Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển VII - Chương 122 - 123
122. Vị Tiên Họ Củng
(Củng Tiên)
Đạo nhân họ Củng, không có tên tự, cũng không rõ quê quán ở đâu. Có lần
tới xin ra mắt Lỗ vương nhưng người canh cổng không chịu vào báo, gặp lúc một
quý nhân trong vương phủ đi ra, đạo nhân vái chào ngỏ ý. Quý nhân thấy quê mùa
bèn đuổi đi, kế lại trở lại, quý nhân nổi giận sai người đuổi đánh. Tới chỗ
vắng người, đạo nhân cười đưa ra trăm lượng vàng nhờ kẻ đuổi theo nói lại với
quý nhân rằng: “Ta cũng không cần gặp vương, chỉ nghe nói cây cỏ lâu đài trong
vườn hoa sau vương phủ là danh thắng trên đời, nếu dẫn ta vào xem một phen là
mãn nguyện rồi”. Kế lại lấy tiền bạc ra đút lót người đuổi theo, người ấy mừng
rỡ về thưa, quý nhân cũng mừng liền dẫn đạo nhân vào cửa sau, dạo xem khắp nơi
rồi theo lên lầu. Quý nhân đang tựa bên cửa sổ thì đạo nhân xô một cái, chỉ
thấy mình rơi ra ngoài lầu, may có sợi dây leo vướng ngang bụng nên còn treo lơ
lửng trên không. Nhìn xuống thấy sâu chóng mặt mà sợi dây cứ kêu rắc rắc như
sắp đứt, sợ quá la ầm lên.
Không bao lâu mấy tên thái giám chạy tới, vô cùng hoảng sợ vì thấy quý
nhân cách mặt đất rất xa, lên lầu cùng xem thì thấy đầu dây buộc vào lầu Muốn
cởi ra để cứu nhưng thấy dây nhỏ quá không thể dùng sức, tìm đạo nhân khắp nơi
nhưng ông đã biến mất, đành bó tay hết cách về tâu với Lỗ vương. Vương tới nhìn
thấy rất lấy làm lạ, sai rải cỏ khô dưới lầu, định chặt đút dây. Chuẩn bị vừa
xong thì dây leo tự đứt mà chỉ cách mặt đất không đầy một thước, mọi người đều
cười ngất. Vương sai hỏi xem đạo sĩ ở đâu, nghe nói ở nhờ nhà Tú tài họ Thượng
bèn tới hỏi thì ông đi chơi chưa về. Kế gặp nhau giữa đường, bèn đưa về ra mắt
vương.
Vương cho ngồi ăn tiệc, đòi làm trò vui, đạo sĩ thưa: “Thần là người quê
mùa, không có tài gì lạ, nay được thương tới xin hiến một ban nữ nhạc để chúc
thọ vương gia”. Rồi lần trong tay áo lấy ra một mỹ nhân đặt xuống đất, nàng dập
đầu lạy vương xong, đạo sĩ bảo diễn vở Dao Trì yến để chúc vương muôn tuổi. Mỹ
nhân lên sạp hát mấy câu, đạo sĩ lại lấy ra một người nữa, tự xưng là Tây Vương
Mẫu, giây lát lấy ra Đổng Song Thành, Hứa Phi Quỳnh, tất cả tiên nữ trên trời
đều lần lượt ra mắt. Sau cùng là Chức Nữ tới yết kiến, dâng vương một bộ áo
trời màu vàng lóng lánh chiếu sáng cả nhà. Vương nghĩ là đồ giả đòi xem, đạo sĩ
vội nói không nên nhưng vương không nghe cứ giở ra xem, quả thấy áo trời liền
lạc không có đường may, không phải sức người làm được. Đạo sĩ tỏ vẻ không vui,
nói: “Thần hết lòng thờ đại vương nên tạm mượn áo của Thiên Tôn cho xem, nay bị
trọc khí nhiễm vào, làm sao trả lại cho chủ cũ?”. Vương lại nghĩ những người ca
hát ắt đều là tiên nữ, muốn giữ lại vài nàng nhưng nhìn kỹ lại thì đều là con
hát thường ngày trong phủ. Lại ngờ khúc hát ấy thì họ chưa từng học qua, hỏi
tới thì họ cũng ngơ ngác không tự biết. Đạo sĩ lấy bộ áo trời châm lửa đốt rồi
cho vào trong tay áo, khám tới thì không thấy đâu nữa.
