cười được mà ta phải
kể một câu truyện tiếu lâm trước. Khái niệm này áp dụng với các mảng tinh thần
khác của con người như: niềm tin, hy vọng, tình cảm… Chúng ta không thể tin
yêu, hy vọng và yêu thương dưới sức ép của người khác.
Theo ông, ý nghĩa
là một quà tặng được khám phá chứ không phải do chế tạo. Ý nghĩa có một thực
thể riêng của nó và độc lập với tâm trí của chúng ta. Giống như một bức hình
ẩn.
Đây là hai bức
tranh hiện diện để bạn nhìn thấy không phải do trí tưởng tượng của chúng ta.
Nhưng không phải ai cũng nhìn thấy những hình thể ẩn chìm trong các hình vẽ A
và B này, hoặc ý nghĩa của bức tranh này – nhưng chúng thật sự nằm ở đó. Khám
phá ra ý nghĩa cũng tương tự như hiện tượng con mắt nhìn khi chúng ta khám phá
ra những hình ảnh chìm trong hai bức tranh nói trên. Hãy thử xem. Khi nhìn hình
A, bạn có tìm đủ được các hình vẽ các dụng cụ. Hoặc ở hình B, bạn có nhìn thấy
một bãi biển có mặt trời thật lớn nằm ở phía trái của bức hình?
Những giá trị cổ
truyền và những ứng xử truyền thống đang dần đần biến mất khỏi tâm thức của con
người hiện đại. Tuy có gây cho chúng ta nhiều hoang mang nhưng không nhất thiết
sẽ khiến chúng ta phải đau khổ và tuyệt vọng. Ý nghĩa không gắn liền với những
giá trị xã hội. Tất nhiên là mỗi xã hội đều cố gắng trong việc tổng kết những
giá trị ý nghĩa và vận dụng chúng vào một hệ thống xử thế, nhưng tựu trung lại,
ý nghĩa vẫn là một phạm trù rất đặc trưng độc đáo và riêng biệt đối với mỗi
chúng ta.
Theo ông: Con người
cần được trang bị với khả năng lắng nghe và phục tùng nhiều yêu cầu và những
lệnh truyền ẩn chứa trong muôn và n tình huống đến từ thử thách của cuộc sống.
Vì thế trách nhiệm của bác sĩ và nhà trị liệu cũng như các nhà giáo dục nằm
trong vai trò giúp đỡ con người phát triển lương tâm cá nhân, để họ đi tìm và
xây dựng ý nghĩa đặc biệt nhất trong cuộc đời của họ.
5. Lực hút hiện
sinh
Phấn đấu để đi tìm
ý nghĩa của mình có thể gây ra những khó chịu. Những khó chịu này có thể dẫn
đến những bệnh thần kinh liên hệ đến động năng hòa quyện thần kinh, hoặc được
nhiều người gọi là thần kinh hiện sinh. Con người hiện đại thường có cảm xúc cô
đơn trống rỗng, vô nghĩa, không mục đích, không có phương hướng xác định, mất
phương hướng. Họ đã đối phó bằng cách vay mượn những ứng xử lệch hướng dẫn đến
đau khổ cho chính mình, cho người xung quanh, cho xã hội.
Một trong những ẩn
dụ so sánh mà ông thích nhất đó là ẩn dụ lực hút hiện sinh. Theo ẩn dụ này, nếu
ý nghĩa cuộc sống là những gì ta khao khát thì trạng thái vô nghĩa sẽ trở thành
một lỗ hổng, một sự trống rỗng bên trong mỗi chúng ta. Khi chúng ta có những
khoảng trống, chúng sẽ trở thành một lực hút (như máy hút bụi). Lỗ hổng này sẽ
hút mọi thứ để lấp vào khoảng trống ấy.
Frankl cho biết trạng
thái lỗ hổng gây ra hiệu ứng lực hút hiện sinh trong xã hội hiện đại của chúng
ta mà hiệu ứng của nó là sự nhàm chán. Ông chỉ ra rằng con người hôm nay thường
có thói quen khi có điều kiện thuận lợi để làm điều họ rất muốn nhưng họ lại
ngãng ra, không còn tha thiết làm nữa. Nhiều người khi về hưu (một sự kiện cần
được chúc mừng) lại bị cuốn vào vòng lẩn quẩn với trạng thái bất an. Nhiều sinh
viên vất vả dốc hết sức để vào được đại học nhưng sau đó lại quay ra mải chơi,
đua đòi và lười biếng. Chúng ta chìm vào những thứ giải trí thụ động (thay vì
văn hóa đọc, chúng ta vùi vào văn hóa nghe nhìn). Và cứ mỗi ngày chủ nhật qua
đi lại là nỗi ám ảnh của ngày thứ hai đầu tuần với tâm trạng uể oải phải tiếp
tục đi làm.
