Các Học Thuyết Tâm Lý Nhân Cách - Chương 18 - Phần 1

Chương 18. LUDWIG BINSWANGER THUYẾT
NHÂN CÁCH HIỆN SINH

CÁC HỌC THUYẾT TÂM LÝ NHÂN CÁCH

1. Dẫn nhập

Tôi ghét tôi, tôi
ghét tôi

Mặt đất sinh sôi

Còn tôi chả sinh ra
điều gì cả.

Một vỏ ốc lăn lóc

Nứt nẻ, bỏ hoang,
vô dụng.

Tạo hóa ơi, tạo hóa
ơi,

Hãy thu tôi về trở
lại,

Và tạo lại tôi lần
thứ hai.

Ellen West là một
cô bé lập dị, rất kén ăn, chống đối kịch liệt khi ai đó dỗ dành cô bé ăn lấy
một chút thức ăn mà cô không thích. Cô bé quá ương bướng đến độ nổi tiếng. Cô
phải là trung tâm của mọi sinh hoạt. Ở trường nội trú bao giờ cô cũng nhớ nhà.
Đến tuổi dậy thì, cô bé đã nói: “Thà tôi là Hoàng đế Caesar chứ không ai khác!”
Song chẳng ai có thể làm gì giúp cô bé được. Năm mười bảy tuổi, bài thơ Thần
chết hãy hôn tôi, mô tả tâm trạng cô yêu cầu vị thần Biển hôn cô cho đến khi cô
chết đi. Cô bé vùi mình vào công việc và tự ca tụng văn chương của mình là điều
lành của cuộc đời.

Khi lên hai mươi
tuổi, cô đến sống tại Sicily. Sau đó cô ăn uống ngon lành và lên cân nhưng bạn
bè bắt đầu trêu ghẹo. Thế là cô bé phản ứng lại bằng cách kiêng ăn và đi bộ một
cách hết sức hăng hái vì bị ám ảnh bởi tình trạng béo phì. Cô luôn ghét chính
mình vì nghĩ mình quá mập và cho rằng chỉ có cái chết mới là cách giải quyết
vấn đề.

Rồi cô lại vùi vào
công việc và thoát khỏi tình trạng trầm uất, song cô luôn đem theo mặc cảm và
trạng thái mệt mỏi. Cô bắt đầu tích cực hoạt động mong rằng mình sẽ thay đổi
được xã hội, nhưng cô kín đáo tin rằng chuyện ấy chỉ là lãng phí và vô dụng.

Khi cha mẹ cô can
thiệp vào chuyện cô làm đám hỏi với một sinh viên, cô rơi vào tình trạng khủng
hoảng tâm thần. Cô bỏ về từ khu nghỉ mát, người gầy rạc đi và ngã bệnh. Cô tin
mình bị ám ảnh bởi tình trạng béo phì đó là nguyên nhân sức khỏe sa sút của
mình. Bác sĩ đã đề nghị cô nghỉ ngơi trên giường và sau đó cô lại có vẻ mập
thêm lên một chút. Nhưng rồi cô lại chống đối chỉ định của bác sĩ và lại làm
việc cật lực để trở về tình trạng gầy còm.

Năm hai mươi tám tuổi, cô đám cưới với anh họ của mình và hy vọng cuộc hôn
nhân sẽ giúp cô gạt bỏ hết những tư tưởng muốn gầy kia. Sau lần đầu sảy thai,
cô giằng xé phân vân giữa muốn có con nhưng không chịu ăn uống bồi bổ. Sau đó
cô bắt đầu uống thật nhiều thuốc xổ ở tuổi ba mươi ba, một ngày cô uống 60 hoặc
70 viên thuốc xổ mỗi ngày, ói mửa vào ban đêm và đi tả vào ban ngày. Cô chỉ còn
lại 92 pounds và gầy như một bộ xương.

Sau đó cô đồng ý đi
gặp bác sĩ tâm thần, hết người này sang người khác. Cô thực hiện hai cuộc tự tử
nhưng không thành. Cuối cùng người ta đưa cô vào bệnh viện nội trú Kreuzlingen.
Tại đó cô sống yên ả với chồng dưới sự chăm sóc của Ludwig Binswanger. Với một
chế độ ăn uống và thuốc an thần, cô bắt đầu khỏe mạnh hơn, nhưng vẫn nặng nề u
ám với tư tưởng sợ hãi.

