Việt sử giai thoại (Tập 6) - Lời chú cuối sách (Hết)
LỜI CHÚ CUỐI SÁCH
Để bạn đọc
đỡ mất công tra cứu, chúng tôi viết thêm phần Lời chú cuối sách. Với phần này,
chúng tôi cố gắng giải nghĩa một cách gọn gàng mà đầy đủ những khái niệm ngày
nay không còn thông dụng nữa. Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin lưu ý rằng, tất cả
những lời giải nghĩa dưới đây chỉ phù hợp với khung lịch sử nước ta trong hai
thế kỉ XVI và XVII. Những con số đặt trong ngoặc đơn, nằm sát ngay sau các khái
niệm được chú thích là số thứ tự của các giai thoại trong sách này.
AI LAO (31): Tên vương quốc
cổ. Nay, lãnh thổ của vương quốc này thuộc về Lào.
ÁI TỬ (08): Tên đất, cũng là
tên sông. Sông Ái Tử chảy qua tỉnh Quảng Trị. Sát sông này có xã tên là Ái Tử.
Xưa, Ái Tử từng được chọn làm nơi đặt thủ phủ chung cho cả hai trấn là Thuận
Hóa và Quảng Nam.
AN NAM ĐÔ THỐNG SỨ TI (18):
Cơ quan thống trị, chịu trách nhiệm về mọi vấn đề của xứ An Nam. An
Nam là từ chỉ nước ta, vốn có từ thời Đường (năm 679) còn như Đô
thống sứ ti là từ chỉ chung triều đình của nhà Lê. Lúc này, Trung Quốc
không chính thức thừa nhận vua Lê nên mới phong vua Lê làm Đô thống sứ và gọi
triều đình của vua Lê là An Nam Đô thống sứ ti.
AN THANH HẦU NGUYỄN KIM (01):
Ông Nguyễn Kim, tước Hầu, có hiệu là An Thanh. Xưa, tước bao giờ cũng ghép với
hiệu và để ở sát ngay sau hiệu.
ÁN SÁT ĐỀ HÌNH SỨ TI (16):
chức đứng đầu cơ quan trông coi về xét xử và án kiện của một khu vực rộng lớn
gồm hai hoặc nhiều địa phương, do triều đình (đây nói triều đình nhà Minh) lập
ra.
BẮC TRIỀU (02): Chỉ triều
Mạc, mở đầu là Mạc Đăng Dung. Lúc này, nhà Mạc chiếm giữ chủ yếu là vùng phía
Bắc nước ta nên sử cũ thường gọi nhà Mạc là Bắc triều.
BINH BỘ HỮU THỊ LANG (40):
Trong các bộ của triều đình xưa, đứng đầu là chức Thượng thư, sau chức Thượng
thư là hai chức Tả và Hữu thị lang. Chức Tả bao giờ cũng lớn hơn chức Hữu. Như
vậy chức Binh bộ Hữu thị lang là chức đứng hàng thứ ba trong bộ Binh, sau chức
Thượng thư và chức Tả thị lang.
BÌNH AN VƯƠNG (21): Tước
Vương, hiệu hai chữ là Bình An. Đây chỉ Trịnh Tùng (1570 - 1623). Tước luôn đi
đôi với hiệu và để ở sát ngay sau hiệu, nhưng, trong cùng một tước, hiệu càng
ít chữ thì thứ bậc của tước càng cao hơn.
BỒI TỤNG (60), (62): Chức
quan sau chức Tham tụng. Thời này có sự lẫn lộn giữa chức và quyền. Thực ra,
Tham tụng và Bồi tụng lúc này là quyền, không phải chức.
Chúa chọn viên quan nào đó xét thấy có thể đảm đương được việc điều hành
công việc chung của các bộ, thì trao quyền Tham tụng, đồng thời cử một số viên
quan khác, trong đó có người được làm Bồi tụng, để phụ giúp công việc chung.
Quyền của Tham tụng và Bồi tụng rất lớn, không khác Tể tướng và Á tướng bao
nhiêu.
BỒI TỤNG, CHỨC LỄ BỘ TẢ THỊ
LANG (54): Viên quan giữ chức Tả thị lang của bộ Lễ (là chức lớn thứ hai sau
chức Thượng thư của bộ Lễ) được trao quyền làm Bồi tụng.