Vương vì thế rất trọng đạo sĩ, giữ ở lại trong phủ. Đạo sĩ nói: “Tính
quê mùa thấy cung điện như chậu lồng, không bằng ở nhà Tú tài được tự do hơn”,
nên cứ đến khuya lại về nhà Thượng Tú tài. Hôm nào vương cố giữ thì cũng ngủ
lại, mỗi lần có yến tiệc lại đảo lộn hoa cỏ bốn mùa làm vui. Vương hỏi: “Nghe
nói người tiên cũng không thể quên tình, có đúng không?” đạo sĩ đáp: “Có lẽ
người tiên thì đúng thế, chứ thần không phải là người tiên nên lòng như cây khô
thôi”. Một đêm đạo sĩ ngủ lại trong vương phủ, vương sai một ca kỹ tới nhìn.
Nàng vào phòng, gọi mấy tiếng không thấy đáp, thắp đèn soi thấy đạo sĩ nhắm mắt
ngồi trên giường, lay gọi thì hé mắt một cái rồi nhắm lại, lại lay nữa thì ngáy
vang lên. Xô mạnh thì ông ngã lăn ra mà vẫn ngủ say, ngáy vang như sấm. Gõ lên
trán thấy cứng ngắt chồn cả ngón tay, có tiếng như gõ vào gang sắt, bèn về bẩm
lại với vương. Vương sai lấy kim đâm thì đâm không vào, xô thì thấy nặng không
thể lay chuyển, gọi thêm hơn chục người xúm lại khiêng ông ném xuống dưới
giường, nghe như tảng đá nặng ngàn cân rơi xuống đất.
Sáng tới thấy ông vẫn ngủ dưới đất, kế tỉnh dậy cười nói: “Ngủ một giấc
say như chết, rơi cả xuống giường mà không biết”. Sau vương sai đám con gái
nhân lúc ông nằm ngồi tới cấu véo làm vui, nhưng véo cái đầu thì da thịt còn
mềm, qua cái thứ hai đã cứng như sắt đá. Đạo sĩ ở nhà Thượng Tú tài, thường
suốt đêm không về, Thượng khóa cửa đi ngủ, đến sáng ra mở của đã thấy đạo sĩ
nằm trong phòng. Lúc trước Thượng dan díu với ca kỹ Huệ Ca, đã thể lấy nhau.
Huệ phong nhã hát hay, ngón đàn nổi tiếng một thời, Lỗ vương nghe tiếng triệu
nàng vào hầu hạ, vì thế đôi bên tuyệt đường đi lại, lòng thường thương nhớ
nhưng không sao nhắn gởi gì được. Một đêm Thượng hỏi đạo sĩ có gặp Huệ Ca
không, đạo sĩ đáp: “Các ca kỹ trong phủ ta đều gặp qua nhưng không rõ là nàng
nào”. Thượng tả dung mạo tuổi tác, đạo sĩ mới nhớ ra. Thượng xin nhắn giùm một
câu, đạo sĩ cười nói: “Ta là người tu hành, không thể đưa tin cho ông được”.
Thượng năn nỉ không thôi, đạo sĩ đưa tay áo ra nói: “Nếu nhất định muốn
gặp nàng một lần thì mời vào đây”. Thượng nhìn vào thấy to rộng như gian nhà
liền khom người chui vào, lại thấy sáng sủa sạch sẽ, rộng bằng cái phòng khách,
bàn ghế vật dùng không thiếu món nào, ở trong không hề thấy khổ cực buồn bã.