Vì cô vẫn cố ý muốn
tự tử, vợ chồng cô được đề nghị phải lựa chọn: cô sẽ được đưa vào khu vực cấm
và ở nơi đó cô có thể sẽ tiều tụy lụi tàn hoặc sẽ trở về nhà. Hai vợ chồng đã
quyết định về nhà.

Vào lúc này cô cảm
thấy dễ chịu hơn vì cô biết mình phải làm gì. Cô ăn uống vui vẻ, ăn cả kẹo
sôcôla, ăn no bụng sau hơn mười ba năm trời. Cô nói chuyện vui vẻ với chồng,
viết thư cho một vài người bạn thân. Và sau đó cô uống một liều thuốc độc cực
mạnh.

Câu chuyện buồn này
là một trong những ca nổi tiếng trong nghiên cứu không phải vì vấn đề là bệnh
sợ ăn vốn xảy ra nhiều nơi phụ nữ. Song đây là một ca mà thân chủ đã có khả
năng bộc bạch cách nhìn của mình vào vấn đề của bản thân. Câu chuyện cũng xoay
quanh về người bác sĩ tâm thần đã quyết định lắng nghe lời tâm sự của bệnh
nhân. Sau đây là một bài thơ khác của Ellen West:

Tôi muốn chết như
loài chim vẫn chết

Chẻ đôi cuống họng
trong tiếng hót sướng vui

Không còn sống như
con sâu trên đất

Trở thành già nua,
xấu xí, ngù ngờ ngốc nghếch.

Không, hãy nghe đi
một lần trong tôi dạt dào bốc cháy

Cháy bùng lên, ngọn
lửa hãy nuốt lấy thân tôi.

Ellen trong thời ấu
thơ đã chia đôi cuộc đời của mình giữa hai thế giới. Cuộc sống của cô vẫn như
đang bị giam trong một nấm mồ, chôn chặt sự tồn tại của cô về đời sống vật chất
lẫn tinh thần. Nhu cầu cơ thể của cô chỉ cần rất ít từ cuộc đời, nhưng đã can
thiệp vào mục đích sống của cô. Càng lớn, cô càng thấy mình tù túng chật hẹp
trong một xã hội bị ô nhiễm. Những con người xung quanh cô có vẻ chóng quên những
điều độc ác và tất cả đều đau khổ. Trong thế giới nấm mồ, mọi thứ tan rữa và sẽ
mục nát, mọi thứ đều bị kéo xuống, một nấm mồ, một lỗ sâu.

Và Ellen West đã
sống một đời sống trong thế giới giải thoát, thế giới của tâm hồn, trong sạch
và thuần túy, nơi những khát khao được trao tặng và đáp ứng. Trong thế giới do
những hành động đều không cần đến cố gắng vì đã được cởi ách thoát khỏi sức
nặng của vật chất. Trong thế giới giải thoát, con người ta hoàn toàn tự do và
có thể bay bổng.

Có nhiều người né
tránh thế giới giải thoát. Họ không thích những lo lắng và những trách nhiệm
thường đi đôi với sự tự do. Họ thà chấp nhận việc mình được sai khiến và làm
các việc theo mô hình tập trung như, làm việc trong một cơ quan đông người, gia
nhập một tổ chức tôn giáo, hay trở thành một thành viên của một băng nhóm. Tuy
vậy họ vẫn rất lo lắng và sợ hãi, vì trong thâm tâm họ biết việc tham gia vào
một nhóm rộng lớn hơn vẫn là một điều gì đó tạm bợ vay mượn. Họ chẳng bao giờ
sống cuộc sống của mình thực sự và không bao giờ có được hạnh phúc.

Nhiều người đi tìm
sự hướng dẫn từ chính cơ thể của họ. Họ bắt đầu bằng cách đi tìm những lạc thú
đơn giản. Nhưng sau đó họ tìm thấy những lạc thú này trở nành nhạt nhẽo, nhàm
chán. Vì thế họ sẽ thay thế những lạc thú này bằng những lạc thú mới khác như
sử dụng một loại thuốc phiện hay những hành vi thiếu lành mạnh khác. Họ luôn
chạy đi tìm những kênh cảm xúc mới. Và tất nhiên là họ vẫn không thể mãn nguyện
trước. Họ cảm thấy thất bại, không phải vì không đạt được khoái cảm mà đơn giản
là họ chỉ tìm thấy khoái cảm là một trạng thái tạm bợ đánh lừa.

