Liêu Trai chí dị (Tập 2) - Quyển XI - Chương 197 - 198
197. Người khách họ Đồng[1]
[1] Đồng khách.
Đổng sinh
là người Từ Châu (tỉnh Giang Tô), thích kiếm thuật, hay khoe khoang tự phụ.
Tình cờ đi đường gặp một người khách, sinh trò chuyện, toàn thở ra giọng anh
hùng. Hỏi tên họ, khách nói là họ Đồng người huyện Liêu Dương (tỉnh Liêu Ninh),
lại hỏi đi đâu, đáp: “Ta xa nhà đã hai mươi năm, nay vừa từ hải ngoại về!” Đổng
nói: “Ông ngao du bốn biển, quen biết nhiều người, có thấy ai là bậc dị nhân
không?” Đồng hỏi loại dị nhân nào, Đổng bèn nói rõ sở thích của mình, lấy làm
hận không được bậc dị nhân nào truyền thụ cho. Đồng nói: “Ở đâu mà không có dị
nhân, nhưng phải là tôi trung con hiếu thì mới được truyền thụ cho thuật ấy.”
Đổng hăng hái tự nói mình sẽ làm được như thế, rồi rút ngay kiếm ra, vỗ vào mà
hát, lại chém đứt một cây nhỏ bên đường để khoe kiếm sắc. Đồng vuốt râu mỉm
cười, nhân mượn xem, Đổng bèn đưa cho. Đồng xem qua một lượt, nói: “Đây là loại
thép làm áo giáp đúc ra, còn ám mồ hôi, chỉ là hạng chót. Ta tuy chưa học kiếm
thuật nhưng cũng có một thanh dùng được,” rồi rút trong áo ra một thanh đoản
kiếm dài khoảng một thước, cầm gọt gươm của Đổng như cắt rau dưa, cắt tới đâu
sắt vụn rơi lả tả tới đó. Đổng khiếp quá, cũng xin cầm xem, múa may đâm chém
mấy nhát rồi trả lại, mời Đồng ghé lại nhà, khẩn khoản mời ngủ lại, lạy lục xin
học kiếm pháp.
Đồng tạ
từ nói không biết, Đổng vỗ gối hứa hẹn hùng hồn, Đồng chỉ kính cẩn ngồi nghe.
Đến khuya chợt ở nhà bên có tiếng quát tháo đánh trói ầm ĩ. Nhà bên là nơi cha
Đổng ở, Đổng giật mình tới bên vách nghe ngóng, chỉ nghe có giọng giận dữ nói:
“Gọi con ngươi ra mau, ta sẽ tha cho.” Giây lát lại có tiếng đánh đập, tiếng
rên rỉ không dứt, đúng là tiếng của cha. Đổng cầm ngọn mác muốn xông qua, Đồng
cản lại nói: “Qua đó sợ không sống được đâu, xin ông nghĩ cách vạn toàn!” Đổng
hoảng sợ xin chỉ giáo, Đồng nói: “Bọn cướp gọi đích danh thì đã rắp tâm giết
ông. Ông không có anh em gì khác, hãy trối trăn cho vợ con đã. Ta sẽ mở cửa
giúp ông dọn dẹp đám thối tha này.” Đổng theo lời vào nói với vợ, vợ níu áo
khóc, Đổng bao nhiêu hùng tâm chợt tiêu tan, bèn cùng nhau lên lầu, tìm cung
kiếm tên đề phòng bọn cướp đánh qua. Còn đang luống cuống thì nghe tiếng Đồng
trên nóc lầu cười nói: “May là bọn cướp chạy rồi!” Đốt đuốc soi thì khách đã
biến mất, rón rén qua xem thì cha uống rượu ở nhà hàng xóm vừa cầm đuốc về tới,
mà trước sân chỉ toàn là cọng rơm cháy dở, mới biết Đồng là bậc dị nhân.