Đạo sĩ vào phủ đánh cờ với Lỗ vương, chờ lúc Huệ Ca tới gần, giả phất tay áo
phủi bụi, Huệ Ca bị hút vào mà chẳng ai thấy. Thượng đang ngồi một mình tơ
tưởng chợt thấy có mỹ nhân từ mái hiên rơi xuống, nhìn lại thì là Huệ Ca. Hai
người ngạc nhiên mừng rỡ, âu yếm nhau rất mực. Thượng nói: “Duyên lạ hôm nay
không thể không ghi lại, xin cùng làm thơ liên cú” rồi viết lên vách rằng: “Hầu
môn tự hải cửu vô tung” (Cửa hầu tựa biển mỏi mòn trông), Huệ nối theo: “Thùy
thúc Tiêu lang kim hựu phùng” (Ai biết người xưa lại tái phùng). Thượng viết
tiếp: “Tụ lý càn khôn chân cá đại” (Tay áo bao la trời đất rộng), Huệ viết: “Ly
nhân tư phụ tận bao dung” (Dung trai xa vợ gái thương chồng). Vừa viết xong
chợt có năm người bước vào, đội mũ có góc, mạc áo đỏ nhạt, nhìn ra đều không
quen biết, mà họ cũng im lặng không nói chỉ bắt Huệ Ca đi. Thượng kinh hãi
không rõ vì sao, đạo sĩ về nhà gọi Thượng ra hỏi chuyện tình tự, Thượng giấu
giếm không kể hết. Đạo sĩ mỉm cười cởi áo, lộn tay áo ra cho xem. Thượng nhìn
kỹ thấy có tự tích lờ mờ nhỏ như chân kiến, té ra là bài thơ liên cú.
Mười mấy hôm sau lại xin vào phủ, trước sau cả thảy ba lần. Huệ Ca nói
với Thượng rằng: “Thiếp nghe trong bụng máy động rất lo lắng, vẫn phải lấy lụa thắt
lại. Nhưng trong vương phủ tai mắt rất nhiều, thảng hoặc một sớm sinh nở thì
biết tìm chỗ nào giấu được trẻ khóc. Phiền chàng bàn tính với tiên ông họ Củng,
cứ thấy thiếp xoa bụng ba lần thì nhờ người ra tay cứu vớt”. Thượng theo lời,
trở về thấy mặt đạo sĩ liền quỳ rạp xuống không chịu đứng lên. Đạo sĩ kéo đứng
lên, nói: “Hai người nói với nhau những gì ta đã biết rồi, xin đừng lo lắng.
Dòng giống nhà ông chỉ nhờ có một chút đó, ta đâu dám không hết lòng giúp đỡ.
Nhưng từ nay không cần vào đó nữa, điều ta muốn báo đáp cho ông vốn không phải
chỉ ở việc tư tình thôi đâu”. Mấy tháng sau đạo sĩ từ ngoài vào cười nói: “Ta
đã đưa công tử về đây rồi, mau lấy tã lót ra”.
Vợ Thượng rất hiền, hơn ba mươi tuổi sinh nở mấy lần mà chỉ nuôi được
một trai, vừa sinh con gái đầy tháng thì chết, nghe Thượng nói ngạc nhiên vui
mừng đích thân ra đón. Đạo sĩ thò vào tay áo lấy đứa nhỏ ra, nó im lặng như
đang ngủ mà rốn còn chưa cắt, vợ Thượng đón lấy bế lên mới khóc oa oa. Đạo sĩ
cởi áo nói: “Máu đẻ làm dơ áo thế này là đạo môn kỵ nhất, nay vì chuyện của ông
mà vật cũ hai mươi năm một sớm phải bỏ đi”. Thượng đưa áo khác cho thay, đạo sĩ
dặn: “Cái áo cũ của ta chớ bỏ, chỉ cần xé một mảnh bằng đồng tiền đốt đi mà
uống thì có thể chữa được chứng khó sinh và trụy thai”, Thượng vâng lời. Lâu
sau đạo sĩ chợt nói với Thượng: “Chiếc áo cũ của ta nên giữ lại chút ít mà
dùng, sau khi ta chết cũng đừng quên!”.
Thượng cho là lời bất tường nhưng đạo sĩ không nói gì mà ra đi, vào gặp
vương nói: “Thần muốn chết”. Vương giật mình hỏi, đạo sĩ đáp: “Đó là số trời đã
định, còn nói gì được”. Vương không tin cố giữ lại, đánh xong một ván cờ đạo sĩ
vội đứng lên, vương lại ngăn cản, xin phép ra nhà ngoài vương bèn cho. Đạo sĩ
ra đó nằm xuống, nhìn lại thì đã chết rồi. Vương sắm sửa quan tài mai táng tử
tế. Thượng tới điếu tang rất đau xót, bấy giờ mới hiểu là đạo sĩ đã báo trước.