Ellen West cố tình
lảng tránh thế giới nhà mồ. Cô muốn tự do bay bổng cao hơn thế giới vật chất
tầm thường để bay vào thế giới giải thoát, bay vào cõi tốt lành và sạch sẽ, đầy
những điều công bằng đạo đức. Trong một góc nhỏ của mình, cô đã cố gắng đạt đến
sự thành công bằng cách giảm cân, tuy nhiên như thế vẫn chưa đủ.

Chúng ta không thể
né tránh cuộc đời chỉ vì một bộ phận cơ thể chúng ta không muốn. Chúng ta không
thể né tránh thân xác cơ thể hay né tránh tâm hồn của mình. Dù chấp nhận hay
không, chúng ta vẫn vừa là những con chim hay những con sâu trên mặt đất. Chẳng
có gì là tệ cả đấy chính là hai thái cực cao và thấp, đen và trắng, sáng và tối
luôn luôn tồn tại trong thân phận con người.

2. Tiểu sử của
Ludwig Binswanger

Ludwig Binswanger
sinh ngày 13 tháng 4 năm 1881 tại Kreuzlingen, Switzerland trong một gia đình
có truyền thống y học và đã có vài người là bác sĩ tâm thần. Ông nội của ông
vốn cùng tên Ludwig đã sáng lập ra Bệnh viện nội trú Kreuzzlingen năm 1857. Cha
của ông là Rchert, có thời kỳ đã là giám đốc của bệnh viện này. Ông chú của
Ludwig khám phá ra bệnh Binswanger (một chứng bệnh tương đối giống với bệnh
Alzheimer: bệnh giảm khả năng trí tuệ vì thoái hóa não).

Ludwig Binswanger trở
thành bác sĩ y khoa từ trường Đại học Zurich năm 1907. Ông nghiên cứu và học
tập dưới sự hướng dẫn của Carl Jung, đồng thời giúp Jung trong Tổ chức
Freudian. Giống như Jung, ông thực tập dưới sự chỉ đạo của Eugen Bleuder, người
đã tìm ra và đặt tên cho chứng bệnh tâm thần phân liệt.

Jung giới thiệu
Binswanger với Sigmund Freud năm 1907. Đến năm 1911, Binswanger trở thành giám
đốc điều khiển tại bệnh viện nội trú Bellevue. Năm kế đến, ông bị ốm và đến
thăm Freud, vẫn nhớ là Freud là người rất ít khi rời khỏi Vienna. Tình bạn của
họ kéo dài cho đến khi Freud qua đời vào năm 1939, mặc dù hai người họ có nhiều
quan điểm khác nhau về học thuyết.

Từ những năm 20,
Ludwig đã xây dựng một hứng thú trong thuyết hiện sinh được tìm thấy nơi Edmund
Husserl, Maritn Heidegger và Martin Buber. Ông càng lúc càng tách xa khỏi học
thuyết theo trường phái Freudian. Từ những năm đầu thập kỷ 30, ông chính thức
được coi là một trong những nhà liệu pháp hiện sinh. Vào năm 1943, ông công bố
tác phẩm nghiên cứu của mình (Grundformen und Erkeuntnis menschlichen Daseins),
vốn chưa bao giờ được dịch sang tiếng Anh.

Năm 1956, Ludwig
Binswanger từ chức bác sĩ trưởng tại Bellevue sau 45 năm làm việc ở đó. Sau đó
ông tiếp tục viết cho đến khi qua đời vào năm 1966.

3. Học thuyết của
Ludwig Binswanger

Tâm lý hiện sinh –
giống trường phái Freudian – là một trường phái tư tưởng, một học thuyết truyền
thống, nghiên cứu và áp dụng thực hành liên hệ đến nhiều nhà tâm lý tên tuổi.
Khác với thuyết Phân tích tâm lý, thuyết Tâm lý hiện sinh không có một nhà sáng
lập riêng mà là sản phẩm chung của một nhóm nhà triết học cuối nửa thế kỷ XIX,
tiêu biểu là Soren Kierkegaard và Friedrich Nietzsche.

Kierkegaard và
Nietzsche khác nhau như ngày và đêm. Kierkegaard hứng thú trong việc khôi phục
lại niềm tin sâu sắc vào tôn giáo khô khan của thành phố Copenhagen ngày ấy,
trong khi đó Nietzsche là người nổi tiếng vì thái độ của mình khi ông phát
biểu: Thượng Đế đã chết thật rồi. Nói chung là họ khác nhau về nền tảng triết
lý, tuy cả hai tìm đến quan điểm phục vụ con người thật (real people). Cả hai
đều rất tâm huyết với những vấn đề khó khăn trong đời sống của con người. Hai
ông cho rằng sự hiện diện của con người không thể gói gọn trong những hệ thống
lý luận phức tạp (complex rational systems), tôn giáo hay triết học. Cả hai ông
đều gần gũi với thơ ca nhiều hơn là với những nhà lý luận.

