Các Học Thuyết Tâm Lý Nhân Cách - Chương 09 - Phần 1
Chương 9. ERICH FROMM THUYẾT NHÂN CÁCH
XÃ HỘI
CÁC HỌC THUYẾT TÂM LÝ NHÂN CÁCH
1. Tiểu sử
Erich Fromm sinh năm
1900 tại Frankfurt, nước Đức. Cha của ông là một thương gia và theo Erich thì
ông bố có những thay đổi tâm trạng rất phức tạp. Mẹ ông thường xuyên trầm uất.
Nói khác đi họ là những con người ta vẫn thường gặp thấy trong cuộc sống hàng
ngày. Thời thơ ấu của ông tất nhiên là chẳng được hạnh phúc lắm.
Giống như Jung, Erich
Fromm xuất thân từ một gia đình rất sùng đạo, trường hợp của ông là một nền Do
Thái chính thống. Fromm sau này thính thức tự nhận mình là người vô thần rất
khó giải thích (atheistic mystic).
Trong cuốn hồi ký của
mình, Đàng Sau Sợi Xích Của Ảo Ảnh (Beyond the Chains of Illusion), ông nói về
hai sự kiện trong cuộc sống tuổi dậy thì của mình đã ám ảnh ông trong suốt hành
trình đời người. Biến cố đầu tiên liên hệ đến một người bạn của gia đình:
Đấy là một người phụ
nữ chừng hai mươi lăm tuổi, rất đẹp và là một họa sĩ có gương mặt khả ái ưa
nhìn, cô đã vẽ bức họa đầu tiên ông được nhìn thấy. Nghe đâu chị ta đã đính hôn
nhưng sau đó lại thôi. Ông nhớ là chị ta luôn tận tình chăm sóc người cha góa
vợ của mình, một ông cụ nhàm tẻ và nom rất xấu xí. Fromm tin rằng ông đã ghen
với ông cụ về điều đó. Rồi một ngày nọ Fromm nghe tin ông cụ chết. Ngay sau đó
cô con gái liền tự tử và để lại một nguyện vọng muốn được chôn cùng với người
cha ruột của mình.
Câu chuyện ấy đã tác
động lên cậu bé mười hai tuổi Erich Fromm khá nặng. Cậu bé đã tự hỏi mình nhiều
lần: Tại sao phụ nữ ấy muốn như thế. Sau đó ông bắt đầu tìm ra một số câu trả
lời cho mình - một phần đến từ những giải thích của Freud.
Sự kiện thứ hai càng
có ảnh hưởng nặng hơn:
Chiến tranh thế
giới I xảy ra. Lúc ấy ông được mười bốn tuổi, chứng kiến được những thái độ cực
đoan gay gắt nhất của chủ nghĩa phát xít quốc gia. Ông luôn nghe những khẩu
hiệu: Chúng ta, những người Công giáo Đức quốc là vĩ đại. Anh quốc và đồng minh
của bọn chúng là những kẻ tham lam tiền bạc. Chính sự thù hận của những ngọn
lửa điên loạn chiến tranh đã làm cho ông sợ hãi.
Từ đó ông cũng thôi
thúc đi tìm những vô lý trong não thức của con người. Sau cùng ông hiểu ra về
điều không hợp lý – sự bất hợp lý của cộng đồng xã hội. Ông đã tìm ra câu trả
lời từ những giải thích trong các tác phẩm của Karl Marx.
Ông nhận được học
vị tiến sĩ tại trường Đại học Heidelberg vào năm 1922 và bắt đầu sự nghiệp của
mình như một nhà tâm lý trị liệu. Ông đến Hoa Kỳ vào năm 1934 – vào thời đó rất
nhiều người Do Thái rời bỏ nước Đức. Ông sinh sống tại thành phố New York và
gặp gỡ nhiều nhà tư duy lớn di tản đến đây, trong đó có cả Karen Horney, người
mà ông đã có những quan hệ tình cảm. Cuối đời mình, ông chuyển đến thành phố
Mêxico để dạy học. Ông đã làm nhiều cuộc nghiên cứu đáng chú ý và có giá trị về
sự liên hệ giữa thanh phần kinh tế và ảnh hưởng của nó lên những tuýp nhân cách
khác nhau. Ông từ trần năm 1980 ở Switzerland.