Cái áo cũ của đạo sĩ để lại làm thuốc thôi sản rất hay, người tới xin nối gót
ngoài cổng. Ban đầu còn cho cái tay áo vấy máu, kế cắt tới cổ áo vạt áo chỗ nào
cũng hiệu nghiệm. Sau Thượng nhớ lời đạo sĩ dặn, e vợ sẽ gặp nạn khi sinh nở
nên cắt một mảnh dính máu to bằng bàn tay cất kỹ. Gặp lúc Lỗ vương có nàng ái
phi lâm bồn ba ngày không sinh được, các thầy thuốc đều hết cách, có người kể
lại chuyện Thượng, vương lập tức triệu vào, ái phi chỉ uống một chén thuốc là
sinh được ngay.
Vương cả mừng, tặng tiền bạc vải vóc rất hậu nhưng Thượng đều từ chối
không nhận. Vương hỏi vậy muốn gì, Thượng đáp: “Thần không dám nói”, gạn hỏi
mấy lần Thượng mới dập đầu thưa: “Nếu được đội ơn trời thì chỉ xin ban cho nàng
ca kỹ cũ Huệ Ca là đủ”. Vương triệu nàng tới hỏi tuổi, nàng thưa: “Thiếp vào
phủ năm mười tám tuổi, qua mười bốn năm rồi” Vương thấy nàng đã lớn tuổi bèn
gọi tất cả các ca kỹ ra cho tùy thích chọn lựa nhưng Thượng không ưng ý một ai.
Vương cười nói: “Anh học trò này khờ quá, hay mười năm trước có đính ước với
nhau rồi?”. Thượng kể thật mọi chuyện, vương liền sai đem đủ xe kiệu đưa Huệ Ca
về với Thượng, cho luôn nàng những tiền bạc vải vóc đã ban làm của hồi môn.
Đứa con trai Huệ sinh tên Tú Sinh,: “Tú” là ẩn nghĩa chữ: “Tụ” (tay áo)
vậy, năm ấy đã mười một tuổi. Vợ chồng thường nhớ ơn người tiên, năm nào đến
tiết Thanh minh cũng đi viếng mộ. Có người đi buôn ở Trung Châu (tỉnh Tứ Xuyên)
lâu năm, gặp đạo sĩ trên đường trao cho một quyển sách, nói: “Đây là sách trong
phủ Lỗ vương, lúc đi vội quá chưa kịp trả lại, nhờ ông trả hộ”. Người ấy về
nghe tin đạo sĩ đã chết không dám tâu, Thượng bèn cầm sách vào tâu hộ. Lỗ vương
mở ra xem thì đúng là sách đã cho đạo sĩ mượn, lấy làm ngờ vực sai quật mộ đạo
sĩ lên xem thì chỉ thấy quan tài rỗng không. Sau con trai Thượng chết yểu, may
có Tú Sinh nối dõi, càng phục lời tiên tri của tiên ông họ Củng.
Dị Sử thị nói: Càn khôn trong tay áo là lời ngụ ngôn của cổ nhân, há phải là
có thật đâu, sao lại lạ lùng đến thế. Trong tay áo có trời đất, có mặt trời mặt
trăng, có thể lấy vợ sinh con mà lại không bị cái khổ thúc thuế đòi lương,
không bị cái phiền muộn của người đời, thì những rận rệp trong đó cũng khác gì
chó gà ở cõi Đào Nguyên*đâu! Trộm mong người thường cũng được tới đó,
thì chết già ở nơi ấy cũng được.
*Đào Nguyên: Đào Tiềm thời Tấn có
bài Đào hoa nguyên ký kể chuyện một ngư phủ lạc vào rừng, theo dòng suối có hoa
đào trôi ra ngược lên tới nguồn thì gặp một nơi có người ở, hỏi ra thì họ nói
rằng tổ tiên tránh loạn thời Tần chạy vào sinh sống đã mấy trăm năm rồi, không
biết việc đời bên ngoài thay đổi ra sao. Đào Nguyên đây dùng chỉ cõi thanh bình
hạnh phúc ở nhân gian.