Sau Kierkegaard và
Nietzsche, tương đối nhiều nhà triết lý (hiện nay là nhiều nhà tâm lý) đã cố
gắng giải thích và phục hồi ý tưởng hiện sinh. Một số người vì không thích thơ
ca lắm nên việc đọc những tác phẩm gốc của hai ông rất khó khăn. Họ cảm thấy
phải bơi ngược dòng thời gian ngôn từ để có thể lĩnh hội được những luồng tư
tưởng lớn này. Nhiều nhà tâm lý đã chịu ảnh hưởng tâm lý hành vi và tâm lý sinh
lý, nên việc nắm vững học thuyết Hiện sinh là một điều hiển nhiên khó. Nhất là
hiện nay chúng ta đã quá tin vào khoa học và lôgíc.

4. Hiện tượng học

Hiện tượng học là
phương pháp nghiên cứu cẩn thận và hoàn thiện về những hiện tượng khó giải
thích nơi tâm thức con người. Hiện tượng là nội dung của cõi ý thức như: các
đức tính, các mối quan hệ, những sự kiện, những tư tưởng, hình ảnh, trí nhớ, ảo
tưởng, cảm giác, hành vi… mà chúng ta đã trải nghiệm qua. Hiện tượng học là một
cố gắng giải thích để chúng ta hiểu và tiếp cận với những kinh nghiệm này, từ
đó ta có thể diễn đạt chúng một cách khách quan và chính xác nhất.

Nếu một nhà tâm lý
đã được huấn luyện về thí nghiệm, thuyết Hiện sinh là một kênh tiếp cận với đối
tượng một cách hoàn toàn khác hẳn. Trong khoa học và tâm lý thực nghiệm, chúng
ta có xu hướng gạt bỏ tất cả những chủ quan của mình và nhìn bản chất của một
sự kiện một cách khách quan nhất. Nhà hiện sinh cho rằng chúng ta không thể gạt
bỏ tất cả yếu tố chủ quan khi đánh giá bản chất của một sự kiện, dù ta có cố
gắng đến đâu đi chăng nữa. Ống kính khoa học muốn nhìn sự kiện một cách cụ thể
chắc chắn, tuy nhiên theo các nhà hiện sinh thì đặc tính chủ quan vốn là một
đặc tính không bao giờ hoàn toàn tách khỏi đặc tính khách quan được.

Hầu hết các triết
lý hiện đại, bao gồm cả triết lý Hóa học có khuynh hướng chia đôi. Họ thích
chia đôi thế giới trở thành hai phần: Bộ phận khách quan được coi là bộ phận
vật chất và bộ phận chủ quan là phạm trù cõi ý thức. Kinh nghiệm của chúng ta
có những liên hệ với cả hai bộ phận nói trên. Khoa học hiện đại tập trung vào
khách quan, bộ phận vật chất và cố gắng gạt bỏ yếu tố chủ quan. Nhiều người gọi
cõi ý thức là hệ lụy, một sản phẩm phụ của phản ứng hóa học nơi bộ não và những
quá trình vận hành của não, một đại lượng nói chung không quan trọng. Nhà tâm
lý hành vi B. F. Skinner đã coi cõi vô thức không là điều gì cả.

Các nhà hiện sinh
cho rằng suy nghĩ như thế là một sai lầm. Tất cả những đối tượng của khoa khoa
học đều đi qua cõi vô thức. Mọi điều chúng ta trải nghiệm đều nhuốm màu chủ
quan. Một cách dễ nhìn ra là không có kinh nghiệm nào không liên hệ đến cả hai
bộ phận. Và họ gọi đây là quá trình cố ý.

Vì thế hiện tượng
học yêu cầu tất cả những đối tượng nghiên cứu – dù là bên ngoài hay bên trong
hệ tâm thức thúng ta, về con người, về sự hiện diện của con người – hãy để
những đối tượng nghiên cứu ấy trình bày bản chất thật sự của chúng. Vì thế ta
cần mở rộng với những kinh nghiệm bằng cách không phủ nhận những đại lượng phạm
trù không thể đo đạc được, như các khung giá trị tinh thần: triết lý sống, học
thuyết tâm lý, và lăng kính tôn giáo. Ngành Hiện tượng học yêu cầu chúng ta nên
dẹp bỏ não trạng thực tế khách quan để đánh giá xem một kinh nghiệm xem sự thật
là cái gì? Vì kinh nghiệm là một trải nghiệm rất riêng của mỗi người.