2. Học thuyết của
Erich Fromm
Như trong phần tiểu
sử đã gợi ý, học thuyết của Fromm là một sự kết hợp giữa Sigmund Freud và Karl
Marx. Dĩ nhiên là Freud đã ảnh hưởng đến ông về cõi vô thức, những xung lực
sinh học, và vấn đề dồn nén. Nói khác đi, Freud đã xây dựng trong ông về niềm
tin cho rằng những hành vi cá tính của chúng ta được điều khiển từ nguồn gốc
sinh học. Ở hướng khác, Karl Marx đã giúp ông nhìn thấy con người được điều
khiển bởi ảnh hưởng của xã hội, mà cụ thể nhất là thông qua những hệ thống kinh
tế xã hội.
Ông đã đưa những sự
kết hợp này vào các hệ thống được định sẵn vốn rất mới mẻ đối với hai bậc thầy
của mình. Khái niệm tự do, ông cho phép con người vượt qua những hệ thống được
định sẵn như giới thiệu về Freud và Marx. Ông tin rằng tự do là giá trị đặc
tính trung tâm của bản tính con người.
Fromm đã nêu ra
những ví dụ trong đó trạng thái định sẵn vận hành một cách độc lập. Chẳng hạn
như ở động vật, chúng hoàn toàn vận hành trên hệ cơ năng sinh học như Freud đã
trình bày. Fromm cho rằng thú vật không lo lắng về tự do của chúng. Bản năng đã
giúp chúng vận hành trên mọi bình diện. Ví dụ mèo chẳng cần ai dạy chúng bắt
chuột, nhưng bản năng và những điều kiện cơ thể đã cho phép chúng hoạt động và
tồn tại.
Theo Marx, những ví
dụ của mô thức định sẵn là mô hình kinh tế xã hội thời Trung Cổ. Giống như loài
mèo, những công dân thời ấy thường chẳng ai cần tự quyết định cho mình. Họ có
những số phận đã được định sẵn là một dây chuyền bao gồm nhiều cấp bậc địa vị
xã hội, chỉ bảo cho họ biết họ sẽ phải làm gì. Hiểu đơn giản, nếu một cá nhân
là con nhà nông thì anh ta sẽ tự động là nhà nông theo mô thức con vua thì lại
làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa. Phụ nữ chỉ có một vai trò duy nhất là
sinh con và phục tùng chồng mình.
Hôm nay, chúng ta
có thể nhìn thấy những mô thức đời sống thời kỳ Trung Cổ hay và cuộc sống của
thú vật nơi những cộng đồng thiểu số co cụm như các nhóm cộng đồng nguyên sinh.
Ở đó ta dễ thấy những dấu vết của những mô thức sinh học định sẵn và kinh tế
định sẵn. Nếu đời sống con người có cấu trúc tư duy, có ý nghĩa, không có những
điều băn khoăn lo lắng, không có vấn đề khát khao đi tìm mục đích đời sống của
mình, chúng ta sẽ sống và không bao giờ vấp phải những khủng hoảng nhân định.
Vào thời đại Phục
Hưng, con người bắt đầu nhìn thấy giá trị nhân
văn của mình là trung tâm ở vũ trụ, thay vì trung tâm vũ trụ do vai trò của
Thượng Đế. Nói khác đi con người không còn chỉ duy nhất nhìn vào Giáo hội với
những hệ thống giá trị tinh thần trước đó. Rồi đến quá trình vận động cải cách,
con người bắt đầu nhận ra vai trò trách nhiệm của cá nhân trong việc đem lại sự
cứu rỗi cho linh hồn của chính mình. Tiếp đến là Cách mạng dân chủ được thấy ở
Hoa Kỳ và Cách mạng Pháp. Hiện nay, ở một góc độ nào đó chúng ta được kêu gọi
trong nhiệm vụ hãy tự kiểm soát mình, rồi sự xuất hiện của Cách mạng công
nghiệp, con người chuyển từ nông nghiệp sang đời sống công nghiệp. Sau đó Cách
mạng xã hội chủ nghĩa ra đời như thấy ở Nga và Trung Quốc với những khái niệm
kinh tế hợp tác xã, con người không chỉ quan tâm đến bản thân mà cả những đồng
nghiệp của mình nữa.
Trải qua hơn 500
năm, ý tưởng cá nhân, cùng với những tư tưởng và cảm giác về lương tâm đạo đức,
giá trị của khái niệm tự do và trách nhiệm đã lần lượt đi vào hệ tâm thức của
con người. Phải chăng chính khái niệm cá nhân đã đưa con người đến những phạm
trù, địa hạt của sự cô độc, sự xa lánh co cụm, và cả những nổi loạn muốn khẳng
định mình. Fromm cho rằng tự do là một điều thật khó định nghĩa chính xác hoàn
toàn. Và có lúc con người đã trở nên phức tạp đủ để khước từ hay chạy trốn khỏi
tự do.