Thế là chúng ta lấp
khoảng trống lực hút hiện sinh với những giá trị vất chất vì chúng cung cấp
những thoải mãn tức thời. Nhiều người vẫn hy vọng rằng những giá trị vật chất
này sẽ đáp ứng những thỏa mãn tối hậu. Chúng ta tranh thủ để có thật nhiều giá
trị vật chất trong những phạm trù khoái cảm lạc thú, qua ăn uống, đi tìm cảm
giác mạnh, ngoại tình, thuốc phiện, thể hiện đẳng cấp, chạy đua để tìm quyền
lực, đeo đuổi danh vọng bằng tiền bạc và của cải, hoặc vùi mình vào công việc,
phục tùng những giá trị xu hướng vay mượn, tuân thủ theo những giá trị truyền
thống chung…
Hoặc tệ hơn nữa
chúng ta tranh thủ khỏa lấp lực hút hiện sinh bằng những hành động hằn học,
thiếu lành mạnh, bất chấp những tôn trọng cần thiết, tự hủy hoại mình và tấn
công những đối tượng giá trị mà ta tin là nguyên nhân dẫn đến những bất hạnh
của chúng ta. Chúng ta có thể sẽ trầm mình vào vòng xoáy thần kinh lẩn quẩn
chẳng hạn như lo lắng thái quá, ám ảnh bởi đủ mọi nỗi lo âu mơ hồ, sợ sệt, co
cụm, mất hết thái độ tự tin và tâm tình trong sáng với cuộc sống. Kết quả là
chúng ta đã định nghĩa về những giá trị tạm bợ này trong mê cung vòng xoáy thần
kinh lẩn quẩn rằng: Tất cả những phấn đấu chúng ta bắt tay vào làm sẽ chẳng bao
giờ thành công và hoàn thiện.
Ông cho rằng trạng
thái vòng xoáy thần kinh lẩn quẩn là trạng thái lo lắng tự nguyện. Một số người
có thể quá sợ hãi mà vướng vào những triệu chứng có liên hệ đến một số cảm giác
lo lắng đến độ các triệu chứng ấy được tin là không thể tránh khỏi. Đây là một
hình thái mà ta quen gọi là tự kỷ ám thị. Chính những trạng thái lo lắng tự nguyện
ấy đã dẫn đến nỗi lo sợ. Chẳng hạn như ví dụ lo lắng khi đi thi, vì bạn sợ đề
thi khó hoặc khả năng làm bài thi của mình kết quả thấp, lo lắng khi đi thi ấy
sẽ ngăn cản khả năng làm bài thi của bạn, dẫn đến trạng thái sợ các kỳ thi.
Theo ông thì chúng ta đã tự nguyện rơi vào não thức lo lắng.
Một khái niệm tương
tự khác là cố gắng một cách quá đáng. Đây là hội chứng cố gắng quá mức cần
thiết, dẫn đến việc cản ngăn một cá nhân trong việc đạt được những gì anh ta
muốn. Ví dụ chứng mất ngủ, nhiều người do sức ép công việc đã không thể ngủ
được, tuy nhiên họ vẫn cứ cố gắng, qua rất nhiều biện pháp mà họ được chỉ định.
Dĩ nhiên càng cố dỗ giấc ngủ họ càng thất bại và chu kỳ mất ngủ càng kéo dài
hơn. Một ví dụ khác là chúng ta muốn mình là người bạn tình lý tưởng do sự giật
dây của phương tiện truyền thông đại chúng. Đàn ông muốn mình phải bền bỉ và
dai sức trong hoạt động giao hợp, hoặc phụ nữ phải có nhiều lần đạt được xúc
cảm khi giao hợp. Vì những lo lắng thái quá này, nhiều người tuy có hoạt động
tình dục bình thường đã nghĩ rằng mình không có khả năng đáp ứng. Cuối cùng vì
tự kỷ ám thị và rồi điều lo sợ cuối cùng đã trở thành vấn đề thật sự. Họ đã
đánh mất những cơ hội hưởng thụ từ người phối ngẫu. Nhiều người đã trở thành
bất lực hoặc lạnh cảm.