Hiện tượng học là một
hướng đi xuất phát từ lĩnh vực siêu nhiên. Tâm lý thực nghiệm chọn lựa những
chủ thể một cách thật vô tư để gạt bỏ những cơ hội chủ quan có thể xảy ra (nói
theo thuật ngữ thống kê). Các nhà hiện tượng học có xu hướng nghiên cứu chung
để cách nhìn của họ được gộp lại, tạo thành một sự hiểu biết toàn diện và phong
phú hơn về một hiện tượng. Quá trình này gọi là gian thoa chủ quan.

Đây là một phương
pháp thích hợp nhất được áp dụng trong nghiên cứu những cảm xúc khác nhau,
những bệnh lý tâm lý, các trạng thái lo lắng chia rẽ, cô đơn, cô độc, kinh
nghiệm của các nghệ sĩ lớn, những kinh nghiệm tôn giáo, sự im lặng và ngôn ngữ,
cách nhìn và hành vi. Ngoài ra họ còn nghiên cứu về sự hiện diện của con người,
đáng kể nhất là Martin Heidegger và Jean–Paul Sartre. Những não thức phức tạp
của đời sống phong phú chính là đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa hiện sinh.

5. Sự hiện diện

Kierkegaard đã có
lần so sánh chúng ta với Thượng Đế, dĩ nhiên là chúng ta không thể bằng Thượng
Đế được. Thượng Đế được coi là biết hết mọi sự, toàn năng, và vĩnh hằng. Còn
chúng ta là những chủ thể rất gàn bướng trong nếp nghĩ một chiều, yếu đuối một
cách đáng thương và tất cả chúng ta đều chết. Giới hạn của chúng ta quá rõ ràng
hiển nhiên.

Chúng ta thường
muốn mình được trở nên gần giống với Thượng Đế hơn, hoặc ít nhất cũng là những
thiên thần. Dù sao thiên thần cũng không quá ích kỷ trong nếp nghĩ và không quá
yếu đuối như con người. Và đặc biệt là thiên thần sẽ không bao giờ chết. Như
Mark Twain đã vạch ra: Nếu chúng ta là những thiên thần - chúng ta sẽ không
nhận ra mình – Thiên thần chẳng làm gì cả ngoài sự chỉ dẫn của Thượng Đế. Họ
chẳng làm được gì để thay đổi tình trạng này. Họ đơn giản chỉ tồn tại theo kế
hoạch của Thượng Đế và tồn tại muôn đời như một chủ thể lệ thuộc, hoàn toàn vô nghĩa
hiểu theo một nghĩa nào đó. Thiên thần đối với Thượng Đế cũng như cái áo đối
với chúng ta. Cả hai đều có danh xưng, có mục đích, có tính năng, một chủ thể
được tạo ra để phục vụ. Thiên thần cũng thế họ được tạo ra có danh xưng, mục
đích, tính năng và nhất là để phục vụ Thượng Đế.

Con cò bay trên
cánh đồng cũng thế. Chúng có những kế hoạch hoặc chương trình được cài đặt
trong hệ thống di truyền của mình. Chúng vận hành và sinh hoạt dựa trên những
điều khiển của bản năng đã thúc giục và hướng dẫn chúng.

Làm một cái áo, một
con cò, một thiên thần thật dễ dàng quá. Mục đích của những chủ thể này có
trước sự hiện diện: nghĩa là mục đích hiện diện của chúng đã có trước những
hành vi của chúng.

Tuy nhiên, các nhà
hiện sinh cho rằng con người hoàn toàn khác hẳn. Chúng ta hiện diện trước khi
có sự xuất hiện mục đích của chúng ta, như Sartre đã nói. Chúng ta thường không
biết mục đích cuộc đời của mình cho đến khi chúng ta phải sống. Cuộc đời chúng
ta, ta là ai? – không phải do Thượng Đế quyết định, không bởi định luật của tự
nhiên, chẳng phải bởi di truyền, không bởi xã hội mà họ đang sống, và càng
không phải từ gia đình chúng ta. Những phạm trù nói trên chỉ cung cấp những
nguyên liệu thô để ta kiến tạo nên cuộc đời chúng ta. Ta là ai? Đấy là những
chọn lựa chúng ta sử dụng để tiếp cận cuộc đời. Nói khác đi, chúng ta là người
kiến tạo cuộc đời của chính mình.

