Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển III - Chương 047 - 048

47. Chúc Thành

Trong hồ
Động Đình (tỉnh Hồ Nam) thường có việc thủy thần mượn thuyền, thuyền mà trống
thì dây buộc chợt tự tháo ra, lững lờ trôi đi. Chỉ nghe trên không trung có
tiếng đàn sáo trỗi lên, những người chèo thuyền quỳ mọp trong một góc không dám
ngẩng nhìn, để mặc thuyền tự trôi, xong lại dạt vào chỗ cũ.

Có Liễu
sinh thi rớt về say nằm trên thuyền, chợt có tiếng nhạc nổi lên, những người
chèo thuyền lay gọi vẫn không tỉnh, vội ra cả đầu thuyền chui xuống dưới sạp.
Chợt có người đẩy sinh, sinh say quá, theo tay lăn xuống dưới sàn, vẫn ngủ như
cũ, họ bèn để cho nằm đó. Giây lát đàn trống om sòm, sinh hơi tỉnh, ngửi thấy
mùi lan xạ thơm phức, hé mắt ra nhìn thấy trên thuyền đều là mỹ nhân, biết là
có việc lạ bèn giả như vẫn còn ngủ. Kế nghe truyền gọi Chúc Thành, lập tức có
người thị tỳ tới, đứng cạnh đầu sinh, thấy quần xanh dệt sa tía, hài nhỏ như
ngón tay, trong lòng rất thích, ngầm cắn vào gấu quần. Lát sau thị tỳ bước đi
bị giằng ngã xuống, người ngồi trên hỏi, bèn thưa lý do. Người ngồi trên tức
giận sai đem sinh ra giết, lập tức có võ sĩ bước vào trói sinh lôi dậy. Sinh
thấy một người ngồi ngoảnh mặt về phía nam, áo mão như bậc vương giả, lúc đi ra
bèn nói: “Nghe nói Long quân hồ Động Đình họ Liễu, thần cũng họ Liễu, ngày xưa
người thi rớt, nay thần cũng thi rớt, người được gặp tiên nữ mà thành tiên,
thần say đùa cô hầu mà bị giết, sao mà may rủi khác nhau tới như thế?”

Vương
nghe thấy gọi quay lại hỏi: “Ngươi là học trò thi rớt à?” Sinh vâng dạ. Bèn đưa
giấy bút, bảo sinh làm bài phú Tóc chải gió đầu gội mưa[1]. Sinh vốn là danh sĩ đất
Tương Dương (tỉnh Hồ Bắc) nhưng lập tứ rất chậm, cầm bút hồi lâu chưa viết.
Vương nói mỉa: “Danh sĩ gì hạng ngươi?” Sinh gác bút thưa: “Người xưa viết bài
phú Tam đô[2] mười
năm mới xong, xem đó đủ biết làm văn quý hay chứ không quý mau,” Vương cười
ngồi chờ. Từ giờ Thìn đến giờ Ngọ sinh mới làm xong, Vương xem vui vẻ nói: “Đúng
là bậc danh sĩ,” bèn thưởng rượu.

[1] Tóc chải gió đầu gội mưa nguyên văn là
“Phong hoàn vụ mấn” (Tóc chải gió đầu gội mù), chúng tôi tạm đính là “vũ” (mưa)
cho thống nhất với câu trong phụ lục kèm theo.

[2] Bài phú Tam đô: tức bài Tam đô phú của
Tả Tư thời Tấn, tương truyền viết mười năm mới xong, khi truyền tới kinh đô
người ta đua nhau sao chép, giá giấy vì vậy tăng vọt. Đây ý nói văn chương hay.

Trong
phút chốc, những thức ăn ngon bày lên la liệt. Đang lúc chuyện trò, một viên
lại ôm sổ vào thưa: “Danh sách những người chết đuối đã soạn xong.” Vương hỏi:
“Cả thảy là bao nhiêu người?” Thưa: “Một trăm hai mươi tám người.” Hỏi: “Công
sai là ai?” Thưa: “Hai viên úy ở Trạch Nam.” Sinh đứng dậy bái từ, Vương tặng
mười cân vàng, lại cho một viên ngọc pha lê chặn giấy, nói: “Trong hồ sắp có
kiếp nạn nhỏ, cầm cái này có thể thoát chết.” Chợt thấy người ngựa mang cờ quạt
chia đứng trên mặt nước, Vương xuống thuyền lên kiệu, chớp mắt đã không thấy
đâu nữa.