Một trạng thái khác
thường thấy nơi con người là trạng thái tự phản tỉnh quá mức cần thiết: Đây là
trạng thái nghĩ quá sâu. Nhiều lúc ta mong đợi một điều gì đó sẽ xảy ra và
chúng đã xảy ra thật, đơn giản bởi vì những hiện tượng xảy ra có sự gắn bó đến
niềm tin và thái độ của chúng ta – một hiện tượng lý giải cho khái niệm nhập
tâm mà tục ngữ Việt Nam có câu: Có thờ có thiêng, có kiêng có lành.
Frankl cung cấp một
ví dụ về một phụ nữ có một kinh nghiệm tình dục tiêu cực khó quên từ thời thơ
ấu và vì thế khi lớn lên đã phát triển không lành mạnh về khu vực này. Khi cô
đọc những trang viết tâm lý về phạm trù đời sống tình dục và tin theo những
giải thích viết trong ấy như. Những kinh nghiệm khó chịu thời bé sẽ có tác động
tâm lý lâu dài sau này. Cuối cùng cô đã trở thành nạn nhân từ sự lý giải của
chính mình (dựa trên những trang viết tâm lý kia).
Những khám phá của
ông về lực hút hiện sinh được bắt nguồn từ những kinh nghiệm của mình trong
thời gian sống ở trại tập trung của Đức quốc xã. Ông tìm thấy nhiều điều xảy ra
trong cuộc sống hàng ngày đáng lẽ sẽ cung cấp cho chúng ta những cảm giác ý
nghĩa như: công việc, gia đình và những niềm vui nho nhỏ của đời thường đã bị
tước đoạt khỏi những tù nhân và tương lai của họ có vẻ cũng biến mất. Frankl đã
nhận xét: Con người chỉ sống bằng cách nhìn vào tương lai. Những tù nhân mất
niềm tin vào tương lai sẽ đánh mất cả cơ hội ham sống của mình.
Ngày nay rất ít
người tìm trợ giúp từ liệu pháp tâm lý đã trải qua những tình huống tương tự
như trong các trại tập trung. Frankl tin rằng đây là những vấn đề bắt nguồn từ
trạng thái lực hút hiện sinh không chỉ phổ biến mà còn đang lan rộng và ăn sâu
vào ngõ ngách các tầng lớp xã hội khác nhau. Ông nhận thấy những lời ca thán
xảy ra ở khắp nơi về cảm giác vô dụng và bất lực mà ông cho rằng đó là kinh
nghiệm xảy đến khi con người không còn hy vọng.
Ngay cả những cố
gắng kinh tế và chính trị của thế giới hôm nay có thể xem là những dư âm của
trạng thái vô dụng. Chúng ta nhận ra mình bị kẹt giữa xu hướng phục tùng tự
động với ảnh hưởng của văn hóa tiêu thụ Tây phương, chủ nghĩa công xã, chủ
nghĩa phát xít, cùng với những hình thái dân chủ khác... Tất cả đều ẩn chứa
trong xã hội rộng lớn, vĩ mô, hoặc ẩn giấu trong chủ nghĩa độc đoán, dù ở thái
cực nào vẫn khiến một cá nhân có những khát khao muốn lấp đầy những khoảng
trống trong cuộc đời của họ.
Frankl tin rằng
trầm uất, nghiện ngập và có thái độ hằn học là bộ ba tạo nên bệnh lý thần kinh
công cộng. Ông đã mượn những kết quả nghiên cứu để chứng minh mối liên hệ giữa
trạng thái vô nghĩa trong cuộc sống và những hành vi thiếu trách nhiệm như: tội
phạm và nghiện ngập. Ông cảnh báo rằng bạo lực, sử dụng thuốc phiện và những
hành vi tiêu cực vẫn thấy trên ti vi, trong phim ảnh, trong âm nhạc, đã thuyết
phục rằng có người đói khát đi tìm ý nghĩa tin rằng họ chỉ có thể được cải
thiện và đáp ứng bằng cách bắt chước những anh hùng trong ti vi và phim ảnh.
Ngay cả trong thể thao, ông tin rằng đấy cũng là một kênh mô hình dẫn đến những
biến thể phản ứng mang tính chất tranh đua hằn học.