CAI ĐỘI (34): Chức võ quan,
đứng đầu một đội quân. Chúa Nguyễn chia quân thành các dinh, đứng đầu mỗi dinh
có chức Chưởng dinh, trong mỗi dinh lại có nhiều đội, đứng đầu mỗi đội có chức
Cai đội.
CAI HỢP (31): chức quan có
vị thế tương tự như là phó của chức Cai đội.
CẤP SỰ TRUNG (80): Trong
triều đình lúc này, dưới cấp bộ còn có hai cơ quan trực thuộc là Khoa và Tự.
Quan được giữ chức Cấp sự trung là quan làm việc ở các Khoa, thường có hàm
Chánh bát phẩm.
CON ĐỎ (54): nguyên nghĩa là
con mới sinh ra, sắc da còn đỏ, âm Hán Việt của từ này là xích
tử. Sách Đại học (một trong Tứ thư) có
nói đến cửu thường (chín điều tâm niệm của quân tử),
trong cửu thường có Tử thứ dân (nghĩa là thương
dân như con), và khi phân tích vế Tử thứ dân, sách này cũng
nói rõ là phải Bảo xích tử (nghĩa là phải thương như thương
đứa trẻ sơ sinh). Nho gia từ đó gọi dân là con đỏ.
CON HỒNG CHÁU LẠC (10): Chỉ
chung nhân dân nước ta. Tổ tiên ta vẫn coi mình là dòng dõi Lạc Hồng, cho nên
nói con Hồng cháu Lạc cũng tức là nói chung toàn thể nhân dân nước ta.
CÔNG BỘ HỮU THỊ LANG (40):
Chức quan hàng thứ ba trong bộ Công, sau chức Thượng thư và chức Tả thị lang
của bộ này.
CÔNG BỘ TẢ THỊ LANG (18):
chức quan đứng hàng thứ hai của bộ Công, sau chức Thượng thư của bộ này.
CÔNG KHOA CẤP SỰ TRUNG (29):
Chức quan làm việc ở Công Khoa. Ở dưới các bộ của triều đình lúc này là các
Khoa và các Tự. Công Khoa là Khoa của bộ Công.
CƠ TỬ (25): Tên một viên
quan có tài của Chu Vũ Vương (Trung Quốc cổ đại).
CUNG CHẤN (50): Trong bát
quái, chấn là phương đông. Cung chấn ở đây chỉ vòm trời phía đông.
CỬA KHUYẾT (04): ở phía nam
của hoàng thành thường có một cửa lớn, trên cửa có lầu. Cửa ấy gọi là cửa
khuyết, cũng tức là cửa quyết. Lầu ấy gọi là lầu khuyết hay lầu quyết. Đây là
nơi ban bố mọi mệnh lệnh của triều đình cho thiên hạ hay.
CHU THƯ (25): sách (của
Trung Quốc) thời nhà Chu.
CHU VŨ VƯƠNG (25): Tức Tây
Bá Phát, vị vua đầu tiên của nhà Chu, người đã giết vua Trụ tàn bạo của nhà Ân
(cũng tức là nhà Thương). Nhà Chu là một trong tam đại (Hạ, Thương,
Chu) của Trung Quốc cổ đại.
CHÚC SƠN (40): Cũng tức là
Chúc Động, tên một xã thuộc huyện Chương Đức, tỉnh Hà Đông cũ, nay thuộc tỉnh
Hà Tây.
CHƯỞNG CƠ (28): Chức võ quan
cao cấp nhất của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong.
CHƯỞNG DINH (26): Chức quan
(thường là võ quan) đứng đầu một dinh. Dinh là đơn vị hành chánh địa phương lớn
nhất của xứ Đàng Trong. Mỗi dinh cũng là một đơn vị quân đội. Chức Chưởng dinh
cũng đồng thời là chức đứng đầu đơn vị quân đội này.
CHƯỞNG GIÁM (27): Tên chức
quan, chức này thường được dùng để ban cho người đứng đầu một Khoa của một bộ
nào đấy.
CHƯỞNG TƯ LỄ GIÁM (45): Chức
quan đứng đầu bộ phận trông coi về việc hành lễ ở bộ Lễ.
DA CHÂU (05): Cũng tức là
châu Quan Da, nay thuộc Thanh Hóa.