Dị Sử thị nói: Trung hiếu là
tính người, mà những kẻ làm ta con không thể xả thân vì vua cha xưa nay, buổi
đầu há không có lúc hăng hái cầm mác toan xông ra đâu, chỉ vì xoay chuyển ý
nghĩ một lần mà thành lầm lạc đó thôi. Xưa Giải Đại Thân đã thề cùng chết với
Phương Hiếu Nhu[2] mà
sau lại nuốt lời, có lẽ sau khi thề thốt về nhà lại nghe tiếng vợ kêu khóc ở
đầu giường cũng chưa biết chừng? Trong huyện có tên lính trạm là Mỗ, thường cứ
đi mấy ngày mới về, vợ tư thông với một gã vô lại trong thôn. Một hôm Mỗ vừa về
tới thì gặp một thiếu niên trong phòng vợ đi ra, vô cùng ngờ vực, căn vặn thì
vợ khăng khăng chối. Kế tìm được đồ vật của thiếu niên để quên ở đầu giường, vợ
cứng họng không sao chối được nữa, chỉ quỳ lạy xin tha tội. Mỗ giận quá, vứt
cho cuộn dây bắt tự thắt cổ, vợ xin trang điểm rồi chết, Mỗ ưng thuận. Vợ bèn
vào phòng trang điểm, Mỗ ngồi ngoài uống rượu chờ, chửi mắng thúc giục. Lát sau
vợ ăn mặc lộng lẫy bước ra, sa lệ lạy nói: “Chàng quả nhẫn tâm bắt em chết sao?”
Mỗ làm ra vẻ giận dữ quát tháo, vợ quay vào đang thắt dây thì Mỗ dằn chén gọi:
“Thôi ra đây, một thằng đội khăn xanh[3] chắc không thể bắt người khác chết được!” Rồi lại
ăn ở với nhau như cũ. Đó cũng là loại người như Đại Thân, nghĩ cũng buồn cười.
[2] Tức Giải Tấn và Phương Hiếu Nhu thời
Minh, đều nổi tiếng văn chương, làm quan dưới triều Huệ đế. Lúc Yên vương (sau
là Minh Thành tổ) dấy quân đánh Huệ đế, hai người cùng Chu Thục Tử, Vương
Lương, Ngô Bạc, Hồ Hoàng hẹn cùng sống chết giúp Huệ đế. Kế Giải sai người tới
nghe ngóng xem Hồ Hoàng động tĩnh ra sao, nghe Hồ hỏi người nhà cho heo ăn
chưa. Giải nghe thế cười nói: “Một con heo còn không chịu bỏ thì làm sao chịu
bỏ tính mạng,” rồi không nghĩ gì tới lời hứa nữa. Sau Yên vương đánh chiếm Nam
Kinh, Phương Hiếu Nhu bị bắt không chịu đầu hàng, bị giết cả mười họ giữa chợ,
chỉ có Vương Lương đóng cửa kêu khóc rồi uống thuốc độc chết theo, còn còn
những người kia đều nuốt lời ra làm quan với Minh Thành tổ.
[3] Đội khăn xanh: thời Xuân thu có hạng
đàn ông cho vợ và con gái làm đĩ, gọi là “xướng phu”, phải đội khăn xanh để
phân biệt với người khác.
198.
Ái Nô
Từ sinh
người huyện Hà Gian (tỉnh Hà Bắc), tới dạy học ở huyện Ân (tỉnh Sơn Đông), đầu
tháng chạp về nhà. Trên đường gặp một ông già nhìn kỹ rồi hỏi: “Từ tiên sinh
nghỉ dạy rồi à, sang năm sẽ mở lớp ở đâu?” Sinh cười đáp: “Vẫn chỗ cũ.” Ông già
nói: “Ta tên Kính Nghiệp họ Thi, có đứa cháu gọi bằng cậu đang tìm thầy giỏi,
vừa nhờ người tới Đông Chàng mời ông Lữ Tử Liêm, nhưng ông ta đã nhận tiền dạy
ở Tắc Môn (tỉnh Sơn Đông). Nếu tiên sinh nhận dạy cho, thì số lương xin trả gấp
đôi ở huyện Ân.” Từ lấy cớ đã hứa với chỗ cũ từ chối, ông già nói: “Thủ tín như
thế thật là quân tử, nhưng từ nay đến năm mới cũng còn khá lâu, xin dâng một
lượng vàng bái kiến, mong tiên sinh tạm lưu lại dạy cho cháu, sang năm sẽ bàn
lại, được không?” Từ bằng lòng. Ông già xuống ngựa dâng phong bao lễ vật rồi
nói: “Nhà ta không xa lắm, có điều hơi chật hẹp, khó chứa súc vật. Xin tiên
sinh cho ngựa với đầy tớ về, đi bộ với ta cũng hay.” Từ nghe theo, đem hành
chất lên ngựa của ông già, đi ba bốn dặm, trời sập tối mới tới nhà, thấy cửa
đóng đinh đồng nổi, tay nắm chạm thú, rõ ràng là nhà thế gia. Ông già gọi cháu
ra vái chào, là một đồng tử khoảng mười ba mười bốn tuổi. Ông già nói: “Em rể
ta là Tưởng Nam Xuyên, lúc sống làm Chỉ huy sứ, chỉ để lại có đứa con này, cũng
không phải ngu độn, chỉ là quen tật lười biếng thôi, nay được tiên sinh đạy đỗ
cho một tháng thì hơn học mười năm.”