123. Cô Gái Họ Mai
(Mai Nữ)
Phong Vân Đình người Thái Hàng (tỉnh Sơn Tây) tình cờ lên quận, ban ngày
nằm ngủ trong nhà trọ. Lúc ấy Phong tuổi trẻ vừa góa vợ, lúc hiu quạnh thường
hay tơ tưởng. Đang đăm đăm ngưng thần, thấy trên tường có bóng con gái rõ ràng
như vẽ, tự nghĩ vì mơ tưởng nên thấy thế, nhưng hồi lâu không thấy động đậy,
cũng không biến đi. Lấy làm lạ vùng dậy nhìn thì là người thật, lại gần nữa thì
rõ ràng là một thiếu nữ nhăn mặt thè lưỡi, có một vòng dây thắt quanh cổ. Sinh
sợ hãi nhìn không chớp, thấy cô gái động đậy muốn bước xuống, biết là ma thắt
cổ nhưng đang ban ngày mà tính cũng gan dạ nên không sợ lắm, nói: “Nương tử như
có điều oan khuất, tiểu sinh xin hết sức” Cái bóng từ tốn bước xuống nói: “Gặp
gỡ thoáng qua, đâu dám vội mang việc lớn làm phiền quân tử, nhưng bộ xương khô
dưới suối vàng không rút lưỡi vào được, không cắt bỏ dây được, xin chặt thanh
xà ngang đốt đi, thì ơn ấy lớn như Thái Sơn”.
Sinh nhận lời, cái bóng biến mất. Sinh gọi chủ nhân tới hỏi về chuyện
vừa thấy, chủ nhân nói: “Mười năm trước nơi đây là nhà họ Mai, đang đêm có tên
trộm lẻn vào bị Mai bắt được giải lên quan Điển sử. Điển sử nhận ba trăm bạc
của tên trộm, vu cho con gái họ Mai tư thông với y, toan bắt lên tra xét, nàng
nghe tin thắt cổ chết. Sau vợ chồng họ Mai nối nhau chết, ngôi nhà này mới về
tay ta. Khách trọ vẫn thấy sự quái dị, nhưng không có phép gì làm cho yên”.
Phong đem lời ma kể lại, chủ nhân tính toán thấy phải dở nhà thay thanh xà
ngang, phí tổn không ít nên có vẻ khó khăn. Phong bèn góp tiền giúp thêm, chữa
xong lại vào ở. Đêm đến cô gái họ Mai tới cảm tạ, sắc mặt vui vẻ, phong thái
yêu kiều, Phong thích lắm muốn cùng giao hoan. Cô gái thẹn thùng nói: “Khí âm
lạnh lẽo, không những đã làm hại cho chàng mà nếu làm như thế thì tiếng nhơ lúc
sinh tiền dẫu nước sông Tây Giang cũng không rửa sạch được. Sẽ có lúc sum họp
với nhau, nhưng nay thì chưa”. Phong hỏi lúc nào, nàng chỉ cười không đáp.
Phong hỏi uống rượu không, cô gái đáp không uống được.
Phong nói: “Đối diện với người đẹp mà cứ giơ mắt buồn bã nhìn nhau thì
còn ý vị gì?”, nàng đáp: “Bình sinh thiếp chỉ biết có trò đánh cờ ngựa, nay hai
người ngồi buồn bã, đêm khuya lại khổ không có bàn cờ. Canh dài chẳng có gì
tiêu khiển, hãy cùng chơi trò giao tuyến”. Phong nghe theo ngồi bó gối xòe ngón
tay, trao qua chuyền lại hồi lâu, Phong hoa cả mắt không biết manh mối đâu nữa.