Fromm đã diễn tả ba
cách mỗi chúng ta đã tìm cách trốn thoát tự do:
1. Độc đoán: chúng ta né tránh tự do bằng cách hòa mình vào xã hội bằng
cách tự nguyện trở thành một thành viên của một xã hội độc tài như thấy ở Trung
Cổ. Có hai ngả dẫn đến trạng thái này: Một cá nhân qui thuận dưới quyền lực của
người khác trở thành thụ động và phục tùng. Ngả thứ hai là trở thành người muốn
cai trị người khác với những áp đặt. Dù đi qua ngả nào cũng thế, chúng ta vô
tình đã né tránh việc khẳng định bản sắc cá nhân riêng rẽ cho mình một hình
thái liên đới với một nhóm người (hay một tổ chức) trong xã hội.
Fromm đã cho rằng
một mô thức thái quá của độc đoán là hiện tượng khổ dâm và bạo dâm khi cả hai
cố gắng tìm đến trạng thái tách rời vai trò của mình. Chẳng hạn người bạo dâm
có đầy quyền lực trên người chấp nhận khổ dâm nhưng anh ta đã không cưỡng được
lại chính mình. Những hình thái tương tự có thể nhìn thấy qua ví dụ về mối quan
hệ giữa các sinh viên và giáo sư. Mặc dù cả hai phía đều có những não trạng và
cái nhìn rất khác nhau, sinh viên muốn học theo cách mới mẻ hơn nhưng vị giáo
sư vẫn chăm chú vào giáo án cũ bao nhiêu năm của mình. Và ông giáo sư ấy thật
ra vẫn lấn cấn về những phản đối trong lĩnh vực kiến thức chuyên môn, nhưng cả
hai phía vẫn cứ phải ràng buộc gắn bó lấy nhau.
2. Sự hủy hoại tàn
phá: theo Fromm, những kẻ thích quyền hành
thường là người có vấn đề khi đối diện với hiện thực, và tất nhiên bước kế tiếp
là tự đào thải. Nếu tôi không còn hiện diện nữa, chẳng còn điều gì có thể khiến
tôi đau khổ được nữa? Hoặc có người sẽ phản ứng với nỗi đau bằng cách tấn công
chống lại cả thế giới. Nếu ta tàn phá thế giới, sẽ chẳng còn ai có thể làm hại
được ta. Đây là một cách chạy trốn khỏi tự do khi con người giam hãm mình trong
những thành kiến và đối xử phân biệt. Khi đối điện với những điều họ không
thích họ sẽ chuyển tải xúc cảm và năng lượng nơi bản thân qua những kênh hành
vi nguy hiểm như tội ác đối xử tàn nhẫn, phá hoại của cải, lăng nhục người
khác, khủng bố.
Fromm tin rằng một người
có thái độ hằn học muốn tàn phá thế giới, nếu bị ngăn chặn bởi những hoàn cảnh
hiện tại, những xung lực ấy sẽ quay ngược trở lại tấn công họ dẫn đến những
hành vi tự hủy hoại mình. Ví dụ điển hình nhất là hành vi tự tử. Ngoài ra còn
có những hình thức tự phá hủy khác như lo lắng đến độ gây nên bệnh tật, nghiện
ngập, rượu chè và cả việc thích thú với những sản phẩm văn hóa đồi trụy, thu
hẹp và co cụm. Ông đã lật ngược khái niệm bản năng được chết của Freud để tạo
ra một khái niệm tự hủy hoại. Hẳn ta còn nhớ Freud cho rằng bản năng chết là
trạng thái con người muốn tìm đến trạng thái không còn hiện diện để né tránh
cuộc sống.
3. Tuân theo một
cách máy móc: những người có
não trạng độc đoán né tránh tự do bằng cách trốn tránh vào hệ thống văn hóa đại
trà. Khi cần lẩn trốn cuộc sống, chúng ta tìm đến với những sản phẩm văn hóa do
con người tạo nên. Chẳng hạn chuyện nhiều người phải chọn mãi mới lựa được một
bộ quần áo đi làm vào buổi sáng. Có lúc ta chẳng biết chọn kênh ti vi nào để
xem? Mua CD nhạc của ai đây? Và tại sao chúng ta phải mặc một mốt quần áo Hàn
Quốc, xem cùng một kênh ti vi để có những đề tài để nói chuyện. Vì sao chúng ta
lại nghe cùng một loại nhạc MTV. Và sau cùng là chìm hẳn vào dòng chảy của văn
hóa tiêu thụ.