Các nhà khoa học
nhắm đến cấu trúc và vận hành có thể đo đạc được. Thuyết Hiện sinh trong khi đó
lại nhắm đến kinh nghiệm mà mỗi cá nhân đã từng sống qua.

Bản chất mục đích
của nhân loại – một đại lượng chung mà tất cả chúng ta thừa hưởng đã khiến
chúng ta khác hơn những sinh vật khác trong thế giới này. Chính vì thiếu bản
chất mục đích này đã dẫn đến tình trạng trống rỗng. Tự do của mỗi chúng ta
không thể bị gói gọn trong một khung triết lý hay học thuyết tâm lý, chúng ta
không thể phân chia trở thành những quá trình vận hành vật lý hay những phản
ứng hóa học. Tương lai của chúng ta không thể tuyệt đối dựa vào những phỏng
đoán thống kê. Ta có thể là da màu hay da trắng, chúng ta lớn lên trong những
điều kiện văn hóa khác nhau, có người may mắn trong những điều kiện hoàn cảnh
khác nhau về những cơ duyên và vận hội. Những nguyên liệu thô này rất khác nhau
đối với nhiều người trong chúng ta. Tuy vậy, tất cả chúng ta vẫn có chung một
nhiệm vụ phải làm là: Kiến tạo chính bản thân mình.

6. Liên tục hiện
diện

Đây là một khái
niệm được mượn từ tiếng Đức – Dasein có nghĩa là liên tục hiện diện, cố gắng
đeo đuổi, sinh tồn. Khái niệm này được dịch ra tiếng Anh và có một ý nghĩa mới:
Hãy ở đó. Đây là khái niệm của triết lý gia người Đức Martin Heidegger. Các nhà
Hiện sinh học coi đây là trung tâm điểm của hệ thống học thuyết.Âm da trong từ da–sein có nghĩa là đó.
Điều này cho thấy các nhà Hiện sinh có cơ sở để xác định khái niệm một chủ thể
nằm ở giữa một hệ thống phức tạp và hỗn độn. Hơn nữa ở đó không nên chỉ được
hiểu là không phải ở đây, mà là một khái niệm chứng minh rằng chúng ta luôn
thuộc về một thế giới khác, một thế giới mà chúng ta thật sự không thuộc về nó.

Không có một thuật ngữ
dịch nghĩa cụ thể nhất về từ dasein, nhiều người sử dụng từ hiện sinh, mục đích
hiện diện đã cố gắng chuyển ngữ khái niệm này. Từ hiện sinh trong tiếng Anh là
existence có nguồn gốc từ tiếng La tinh ex–sistare, có nghĩa là bước ra, đi ra,
đứng ra khỏi một giới hạn. Và khi đối chiếu với từ da–sein trong tiếng Đức, ta
thấy ngay ý nghĩa liên hệ. Vì thế dasein có nghĩa trở thành một điều gì đó khác
hơn, di chuyển xa hơn và xuyên qua chính con người của mình, trở thành một chủ
thể mới trong một thế giới hoàn toàn khác.

Heidegger cho rằng
da–sein là quá trình mở rộng mình ra, giống như một cánh đồng cỏ, một khoảng
trống bao bọc bởi những cánh rừng rậm, vì da–sein cho phép thế giới được phô
bày bản chất thực của nó. Sartre cũng nhìn nhận khái niệm khoảng trống mở ra
này, và gọi đây là trạng thái không–có–gì–cả của sự hiện diện con người, giống
như một lỗ thủng chỉ tồn tại khi xung quanh nó là một thế giới đặc kín. Hiện
diện vì thế đã trở thành một trạng thái đứng riêng rẽ độc lập, đối nghịch với sự
dày đặc của những đại lượng phạm trù khác.

Đặc tính quan trọng
nhất của dasein, theo Heidegger là quan tâm. Hãy ở đó không phải là để hờ hững
né tránh. Chúng ta liên hệ với thế giới, với những chủ thể khác, và với cả
chúng ta nữa. Chúng ta gắn bó trong việc có trách nhiệm và những đầu tư vào
cuộc sống. Chúng ta có thể và bắt buộc phải làm nhiều điều. Bỏ mặc và vứt hết
quan tâm không phải là một tính năng đặc trưng của con người.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3