Yên ắng
hồi lâu, những người chèo thuyền mới từ dưới sạp chui lên, chèo thuyền lên phía
bắc, bị gió ngược không đi được. Chợt thấy dưới nước nổi lên một con mèo bằng
sắt, bọn chèo thuyền hoảng sợ nói: “Mao tướng quân[3] xuất hiện rồi,” khách buôn trên các thuyền đều nằm rạp
cả xuống. Phút chốc trên hồ lại nhô lên một cây gỗ dựng thẳng, lắc lư lay động,
mọi người càng sợ, nói: “Nam tướng quân[4] cũng xuất hiện rồi.” Liền đó sóng lớn nổi lên ầm ầm che
khuất cả mặt trời, nhìn ra thuyền bốn phía trên hồ đều nhất loạt chìm hết. Sinh
giơ viên ngọc chặn giấy ngồi im trong thuyền, sóng lớn muôn trượng đổ tới gần
đều chợt tan hết, nhờ vậy được sống sót.

[3, 4] Miêu tướng quân, Nam tướng quân:
tên thủy quái ở hồ Động Đình theo truyền thuyết.

Sinh về
tới nhà, mỗi lần kể chuyện lạ cho mọi người nghe đều nói: “Cô gái hầu trong
thuyền tuy không nhìn rõ được dung mạo, song chỉ đôi hài cũng đã không tìm được
ở cõi trần.” Sau có việc tới Vũ Xương (tỉnh thành Hồ Bắc) có bà già họ Thôi gả
con gái, sính lễ ngàn vàng cũng không chịu, chỉ cầm một viên ngọc pha lê chặn
giấy nói: “Ai có một cái như thế này ghép thành đôi sẽ gả cho.” Sinh lấy làm
lạ, mang cái chặn giấy tới, bà già hớn hở đón tiếp, gọi cô gái ra chào, thấy
trạc mười lăm mười sáu tuổi trở lại, phong vận yêu kiều không ai sánh được, lạy
một lạy rồi quay người trở vào sau màn.

Sinh vừa
thấy mặt nàng, tâm thần rúng động nói: “Tiểu sinh cũng có giữ một viên ngọc
chặn giấy, không rõ có sánh được với viên của lão bà không?” Kế cùng đem ra so,
thì dài ngắn kiểu dáng giống hệt nhau không sai một mảy. Bà già mừng rỡ, hỏi
nơi sinh ngụ, bảo sinh lập tức trở về mang xe kiệu lại đón, để viên ngọc lại
làm tin. Sinh không chịu, bà già cười nói: “Quan nhân đừng cẩn thận quá như thế,
chẳng lẽ lão thân lại mang một viên ngọc chặn giấy trốn đi sao?” Sinh bất đắc
dĩ phải để lại, trở về thuê xe kiệu quay lại ngay, thì bà già đã đi mất. Hoảng
hốt hỏi khắp cả những nhà lân cận, thì không ai biết cả.

Mãi tới
xề chiều mới buồn bã hối tiếc, thẫn thờ ra về. Giữa đường gặp một chiếc xe vượt
lên, chợt có người vén rèm hỏi: “Liễu lang sao chậm thế?” Nhìn ra thì là bà già
họ Thôi. Sinh mừng hỏi: “Lão bà đi đâu?” Bà già cười nói: “Chắc đã ngờ rằng lão
thân lừa dối trốn đi rồi phải không? Sau khi chia tay, nhân cũng có xe, chợt
nghĩ quan nhân đang ở trọ, khó lòng xếp đặt đầy đủ, nên đã đưa con gái lên
thuyền rồi.” Sinh gọi dừng lại, bà già không chịu, sinh hoảng hốt không dám
tin, vội chạy tới thuyền, quả thấy cô gái và một tỳ nữ.