Những cá nhân sử
dụng kênh tuân theo một cách máy mốc để tránh né tự do cũng giống như một con
kỳ nhông trong xã hội. Họ luôn thay đổi màu sắc để hòa trộn vào môi trường xung
quanh. Vì họ trông giống mọi người nên họ không còn cảm thấy mình cô đơn nữa.
Anh ta tuy có vẻ không còn cô đơn nhưng thật ra cũng không còn là chính mình
nữa. Những người tránh né tự do bằng cách hòa trộn mình vào dòng chảy văn hóa
đại chúng chứng kiến một sự tách đôi giữa cảm xúc thực của mình và vỏ bọc bên
ngoài của mình, giống như Horney đã đề cập đến.
Trên thực tế, bản
chất tự nhiên của con người là tự do, vì thế tất cả những hình thức chạy trốn
tự do nói trên đã khiến chúng ta trở thành xa lánh chính mình. Sau đây là những
biện chứng của Fromm:
Con người sinh ra
vốn là một hiện tượng rất khó hiểu, sinh ra trong tự nhiên nhưng lại vượt qua
cả những giới hạn của tự nhiên. Họ luôn đi tìm những nguyên lý vận hành và cố
gắng kiến tạo những mô thức để thay thế nguyên lý hoạt động của bản năng sinh
học. Họ cần có một khung tư duy định hướng để có thể tổ chức một tình trạng
nhất quán trong thế giới, nhằm hướng dẫn những hành động của mình. Họ không chỉ
chiến đấu chống lại các sự nguy hiểm đến từ chết chóc, đói khát, bị đau đớn,
bệnh tật… mà họ còn chống lại cả những điều đến từ chính hệ thống tư duy của
mình. Họ sợ mình bị điên, họ không chỉ lo lắng mất đi tính mạng mà sợ mất đi cả
tư duy của mình nữa.
Chúng ta có những
khái niệm khác nhau về sự tự do, nhưng Fromm muốn nhắc đến sự tự do của cá
nhân, chứ không phải là tự do hiểu theo nghĩa đen (vốn là độc lập). Một phần rất
đông trong chúng ta chỉ nghĩ đến sự tự do theo nghĩa đen vì ở ý nghĩa này họ
tin rằng họ có thể làm tất cả những gì họ muốn. Song khái niệm tự do của Fromm
là một quyết định Ta có chấp nhận mình hay không. Ví dụ như ở người có bệnh cờ
bạc, anh ta tuy rất vui vì thấy chính phủ cho phép tự do đánh bạc nhưng bên
trong anh ta hoàn toàn không tự do vì anh ta đã bị nô lệ cho đam mê các môn cờ
bạc. Nhiều người phấn đấu và đòi hỏi quyền tự do làm được điều gì đó nhưng khi
được ban quyền tự do đó, họ lại rơi vào trạng thái thuần phục cho hệ thống luật
lệ mới. Điều đó dẫn chứng rằng anh ta vẫn thuộc vào một hình thái mới của sự
thiếu tự do. Nhiều người có quyền đi bầu cử nhưng lại không sử dụng quyền công
dân ấy.
3. Đời sống gia
đình
Cách chúng ta sử
dụng để tránh né tự do có những ảnh hưởng rất lớn từ mô hình gia đình mà bạn đã
sinh trưởng và lớn lên. Fromm đã hệ thống hóa hai loại môi trường gia đình có
ảnh hưởng lên cách thức chúng ta né tránh tự do cá nhân của mình:
1. Gia đình hòa
thuận gắn bó: là những mô thức
trong đó hai thành viên trong gia đình sống không thể thiếu nhau. Nói khác đi
các thành viên này đã hoàn toàn lệ thuộc vào nhau và vì thế họ không thể tự có
khả năng phát triển nhân cách một cách độc lập được. Ví dụ như cha mẹ quá quan
tâm hoặc quá hà khắc đến độ con cái chỉ là một phiên bản của họ. Trong nhiều xã
hội điều này đã trở thành một hiện tượng văn hóa. Con cái lớn lên sẽ tiếp tục
truyền thống của gia đình giống như cha mẹ của mình. Hoặc khi con cái có những
ảnh hưởng lớn từ cha mẹ nên cha mẹ đâm ra lo lắng và chiều con quá đáng và đây
là điều thường thấy ở các cậu con trai hay được các bà mẹ nuông chiều quá mức.