ĐẤT MÂN (42): Vùng đất này
thuộc tỉnh Phúc Kiến của Trung Quốc. Lúc này, vì bị nhà Thanh tấn công, triều
đình nhà Minh phải bỏ kinh thành mà chạy về Phúc Kiến.
ĐOAN VŨ HẦU (04): Tước Hầu,
hiệu là Đoàn Vũ. Đây chỉ tước của Lê Cập Đệ.
ĐÔ ĐỐC (26): Chức võ quan
cao cấp, ngang với các hàm Thái tử Thái sư, Thái tử Thái phó và Thái tử Thái
bảo của văn quan. Đô đốc có hai viên là Tả và Hữu, cùng có hàm tòng Nhất phẩm.
ĐÔ ĐỐC ĐỒNG TRI (49): chức
võ quan cao cấp, ở dưới chức Đô đốc thường có hàm tòng Nhị phẩm.
ĐÔ THỐNG SỨ (18): Tên quan
chức của nhà Minh, nhưng đây lại là chức vụ mà nhà Minh phong cho vua Lê, coi
vua Lê cũng chỉ như một viên quan của nhà Minh mà thôi.
ĐÔ THỐNG TI (42): Chỉ triều
đình nước ta. Đô thống ti Lê Hựu là triều đình Lê Hựu (tức triều đình vua Lê
Chân Tông: 1643 - 1649).
ĐỐC ĐỒNG (56): Chức quan
trông coi việc xét xử, án kiện ở các trấn. Những quan có hàm từ Ngũ phẩm đến Tứ
phẩm đều có thể được trao chức này.
ĐỐC THỊ (49): Quan trông coi
các vấn đề về biên cương ở các trấn tiếp giáp với nước ngoài. Những người có
hàm tử Tứ phẩm đến Tam phẩm đều có thể được trao chức này.
ĐỐC CHIẾN (50): chức võ
quan. chỉ đặt ra trong khi có chiến trận. Chức này lớn nhỏ tùy quy mô của chiến
tranh, đại để, nhiệm vụ của Đốc chiến là đốc thúc quân sĩ theo đúng mệnh lệnh
mà chiến đấu.
ĐỐC SUẤT (56): Chức võ quan,
chỉ đặt ra khi có chiến trận, đại để cũng gần giống như Đốc chiến.
ĐỐC TRẤN (58): chức Võ quan
được bổ nhiệm làm người đứng đầu của một trấn.
ĐÔNG CÁC ĐẠI HỌC SĨ (16):
Học sĩ làm việc ở Đông Các thì gọi là Đông Các Học sĩ. Quan Đông Các Đại học sĩ
là quan có hàm lớn nhất trong số các quan làm việc ở Đông Các, quan này thường
có hàm từ tòng Tứ phẩm trở lên.
ĐỒNG TRI ĐÔ ĐỐC, TƯỚC THỤY
QUẬN CÔNG (55): Chức quan dưới chức Đô đốc, tước Quận công, hiệu là Thụy. Chức
Đồng tri Đô đốc thường do văn quan nắm giữ.
GIA ĐỊNH (61): Tên đất. Tên
đất này bắt đầu có kể từ năm 1698, dùng để chỉ vùng tương ứng với miền Đông Nam
Bộ ngày nay, nhưng rồi dần dần, được dùng để chỉ toàn bộ Nam Bộ. Năm 1832, nhà
Nguyễn chia Nam Bộ làm sáu tỉnh, gọi là Nam Kì Lục tỉnh. Trong số sáu tỉnh này,
có tỉnh Phiên An. Năm 1836, tỉnh Phiên An đổi gọi là tỉnh Gia Định. Thời Pháp,
Gia Định là tên một tỉnh nhỏ mà cơ quan đầu não của tỉnh này đặt ở khu vực quận
Bình Thạnh (thành phố Hồ Chí Minh) ngày nay.
HẠC HẢI (31): Tên bãi cát ở
Quảng Bình.
HÀN LÂM HỌC SĨ (42): Học sĩ
làm việc tại viện Hàn Lâm. Thường thì các học sĩ đều là Tiến sĩ.
HÁN TUYÊN ĐẾ (42): Vị Hoàng
đế thứ bảy của nhà Tiền Hán (Trung Quốc), làm vua từ năm 73 trước Công nguyên
đến năm 49 trước Công nguyên.