Không bao
lâu dọn tiệc mời rất linh đình, nhưng lên xuống phục dịch toàn là tớ gái, có
một tỳ nữ cầm hồ rượu đứng chầu chực, tuổi khoảng mười lăm mười sáu trở lại,
rất mực phong vận, khiến Từ thấy xao xuyến. Tiệc tan, ông già sai thu xếp chỗ
ngủ cho Từ xong mới cáo từ đi ra. Trời chưa sáng đứa nhỏ đã tới phòng học, Từ
vừa dậy đã có tỳ nữ tới hầu khăn lược, chính là nàng cầm hồ rượu tối qua. Ngày
ba bữa cơm đều do nàng mang lên, tối đến lại tới dọn giường. Từ hỏi sao không
có tớ trai, chỉ cười không đáp, trải nệm xong là đi. Hôm sau lại tới, Từ theo
vào trêu cợt, nàng cười không chống cự, rồi ôm ấp nhau, nhân nói: “Nhà này
không có đàn ông, những việc bên ngoài thì nhờ cậu Thi. Thiếp tên Ái Nô, phu
nhân kính mến tiên sinh, sợ đám tớ gái không được sạch sẽ nên cho thiếp lại
hầu. Nay phải giữ kín việc này, nếu để lộ ra thì cả hai sẽ mất mặt đấy.” Một
đêm nằm chung rồi ngủ quên đến sáng, bị công tử bắt gặp.
Từ xấu
hổ, trong dạ bất an, đến tối, Ái Nô tới nói: “May là phu nhân trọng chàng, nếu
không thì hỏng cả rồi. Công tử vào kể, phu nhân vội bịt miệng không cho nói,
như là sợ chàng nghe được, mà cũng chỉ dặn thiếp đừng ở lâu trong phòng học
thôi,” nói xong đi ngay. Từ vô cùng biết ơn phu nhân. Nhưng công tử không chăm
học, Từ quở trách thì phu nhân cứ tìm cách xin cho, lúc đầu còn sai tỳ nữ, dần
dần đích thân ra đứng ngoài cửa nói với thầy, vừa nói vừa khóc, mà cứ tối đến
lại hỏi con về bài vở ban ngày. Từ chịu không nổi, tức giận nói: “Đã dung túng
cho con lười biếng, lại hối thúc ép con siêng năng, làm thầy loại học trò ấy
thì ta không quen, xin phép cáo từ.” Phu nhân sai tỳ nữ tới tạ lỗi, Từ mới
thôi. Từ ngày vào dạy, lần nào muốn ra ngoài ngắm cảnh cũng thấy cửa nẻo khóa
chặt, một hôm uống rượu say thấy bực tức gọi tỳ nữ hỏi nguyên cớ, nàng đáp: “Không
có gì khác đâu, chỉ vì sợ công tử bỏ bê việc học thôi. Nếu tiên sinh nhất định
muốn ra ngoài, xin chờ lúc ban đêm.” Từ nổi giận nói: “Nhận vài đồng vàng rồi
phải chịu cấm cố đến chết à? Bảo ta ban đêm trốn ra, là đi đâu? Lâu nay vẫn xấu
hổ vì chỉ ăn không, tiền lương vẫn còn trong túi đây.” Bèn lấy vàng ra đặt lên
bàn, thu xếp hành trang định đi. Phu nhân bước ra, im lặng không nói câu nào,
chỉ lấy tay áo che mặt nghẹn ngào, sai tỳ nữ đưa lại vàng, mở khóa tiễn ra. Từ
thấy cửa nẻo chật chội, nghiêng mình lách ra đi vài bước chợt có ánh nắng soi
tới, té ra mình vừa dưới mộ chui lên. Nhìn bốn phía thấy hoang vắng tiêu điều,
thì là một ngôi mộ cũ, cả sợ nhưng lại cảm vì có nghĩa, bèn bán vàng đắp mộ cao
lên, trồng cây chung quanh rồi đi.