Ta thấy điều này xảy ra ở xã hội hiện đại.
Trên thực tế, hầu
như mọi người sống trong xã hội truyền thống sẽ học tập, rút kinh nghiệm qua
hai cách: một là cai trị người khác. Hai là phục tùng người khác, và chúng ta
thường rơi vào tình trạng mình ở trên người này nhưng lại ở dưới người khác.
Hay trong tục ngữ Việt Nam có câu: Nhìn lên mình không bằng ai, nhìn xuống
không ai bằng mình. Và như thế những người độc đoán đã ẩn mình vào môi trường
xã hội họ đã sống. Tuy các xã hội văn minh cổ xúy sự công bằng, song ta vẫn
thấy con người có những tư tưởng phân biệt cao thấp trong các quan hệ sinh hoạt
hàng ngày.
2. Những gia đình
co cụm: là những quan hệ gia đình trong đó các
thành viên co cụm và không hề quan tâm đến cảm giác của nhau. Ví dụ điển hình
là nơi các gia đình gia trưởng hoặc những gia đình nhà buôn bận rộn tất bật,
con cái trong các gia đình nhà này phải nghe lời cha mẹ với những giáo huấn:
Phải cố mà làm, đấy là tương lai của chúng mày cả. Hoặc là ở những nền văn hóa
sử dụng mặc cảm và đè nén tình cảm như những hình thức kỷ luật. Bằng cách nào
đi chăng nữa, trẻ em trong những mô hình xã hội này sẽ phấn đấu để thành công,
dựa trên những tiêu chuẩn được xã hội đó đặt ra.
Lối vận hành của
các gia đình theo tiêu chuẩn đạo đức một cách cứng nhắc đã khuyến khích né
tránh tự do một cách nguy hiểm. Não thức né tránh tự do đã được nung nấu và ghi
khắc vào tâm thức cho đến khi điều kiện chín muồi sẽ bùng lên. Đây là những gia
đình sử dụng luật lệ khắt khe và luôn kỳ vọng sự cầu toàn, hoàn hảo nơi con
cái. Khi luật lệ quan trọng hơn con người, nó sẽ hủy hoại con người và đây là
điều không thể tránh khỏi.
Đời sống hiện đại,
loại hình gia đình co cụm thường nhìn thấy ở những gia đình trong những xã hội
phát triển đời sống văn minh, nhất là như thường thấy ở Hoa Kỳ khi cách nuôi
dưỡng con cái đang dẫn nhiều người đến việc nhún vai chứ không có những biện
pháp cứng rắn và người ta càng ngày càng cổ xúy việc nuôi con như những người
bạn đồng lứa với mình. Ông bố cần phải là người bạn đồng chí của con trai, và
người mẹ cần phải là người bạn tâm tình của con gái. Và khi các phạm trù sinh
hoạt liên quan đến mảng cảm xúc thì cha mẹ có phần né tránh và hững hờ với con
cái. Nhiều người tin rằng quan hệ cha mẹ và con cái trong những gia đình ở các
xã hội phát triển đang trở thành quan hệ của những người sống chung trong một
gia đình. Trẻ em bây giờ không còn có những hướng dẫn thực sự của người lớn,
cuối cùng các em phải tìm đến với bạn bè và phương tiện truyền thông đại chúng
khi các em xây dựng hệ giá trị tinh thần. Đây là những gia đình hiện đại, hời
hợt – điển hình là những gia đình ta vẫn thấy trong ti vi với những kịch bản
cha mẹ và con cái đối thoại ngang hàng.
Và cách các em chạy
trốn tự do, điều đó thật hiển nhiên: các em tìm đến với tùng phục một cách tự
động. Mô hình của các gia đình này là mối lo ngại của Formm vì ông tin đây là
xu hướng dẫn đến thảm họa trong tương lai.
Vậy điều gì sẽ tạo
ra một gia đình tốt lành, khỏe mạnh, hạnh phúc và có hiệu quả? Fromm đề nghị
rằng đấy phải là một gia đình cha mẹ phải có trách nhiệm dạy dỗ con cái. Phụ
huynh cần biết lý luận và cân nhắc trong một môi trường có tình thương. Trẻ em
lớn lên trong những gia đình này sẽ có điều kiện và cơ hội phát triển và hiểu
được giá trị tự do cá nhân. Từ đó các em sẽ sống có trách nhiệm với chính mình,
sau cùng là với xã hội bên ngoài.