Cô gái cứ miệng giảng cằm hất ra hiệu, càng chơi càng biến ảo vô cùng tinh
diệu, Phong cười nói: “Đây là tuyệt kỹ trong khuê phòng đây”, nàng đáp: “Trò
này thiếp tự nghĩ ra, chỉ cần hai sợi dây là có thể chơi được, người ta không
chịu để ý đấy thôi” Về khuya càng mệt mỏi, Phong ép đi ngủ, cô gái nói: “Thiếp
là người cõi âm không ngủ, xin chàng cứ nghỉ đi Thiếp có biết thuật xoa bóp,
xin trổ hết tài giúp chàng ngon giấc” Phong theo lời, cô gái chụm hai tay xoa
nhẹ một lượt từ đỉnh đầu tới gót chân, tay lướt tới đâu gân cốt tê mê tới đó.
Kế lại nắm tay đấm khẽ như cầm nắm bông thúc, Phong thấy khoan khoái không sao
tả được. Nàng đấm tới lưng thì mắt Phong đã ríu lại, đấm tới đùi thì dã ngủ say
rồi.
Đến khi tỉnh dậy thì đã gần trưa, cảm thấy xương cốt đều nhẹ nhàng khoan
khoái khác hẳn mọi hôm, lòng càng yêu mến bèn đi quanh nhà cất tiếng gọi nhưng
không có một tiếng đáp lại. Chiều tối cô gái mới đến, Phong hỏi: “Nàng ở chỗ
nào làm ta tìm gọi khắp nơi thế?”, nàng đáp: “Ma thì không có chỗ ở nhất định,
chỉ là dưới đất thôi”. Phong hỏi dưới đất có chỗ trống ở được à, nàng nói: “Ma
không có đất cũng như cá không có nước vậy”. Phong nắm cổ tay nàng nói: “Nếu
nàng sống lại thì ta xin dốc hết cơ nghiệp để cưới”, cô gái cười nói: “Cần gì
phải dốc hết cơ nghiệp!”. Chơi đến nửa đêm, Phong hết sức nài ép, nàng nói:
“Chàng đừng ép thiếp, có nàng kỹ nữ ở đất Chiết (tỉnh Chiết Giang) tên Ái Khanh
vừa tới trọ ở nhà láng giềng phía bắc, dáng vẻ rất phong nhã, tối mai thiếp sẽ
gọi nàng cùng tới tạm thay cho thiếp được không?”, Phong bằng lòng.
Tối hôm sau nàng dắt một thiếu phụ đến, tuổi khoảng ba mươi trở lại, mắt
liếc mày đưa, có vẻ phóng đãng. Ba người ngồi ngã ngớn đánh cờ ngựa, xong ván
cờ cô gái đứng lên nói: “Cuộc vui đang nồng, thiếp phải đi đây”, Phong định kéo
lại thì nàng đã biến mất. Hai người bèn lên giường ôm nhau vui thú, Phong hỏi
gia thế thì thiếu phụ cứ ậm ừ không chịu đáp, chỉ nói: “Nếu chàng yêu thiếp thì
cứ gõ tay lên vách tường phía bắc gọi khẽ: “Hồ lô tử” là thiếp tới ngay. Nếu
gọi ba lần không thấy là thiếp đang bận, đừng gọi nữa”, trời sáng lách qua khe
hở trên bức tường phía bắc đi mất. Hôm sau cô gái tới, Phong hỏi Ái Khanh, nàng
đáp: “Bị công tử họ Cao gọi đi hầu rượu nên không tới đây được”. Kế thắp đèn
cùng trò chuyện, cô gái như có điều muốn nói nhưng mấp máy môi lại im lặng.
Phong gặng hỏi nhưng rốt lại nàng vẫn không chịu nói mà chỉ thở dài. Phong ép
nàng cùng chơi đùa, đến canh tư mới đi.