HIẾN SÁT (31), (35): Viên
quan chịu trách nhiệm giám sát hoạt động của quan lại từ cấp trấn trở xuống,
đồng thời, trông coi các việc xét xử và án kiện của các trấn. Quan Hiến sát
thường có hàm Chánh lục phẩm.
HÌNH TÀO THAM PHÁN (18):
Chức vụ của triều đình Triều Tiên, chưa rõ cụ thể như thế nào. Tuy nhiên, có
thể suy đoán rằng, sử cũ đã chọn một chức vụ tương đương ở nước ta cho viên sứ
giả người Triều Tiên này. Nếu suy đoán này đúng, thì Hình tào Tham phán tương
đương với chức đứng đầu cơ quan bộ Hình nhưng lại làm việc trong phủ chúa. (Bộ
Hình của triều đình chỉ tồn tại trên danh nghĩa chứ không có vị trí gì, tất cả
công việc của bộ Hình thực chất là do Hình tào của phủ chúa đảm trách).
HIỆU THẢO (63): Chức quan lo
việc đọc lại để kiểm tra độ chính xác của các văn kiện. Mỗi một Khoa đều có
chức quan này. Hiệu thảo làm việc dưới quyền chỉ huy của các quan Cấp sự trung.
HY TÔNG HIẾU VĂN HOÀNG ĐẾ
(29): Miếu hiệu được truy tôn của Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635).
HOÀNG GIANG (22): Tên sông ở
Hà Nam.
HỒ XÁ (08): Tên đất ở Quảng
Bình.
HỒ GẶP GIÓ, RỒNG GẶP MÂY
(02): Dịch từ câu Hổ tùng phong, long tùng vân, ý nói cơ may đã
đến.
HỘ KHOA CẤP SỰ TRUNG (40),
(49): Chức quan Cấp sự trung làm tại Hộ Khoa. (Xem thêm: Cấp sự trung)
HUÂN VƯƠNG (20): Vị vương
tước có công lao. Đây chỉ chúa Trịnh Tùng (1570 - 1623), tước Bình An Vương.
KẺ NÔNG TANG (42): Kẻ làm
ruộng và trồng dâu, đây ý muốn chỉ những người có địa vị thấp hèn trong xã hội
cũ.
KINH ẤP (10): Cũng tức là
kinh đô. Đây chỉ Thăng Long.
KINH BẮC (40): Tên trấn.
Trấn Kinh Bắc xưa có đất đai đại để tương ứng với vùng Hà Bắc cũ.
LAI QUẬN CÔNG (04): Tước
Quận công, hiệu là Lai. Đây chỉ tước của Phan Công Tích.
LẠI BỘ HỮU THỊ LANG (35):
Chức vụ ở hàng thứ ba của bộ Lại, sau Thượng thư và Tả thị lang.
LẠI BỘ HỮU THỊ LANG (35):
Chức vụ đứng hàng thứ hai của bộ Lại, sau Thượng thư.
ANH VŨ ĐIỆN ĐẠI HỌC SĨ, HÀM
THIẾU BẢO, KIÊM THÁI TỬ THÁI BẢO, CHỨC LẠI BỘ THƯỢNG THƯ (18): Quan đứng đầu bộ
Lại (đây chỉ bộ lại của Trung Quốc), được phong hàm Thiếu bảo, lại kiêm thêm cả
hàm Thái tử Thái bảo (tức là kiêm giữ những hàm lớn nhất trong hệ thống các hàm
thuở xưa), cũng là bậc Đại học sĩ của điện Anh Vũ (vinh quang dành riêng cho
những người được tôn là bậc hiền tài của triều đình).
LỄ KHOA CẤP SỰ TRUNG (49):
Quan Cấp sự trung, làm việc tại Lễ Khoa. (Xem thêm: Cấp sự trung)
LÔI DƯƠNG (05): Tên huyện.
Huyện này nay thuộc Thanh Hóa.
LŨY PHẬT CƯƠNG (39): Tên một
chiến lũy ở phía Bắc sông Gianh (Quảng Bình). Lũy này do quân Trịnh đắp nên.
LƯƠNG QUẬN CÔNG (04): Tước
Quận công, hiệu là Lương.
MINH LINH (33): Tên đất, nay
thuộc Quảng Bình.