Năm sau
Từ lại qua ngang chỗ ấy, ghé vào lễ bái rồi lên đường, thấy ông Thi từ xa tới
cười nói thăm hỏi rồi khẩn khoản mời mọc. Từ biết là ma nhưng muốn nhân dịp hỏi
thăm phu nhân nên theo vào thôn, vào quán gọi rượu cùng uống, trời tối lúc nào
không biết. Ông già đứng lên trả tiền rượu rồi nói: “Nhà ta không xa mấy, em
gái ta cũng vừa về thăm nhà, mong tiên sinh dời gót ngọc tới chơi, để quét sạch
rủi ro giùm lão phu.” Ra khỏi làng vài chặng lại có một dãy nhà, ông già gõ cửa
vào, cầm đèn dẫn khách vào. Một lát Tưởng phu nhân ra chào, lúc ấy Từ mới nhìn
kỹ, thì là một người đẹp khoảng bốn mươi tuổi. Phu nhân lạy tạ nói: “Dòng họ sa
sút, nhà cửa tiêu điều, ơn đức của tiên sinh thấm tận xương khô, thật không
biết lấy gì báo đáp.” Nói xong khóc ròng, kế gọi Ái Nô ra, nhìn Từ nói: “Thiếp
vốn yên mến đứa tỳ nữ này, nay xin đưa tặng để tiên sinh đỡ vắng vẻ nơi đất
khách, mà có cần gì nó cũng hơi biết đón ý,” Từ dạ dạ. Lát sau hai anh em đi
ra, để Ái Nô ở lại hầu hạ. Gà vừa gáy ông già đã tới đưa tiễn, phu nhân cũng ra
dặn tỳ nữ phụng sự tiên sinh cho chu đáo, lại nói với Từ: “Từ nay trở đi càng
nên kín đáo, chuyện hai người gặp gỡ nhau quá lạ lùng, e những kẻ hiếu sự lại
đặt điều nọ kia.” Từ dạ rồi cáo từ, cùng Ái Nô cưỡi chung ngựa. Tới nơi dạy chỉ
ở một phòng, ăn ngủ với nhau, lúc có khách nàng không tránh đi mà người ta cũng
không nhìn thấy. Từ vừa hơi muốn gì là nàng đã làm ngay, lại giỏi môn đồng cốt,
bị bệnh gì chỉ xoa bóp một lần là khỏi.
Đến tiết
Thanh Minh hai người cùng về khu mộ, nàng chào bước xuống, Từ dặn cho gởi lời cảm
ơn phu nhân, nàng vâng dạ rồi biến mất. Mấy hôm sau Từ quay lại, đang định tìm
quanh mộ thì đã thấy nàng ăn mặc lộng lẫy ngồi dưới gốc cây, bèn cùng lên
đường, cả năm thường đi lại như thế. Từ muốn cùng nhau về quê, nàng nhất quyết
không chịu. Cuối năm từ biệt nơi dạy về đó, hẹn ngày gặp lại, nàng đưa tới chỗ
ngồi hôm trước, chỉ đống đá nói: “Đây là mộ của thiếp. Lúc phu nhân chưa xuất
giá, thiếp đã theo hầu hạ, chết yểu chôn ở đây. Nếu chàng qua ngang, cứ thắp
cho một nén hương, sẽ gặp lại nhau.” Sau khi chia tay về quê, Từ vô cùng nhớ
nhung, tới đó khấn khứa nhưng tuyệt không thấy tăm hơi, bèn mua hòm quật mộ
định mang hài cốt nàng về quê để ghi nhớ một thời yêu dấu. Huyệt vừa mở ra, Từ
tự bước xuống, thấy nàng nhan sắc vẫn như còn sống nhưng tuy thịt da chưa nát
mà y phục đã mủn ra như tro, trâm ngọc xuyến vàng đều còn mới, lại nhìn tới
thắt lưng thấy có cái gói bọc mấy nén vàng bèn cuốn lại giắt vào lưng. Rồi cởi
áo ngoài đắp lên xác nàng, ôm đặt vào quan tài, thuê xe chở về mang vào một
gian nhà riêng, mặc xiêm áo thêu cho, một mình ăn ngủ bên cạnh để chờ linh ứng.