Từ đó hai nàng tới luôn, cười nói rộn rã thâu đêm, phố phường đều biết
cả. Có viên Điển sử Mỗ cũng là con nhà thế tộc cũ ở đất Chiết (tỉnh Chiết
Giang), vợ cả gian dâm với đầy tớ bị xuất, cưới tiếp người vợ kế họ Cố, rất
thương yêu nhau nhưng được một tháng nàng đã chết yểu vô cùng đau xót. Nghe nói
Phong có quen với ma thiêng, muốn nhờ hỏi giùm việc nhân duyên dưới âm ty bèn
cưỡi ngựa tới tìm. Phong lúc đầu không nhận lời, Mỗ hết sức nài nỉ không thôi,
Phong bèn bày rượu cùng ngồi, nhận lời gọi hộ nàng kỹ nữ ma. Trời sập tối bèn
gõ vách gọi, chưa dứt tiếng thứ ba thì Ái Khanh đã tới, ngước nhìn thấy khách
biến sắc định chạy, Phong lấy người chặn đường cản lại. Mỗ nhìn kỹ chợt nổi
giận ném chén rượu vào Ái Khanh, chớp mắt nàng biến mất. Phong kinh ngạc không
hiểu vì sao, đang định hỏi chợt trong góc tối có bà già bước ra mắng: “Thằng
giặc tham lam bỉ ổi làm hỏng cả cây tiền của ta rồi, đền ngay ba chục quan tiền
đây!”, rồi cầm gậy đập vào đầu Mỗ.
Mỗ ôm đầu rên rỉ, nói: “Đó là Cố thị vợ ta bị chết trẻ, đang còn đau đớn
thì ngờ đâu lại làm con ma bất trinh, có dính líu gì tới bà chứ?”. Bà già tức
giận nói: “Ngươi vốn là thằng giặc vô lại ở Giang Chiết, mới mua được sợi dây
lưng gắn miếng sừng đen* được đeo thắt lưng gắn miếng sừng màu đen
đã hếch mũi lên. Ngươi làm quan có kể gì đen trắng, ai có ba trăm quan thì
ngươi coi là cha! Thần giận người oán, sắp tận số rồi, cha mẹ ngươi phải kêu
xin dưới âm ty xin đưa nàng dâu quý vào lầu xanh để trả món nợ tham lam thay
ngươi mà còn chưa biết à?”, nói xong lại đánh. Mỗ lạy lục van xin, Phong sợ hãi
không biết làm sao cứu. Chợt cô gái họ Mai trong phòng bước ra, trợn mắt lè
lưỡi, vẻ mặt trông rất ghê rợn, sấn tói lấy cây trâm dài đâm vào tai Mỗ. Phong
hoảng quá lấy người che đỡ cho khách, cô gái vẫn căm tức không nguôi. Phong
khuyên nói: “Dù y có tội nhưng nếu chết ở đây thì tiểu sinh có lỗi, xin ném
chuột đừng để vỡ đến lọ quý”. Cô gái bèn kéo bà già nói: “Thôi hãy tạm tha cho
hắn, xin bà nể mặt ta mà nghĩ tới chàng Phong”, Mỗ run sợ lủi đi, về tới công
thự sợ hãi phát bệnh đau óc, nửa đêm thì chết.
*Sợi dây lưng gắn miếng sừng đen:
theo quan chế triều Thanh, chức Điển sử.
Đêm hôm sau cô gái hiện ra cười nói: “Khoái thật, bao nhiêu uất ức đã
phát tiết được cả rồi”. Phong hỏi có thù oán gì với y, nàng đáp: “Trước kia
thiếp đã nói y ăn của đút rồi vu cho thiếp thông gian, ôm mối căm hờn đã lâu,
vẫn thường định nhờ chàng rửa hờn một phen nhưng lại tự thẹn chưa có chút ơn
đức gì nên cứ định nói lại thôi. Đêm qua nghe tiếng đánh chửi ầm ĩ, lén tới
rình xem, không ngờ lại gặp kẻ thù”. Phong ngạc nhiên hỏi: “Đó là kẻ vu cáo cho
nàng à?”, cô gái đáp: “Y làm Điển sử ở đây đã mười tám năm, mà thiếp chết oan
cũng được mười sáu mùa nóng lạnh rồi”. Phong hỏi bà già là ai, nàng đáp là một
kỹ nữ già, lại hỏi tới Ái Khanh, nàng đáp rằng đang ốm. Kế nhoẻn miệng cười
hỏi: “Thiếp từng nói sẽ có lúc sum họp với nhau, nay quả không còn lâu nữa.