NAM TRIỀU (02): Tức triều Lê
nhưng thực quyền lúc đầu nằm trong tay Nguyễn Kim, sau đó lại nằm trong tay
Trịnh Kiểm (là con rể của Nguyễn Kim) và con cháu của Trịnh Kiểm. Sở dĩ gọi là
Nam triều vì lúc này, triều Lê mới được dựng lại, chỉ chiếm được vùng phía Nam,
còn vùng phía Bắc thì vẫn do triều Mạc (Bắc triều) nắm giữ.
NỘI GIÁM (21): Quan Thái
giám, làm việc dưới quyền của quan Tổng thái giám, chuyên lo giúp việc chủ yếu
trong nội phủ.
NỘI TÀN (38): Tên chức quan
thời chúa Nguyễn, phẩm hàm tương đối cao, tuy nhiên, công việc và vị trí cụ thể
như thế nào, hiện vẫn chưa rõ.
NỘI THỦY (34): Tên đơn vị
quân đội. Số lính của mỗi quân thường hay thay đổi, tuy nhiên, đại để thì mỗi
quân gồm có từ 2 thuyền trở lên, mỗi thuyền vẫn thường có khoảng 500 người.
NỘI VIỆN THỊ ĐỘC (58): Tên
chức quan của nhà Minh. Những người có hàm từ Chánh ngũ phẩm trở lên đều có thể
được hổ nhiệm giữ chức này.
NÔNG CỐNG (05): Tên một
huyện ở Thanh Hóa.
NÚI ĐÂU MÂU (33): Tên núi ở
Quảng Bình, gần cửa Nhật Lệ.
NÚI TRƯỜNG DỤC (31): Tên núi
ở Quảng Bình.
NHA GIANG (22): Tên sông đổ
ra cửa Đại Yên (hay cửa Liêu) ở Nam Hà cũ.
NHA ÚY NỘI TÁN (30): Chức võ
quan cao cấp của chúa Nguyễn, được quyền hầu cận và bàn việc quân cơ với chúa.
NHÂN MỤC (27): Tên chợ, cũng
là tên làng, tục gọi là làng Mọc, nay là xã Nhân Chính, ngoại thành Hà Nội.
NHẬT LỆ (33): Tên sông, cũng
là tên cửa biển ở Quảng Bình.
NGỌC CUNG CẦU (42): Chưa rõ
điển tích, chỉ biết cả câu này ý nói phải thực hiện đúng phận sự của mình.
NGÔ - VIỆT (42): Nước Ngô và
nước Việt, hai nước nhỏ ở Trung Quốc thời Xuân Thu. Đây chỉ đất xưa của nước
Ngô và nước Việt, nơi vua nhà Minh đang bôn tẩu tới để lánh nạn và mong hưng
phục cơ nghiệp cho mình.
NGÙ (19): Vật trang sức,
thường có hình cầu, dưới có dính tua đủ màu.
PHỤ QUỐC CHÍNH (42): Chức tự
phong của Trịnh Tráng. Với chức đó, Trịnh Tráng có danh nghĩa lớn là giúp vua
trị nước, nhưng thực chất, Trịnh Tráng đã nắm hết mọi quyền bính trong tay.
PHỔ QUẬN CÔNG (4): Tước Quận
công, hiệu là Phổ.
QUYỂN THỦ (Lời trích ở trang
đầu của sách): Quyển mở đầu.
Sách Đại Việt sử kí
toàn thư gồm có: 1 quyển thủ, 5 quyển ngoại kỉ (giới thiệu lịch sử
nước ta từ đầu đến Ngô Quyền), 10 quyển bản kỉ (giới thiệu lịch sử nước ta từ
Ngô Quyền đến hết thời Lê Lợi), 5 quyển bản kỉ thực lục (giới thiệu lịch sử
nước ta từ Lê Thái Tông đến hết thời Lê Cung Hoàng) và 7 quyển bản kỉ tục biên
(giới thiệu lịch sử nước ta từ nhà Mạc đến giữa thế kỉ XVII), tổng cộng 28
quyển.
Quyển thủ là quyển giới
thiệu lời tựa, lời biểu dâng sách, phàm lệ và mục lục.
SAO BẮC ĐẨU (50): Là chòm
sao ở phía Bắc, gồm có 7 vì sao, cho nên cũng gọi là chòm Thất tinh.
SAO CHẨN (50): Tên của một
ngôi sao trong Nhị Thập Bát Tú.