Bỗng Ái
Nô từ ngoài vào cười nói: “Tên giặc cướp mộ ở đây à?” Từ ngạc nhiên mừng rỡ hỏi
thăm, nàng nói: “Hôm trước thiếp theo phu nhân qua phủ Đông Xương (tỉnh Sơn
Đông) ba ngày, trở về thì nhà cửa đã trống không. Nhiều lần bảo cùng về vẫn
không nghe là vì thiếp chịu ơn phu nhân từ nhỏ nên không nỡ xa lìa mà thôi. Nay
đã cướp xác về đây xin chôn cất sớm cho thiếp được đội ơn sâu.” Từ hỏi: “Xưa có
người chết đã trăm năm vẫn sống lại được, nay xác nàng còn nguyên, sao không
làm theo như thế?” Nàng than rằng: “Chuyện đó là có định số, chứ những sự linh
dị mà thế gian đồn đại quá nửa là huyễn hoặc. Nếu thiếp muốn đứng lên đi lại
cũng chẳng có gì khó, chỉ hiềm không thể giống như người sống nên không làm
thôi.” Rồi mở quan tài bước vào, cái xác liền đứng dậy, rỡ ràng khả ái, nhưng
sờ vào người thì thấy lạnh như băng.
Nàng toan
nằm lại vào quan tài, Từ cố ngăn cản thì nói: “Thiếp được phu nhân yêu mến rất
mực, chủ nhân đi làm ăn xa về có mấy vạn lượng vàng, thiếp lấy trộm một ít cũng
không tra hỏi ráo riết. Sau lúc ốm nặng sắp chết, lại không có ai là thân thích
bèn giấu kỹ trong người để cùng chôn một chỗ. Phu nhân thương thiếp chết yểu,
lại liệm thêm nhiều châu báu nên sở dĩ xác thân chưa nát chẳng qua là nhờ chút
hơi thừa của vàng bạc châu báu thôi, nếu hiện thân sống ở đời thì làm sao lâu
dài được? Như chàng nhất quyết muốn thế thì xin đừng ép thiếp ăn uống, nếu làm
linh khí tan mất thì du hồn cũng phải tiêu tan,” Từ bèn dựng một gian tịnh xá
để ở với nhau. Nàng cười nói như người thường nhưng không ăn không ngủ, không
gặp người lạ. Hơn năm sau Từ uống rượu hơi say, cầm chén ép đổ cho nàng, nàng
lập tức ngã lăn xuống đất, máu trong miệng chảy ra đầm đìa, hết ngày thì thân
xác tan rã. Từ hối hận thì việc đã rồi, bèn chôn cất thật hậu.
Dị Sử thị nói: Phu nhân dạy
con chẳng khác gì người trần, nhưng đối xử với thầy sao mà hậu như vậy? Há
chẳng cũng hiền sao? Ta vẫn nói nhà giàu sang không bằng ma phong nhã, nhưng
lại gởi gắm lầm cho gã tục tử thô mãng, để đến nỗi vật linh không sống được lâu
dài, tiếc thay!
Chu sinh ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) vốn
ngang tàng, dạy học ở nhà Cống sĩ Mỗ. Cứ mỗi lần trách phạt học trò thì người
mẹ lại sai tớ gái tới xin tha, nhưng sinh không nghe. Một hôm tự tới ngoài cửa
nói với thầy, Chu nổi giận vớ lấy thước mắng lớn xông ra, người đàn bà hoảng sợ
bỏ chạy, Chu đuổi theo đánh với trúng vào mông nghe bồm bộp, nghĩ mà buồn cười.
Mỗ ở huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông) mỗi năm rước
thầy thì giao hẹn đến cuối năm mới tính toán công xá một lần, cả năm thì tính
từng ngày, ngày nào thầy đi vắng đều ghi rõ để cuối năm trừ lại. Mã sinh dạy ở
đó, lúc đầu thấy y mang bàn tính tới, biết nguyên do rất sợ, sau nghĩ ra một kế
bèn đổi giận làm lành, cứ nghe y tính toán, không cãi vã thêm bớt gì cả. Y vì
thế vui lắm, cứ nhất định mời sang năm lại tới dạy, Mã lấy cớ phải về quê để từ
chối. Nhưng có Mỗ sinh hiệu là Quai Mậu, Mã giới thiệu dạy thay mình. Mỗ tới
dạy thì động một tí lại chửi mắng, y không biết làm sao đành cố nhịn. Cuối năm
mang bàn tính tới, sinh bừng bừng nổi gỉận nhưng cũng cố nhịn ngồi nghe tính
toán. Y tính cả những ngày đi đường cho thầy, sinh không nghe, bắt nhà chủ phải
chịu. Hai bên cãi nhau không ai chịu ai, vác gậy đánh nhau, cả hai đều sứt đầu
mẻ trán, dắt nhau lên quan thưa kiện.