Chàng vẫn nói xin dốc hết cơ nghiệp để cưới thiếp, còn nhớ không?”. Phong đáp:
“Nay ta vẫn muốn thế mà”. Cô gái nói: “Nói thật với chàng, hôm thiếp chết đã
đầu thai vào nhà Hiếu liêm họ Triển ở Diên An (tỉnh thành Thiểm Tây), chỉ vì
thù lớn chưa trả nên còn dùng dằng ở đây. Xin lấy vải mới làm cái túi ma để
thiếp đi theo chàng, tới nhà họ Triển cầu hôn chắc xong việc”. Phong lo gia thế
quá chênh lệch, sợ sẽ không xong, nàng nói: “Cứ đi đừng lo gì”. Phong theo lời,
cô gái dặn: “Dọc đường cẩn thận đừng gọi thiếp, đợi đến đêm hợp cẩn thì lấy túi
trùm lên đầu cô dâu rồi gọi lớn rằng: “Đừng quên! Đừng quên!”.
Phong gật đầu, vừa mở túi ra cô gái đã nhảy luôn vào, Phong mang cái túi
tới Diên An hỏi thăm quả có Hiếu liêm họ Triển sinh được một con gái dung mạo
cực kỳ xinh đẹp nhưng mắc bệnh ngây ngốc, lại hay lè lưỡi ra ngoài miệng như
chó lúc trời nóng, mười sáu tuổi vẫn chưa có ai dạm hỏi, cha mẹ rất phiền muộn.
Phong tới nhà đưa danh thiếp, kể rõ gia thế, trở về nhờ mai mối tới ngỏ ý.
Triển mừng giữ Phong gửi rể trong nhà, cô gái vô cùng ngây ngốc, không biết cả
làm lễ, phải sai hai tỳ nữ đỡ vào phòng. Đám tỳ nữ vừa lui thì nàng phanh vạt
áo để hở cả vú ra, nhìn Phong cười ngớ ngẩn. Phong trùm túi lên đầu nàng rồi
gọi. Cô gái ngó sững Phong như có ý ngờ vực, Phong cười hỏi: “Nàng không quen
tiểu sinh à?”, rồi giơ cái túi cho xem. Cô gái chợt tỉnh ra, vội khép áo lại,
mừng rỡ cùng vui vẻ trò chuyện.
Sáng ra Phong vào thăm hỏi cha vợ, Triển an ủi nói: “Con nhỏ ngây ngốc
không biết gì, may được thương tới, nếu ông có lòng thì trong nhà không thiếu
bọn tỳ nữ lanh lợi, ta xin tặng không tiếc”. Phong ra sức phân trần rằng nàng
không ngây ngốc, Triển rất ngờ vực. Không bao lâu cô gái tới, cử chỉ đều nết na
khuôn phép, Triển vô cùng lạ lùng, nàng chỉ ngượng nghịu mỉm cười. Triển gạn
hỏi, nàng thẹn thùng không nói được, Phong bèn kể qua đầu đuôi, Triển cả mừng,
yêu thương nàng còn hơn lúc trước. Bèn cho Phong cùng học với con trai là Đại
Thành, chu cấp rất đầy đủ. Được hơn một năm, Đại Thành dần dần đâm coi thường
Phong, vì em rể anh vợ không hợp nhau nên đám gia nhân cũng bới lông tìm vết.
Triển bị nói ra nói vào cũng ngấm, dần lạt lẽo với Phong. Cô gái biết chuyện,
nói: “Nhà cha vợ không thể ở lâu, phàm những người ở nhà cha vợ lâu đều là hạng
hèn hạ. Nay chưa tới lúc quá căng thẳng, nên đi ngay”. Phong cho là phải, thưa
với Triển, Triển muốn giữ con gái lại, nàng không nghe. Cha và anh đều tức
giận, không cho xe ngựa đưa về, cô gái bỏ tiền riêng ra mua ngựa mà về. Sau đó
Triển gọi về thăm nhà nhưng cô gái từ chối, đến khi Phong thi đỗ Hiếu liêm mới
qua lại với nhau.
Dị Sử thị nói: Quan càng nhỏ thì càng tham, đó cũng là chuyện thường tình
chăng? Nhưng nhận ba trăm đồng mà vu cho người ta tội thông gian, thì quả không
còn sợ hãi gì hình phạt tàn khốc chốn dạ đài rồi. Cho nên mới bị cướp vợ yêu bỏ
vào lầu xanh, sau cùng lại làm cho chết thảm, ôi đáng sợ thay!