SAO KHÔI (50): Tên một ngôi
sao trong số 7 ngôi sao Bắc Đẩu.
SÔNG TAM CHẾ (51): Tên sông
ở Hà Tĩnh.
SỞ - THỤC (42): Tên hai nước
chư hầu ở Trung Quốc thời Xuân Thu. Đây chỉ vùng đất từ tỉnh Tứ Xuyên sang phía
Đông, giáp với Phúc Kiến, vốn là đất của nước Thục và nước Sở cũ.
TẢ THỊ LANG BỘ BINH (65):
Chức vụ hàng thứ hai sau Thượng thư của bộ Binh.
TẢ GIANG BINH TUẦN ĐẠO (16):
Chức vụ của nhà Minh đặt ra khi cử quan đi kiểm tra tình hình ở phía tả ngạn
sông Trường Giang.
TẢ TƯỚNG TIẾT CHẾ THỦY BỘ
CHƯ BINH (40): Chức Tả tướng, nắm giữ quyền chỉ huy tất cả các dinh quân, thủy
cũng như bộ. Chức này chỉ có Tả mà không có Hữu, chỉ dành riêng cho chúa mà
thôi.
TÀM CHÂU (5): Tên đất, nay
thuộc Thanh Hóa.
TÁN LÍ (40): Chức quan giúp
việc cho các quan trấn thủ ở các xứ. Sau, chức này bị bãi bỏ, chỉ khi nào xuất
quân đi xa mới đặt chức Tán lí, để giúp việc cho chủ tướng mà thôi. Hết việc phải
xuất quân, chức Tán lí đương nhiên bị bãi bỏ.
TÀO THÁO (31): Tên nhân vật
nổi tiếng của Trung Quốc thời Tam Quốc. Lúc đầu, Tào Tháo chỉ là quyền thần
thời Hán Hiến Đế sau, Tào Tháo cùng Lưu Bị và Tôn Quyền cùng tranh hùng, tạo ra
cuộc hỗn chiến Tam Quốc (Ngụy, Thục và Ngô). Đến khi con của Tào Tháo là Tào
Phi cướp ngôi vua của nhà Hán, Tào Tháo được truy tôn là Vũ Đế.
TAM TI (31): Ba cơ quan cùng
trông coi việc nước ở một trấn. Tam ti gồm: Thừa ti (trông coi về hành chính và
thuế khóa), Hiến ti (trông coi về tư pháp, xét xử và án kiện), Đô ti (trông coi
về quân sự).
TÂY DƯƠNG (31): Chỉ chung
các nước phương Tây. Lúc này, thực dân phương Tây đang tìm cách bành
trướng.mạnh mẽ sang phương Đông.
TẤT ĐỒNG (47): Vùng đất tiếp
giáp giữa Hà Tĩnh với Quảng Bình ngày nay.
TIÊN KHẢO (21): Người cha đã
khuất. Trịnh Tùng là con thứ của Trịnh Kiểm, mà Trịnh Kiểm thì đã mất (năm
1569), nên Trịnh Tùng gọi Trịnh Kiểm là tiên khảo.
TIỀN BỘ DINH, QUỲNH QUẬN
CÔNG (22): Chức quan chỉ huy dinh Tiền Bộ, tước Quận công, hiệu là Quỳnh.
TIẾT CHÊ (10): Người đứng
đầu lực lượng vũ trang.
TIẾT CHẾ SINH QUỐC CÔNG (22):
Người đứng đầu lực lượng vũ trang, tước Quốc công, hiệu là Sinh. Đây là chức
hiệu tự xưng, không phải chức hiệu chính thức của nhà nước.
TÔN VÕ TỬ (34): Cũng tức là
Tôn Võ hay Tôn Tử, nhà binh pháp nổi tiếng của Trung Quốc thời cổ đại.
TỔNG BINH (31): Chức võ quan
đứng đầu lực lượng vũ trang của một xứ nào đó.
TƯỚNG THẦN LẠI (31): Chức
quan chuyên lo việc thuế khóa.
TRẤN THỦ (36): Người đứng
đầu một trấn.
TRUNG ĐẠO (47): Quân đội xưa
thường chia làm năm đạo (hoặc năm dinh hay năm quân), gồm: Tả, Hữu, Tiền, Hậu
và Trung. Vậy, Trung Đạo là một trong năm đạo quân đương thời của chúa Nguyễn.
THÁI BẢO (02): Một
trong Tam thái (Thái sư, Thái phó và Thái bảo). Tuy nhiên, đây
chỉ là vinh hàm ban riêng cho đại thần, không phải là thực hàm.
THÁI BỘC TỰ KHANH (49): Chức
quan đứng đầu một Tự trong triều đình. (Xem thêm: Cấp sự trung). Chức
này thường có hàm từ Ngũ phẩm trở lên.
THÁI TỂ HƯNG QUỐC CHIÊU HUÂN
TĨNH CÔNG (21): Tước và hiệu của Nguyễn Kim.
THÁI THƯỜNG TỰ KHANH (18),
(40): Tên chức quan làm việc trong các Tự của triều đình. (Xem thêm Cấp
sự trung)
THAM CHÍNH (35): Chức quan ở
địa phương cấp trấn, sau chức Trấn thủ, thường có hàm Tứ phẩm.
THAM ĐỐC (6): Chức quan giúp
việc cho quan Trấn thủ ở các trấn.
THAM TỤNG, LỄ BỘ THƯỢNG THƯ,
KIÊM ĐÔNG CÁC ĐẠI HỌC SĨ, THIẾU
BẢO, TUỚC YÊN QUẬN CÔNG (53):
Chỉ chức tước của Phạm Công Trứ. Ông có tước Quận công, hiệu là Yên, hàm Thái
bảo, là Thượng thư bộ Lễ, kiêm coi Đông Các Viện, lại được giao giữ chức Tham
tụng.
THANH ỨNG (47): Đây nói tạo
ra sự hỗ trợ khi cần thiết cho nhau.
THANH TƯƠNG (8): Tên đất ở
Quảng Bình.
THIÊM ĐÔ NGỰ SỬ (21): Tên
chức quan làm việc ở Ngự Sử Đài, dưới quyền của Đô ngự sử, chức này thường dùng
những người có hàm chánh Ngũ phẩm.
THỔ TI VÂN NAM (56): Chức
quan trông coi đất Vân Nam của Trung Quốc.
THUYỀN ĐỊCH CẦN (34): Thuyền
là đơn vị quân đội xưa, nếu đầy đủ thì mỗi thuyền có chừng 500 người. Địch Cần
là tên riêng của đơn vị quân đội (thuyền) này.
THỰ VỆ (6): Tên chức quan Vệ
là vệ quân (thường có quân số tương đương với một thuyền). Mỗi vệ có chức
Chưởng vệ (là chức đứng đầu) và chức Thự vệ (là chức phó, giúp việc cho Chưởng
vệ).
THƯỢNG PHỤ (3): Tiếng tôn
xưng, đây chỉ Trịnh Kiểm.
THƯỢNG SƯ TÂY VƯƠNG (53):
Tước và hiệu Trịnh Tạc tự phong cho mình vào tháng 9 năm 1659.
THƯỢNG TƯỚNG THÁI QUỐC CÔNG
(4): Chức Thượng tướng, tước Quốc công hiệu là Thái. Đây chỉ Trịnh Kiểm.
VẠN TƯỢNG (31): Tên tiểu
vương quốc. Lãnh thổ của vương quốc này nay thuộc Lào.
VĂN CHỨC (36): Tên chức quan,
chưa rõ cụ thể ra sao.
VĂN PHONG HẦU (4): Tước Hầu,
hiệu là Văn Phong
VỊ DƯƠNG HẦU (4): Tước Hầu,
hiệu là Vệ Dương.
VIỆC THỔ MỘC (38): Chỉ việc
xây cất.
VIÊN KÌ TRƯỞNG (34): Người
chịu trách nhiệm chính trong việc cầm cờ hiệu của quân đội xưa.
VƯƠNG MÃNG (31): Viên quyền
thần dưới thời Ai Đế nhà Tây Hán. Năm 8, Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán, lập
ra nhà Tân. Nhà Tân tồn tại từ năm 8 đến năm 25.
XỨ ĐÀNG TRONG (24): vùng đất
do chúa Nguyễn cai quản, gồm từ sông Gianh trở vào.
Thực hiện
bởi
nhóm Biên
tập viên Gác Sách:
Sienna
– Pô Pô – H.y
(Tìm - Chỉnh
sửa - Đăng)