Cô gái
thấy sinh vào, cười nói ra đón tiếp, sinh thấy quần xanh hài đỏ giống hệt như
thị tỳ trên thuyền ngày nào, lấy làm lạ lùng, bồi hồi nhìn chằm chằm. Cô gái
cười nói: “Mắt cứ trừng trừng, chẳng lẽ chưa nhìn thấy nhau lần nào sao?” Sinh
lại bò xuống nhìn, thì vết răng cắn vào gấu quần vẫn còn đó, cả kinh nói: “Nàng
là Chúc Thành sao?” Cô gái che miệng khẽ cười. Sinh vái dài nói: “Nàng đúng là
người thần rồi, xin nói rõ mọi chuyện ra cho ta khỏi lo sợ.” Cô gái nói: “Nói
thật với chàng, người chàng gặp trên thuyền lúc trước là Long quân hồ Động
Đình. Thấy chàng tài cao đem lòng ngưỡng mộ, đã muốn đem thiếp tặng cho chàng, nhưng
vì thiếp được vương phi yêu mến nên còn phải về bàn lại với phi. Thiếp tới đây
là theo lệnh của vương phi đấy.” Sinh mừng rỡ, rửa tay thắp hương, hướng về
phía Hồ Nam vái tạ rồi đưa nàng về. Sau sinh tới Vũ Xương, cô gái xin đi cùng,
nhân tiện quy ninh[5].

[5] Quy ninh: ngày xưa con gái lấy chồng,
lâu lâu về thăm cha mẹ ruột gọi là “quy ninh” (về thăm để cha mẹ yên lòng). Chúc
Thành không phải là con của vợ chồng Long quân Động Đình, nhưng đối với Liễu
sinh thì họ là bên nhà gái, nên Chúc Thành về thăm họ cũng như là quy ninh.

Khi tới
Động Đình, nàng rút chiếc thoa ném xuống nước, chợt có một chiếc thuyền nhỏ
dưới nước nhô lên, nàng nhún chân nhảy qua như chim bay lượn đáp xuống, trong
chớp mắt đã biến mất. Sinh đang ngồi trên đầu thuyền nhìn chăm chăm vào chỗ
chiếc thuyền nhỏ biến mất thì có một chiếc lâu thuyền từ xa lướt tới, gần tới
thì cửa sổ mở ra, chợt như có một con chim ngũ sắc bay qua, nhìn lại thì Chúc
Thành đã đứng trước mặt. Một người trong cửa sổ lâu thuyền đưa qua vàng lụa bảo
vật rất nhiều, đều là của vương phi ban cho. Từ đó thành lệ, cứ mỗi năm về thăm
viếng đôi lần, nhà sinh vì vậy giàu có, có nhiều bảo vật đưa ra cho xem thì
ngay các nhà thế gia cũng không biết là gì.

Phụ:
Truyện Long Nữ của Lý Thành Uy thời Đường
[6]

[6] Đường Lý Thành Uy Long Nữ truyện.

Liễu Nghị
thi rớt, trên đường về đi ngang bờ hồ, thấy một thiếu phụ chăn dê bên đường.
Nghị hỏi, thiếu phụ đáp: “Thiếp là con gái của Long quân hồ Động Đình, được gả
cho con trai thứ của Long quân hồ Kinh Dương, nhưng bị chồng ghét bỏ, lại phạm
tội với cha mẹ chồng, nên bị đày ải tới nỗi này. Nghe nói chàng về đất Ngô, xin
chuyển giùm một lá thư. Phía nam hồ Động Đình có một cây quýt lớn, vỗ vào thân
cây ba cái sẽ có người trả lời.”

Nghị tới
Động Đình, vỗ vào cây quýt ba cái, lập tức có người võ sĩ từ dưới sóng nhảy lên
vái lạy hỏi: “Quý khách có việc gì tới đây?” Nghị nói: “Xin yết kiến đại vương.”
Người võ sĩ rẽ nước dẫn đường, dần vào tới thủy cung, nói: “Đây là điện Linh Hư,”
kế thấy một người mặc áo tía cầm ngọc xanh bèn nói: “Đây là Long quân.” Nghị thưa:
“Gặp ái nữ của đại vương chăn dê ngoài đồng, tóc chải gió đầu gội mưa, thật
không nỡ nhìn,” rồi lấy thư dâng lên. Long quân hồ Động Đình xem xong ôm mặt
khóc, sai đưa thư vào trong cung, tả hữu đều sa nước mắt.

Long quân
nói với tả hữu rằng: “Không được để cho Long quân sông Tiền Đường biết.” Nghị hỏi:
“Long quân sông Tiền Đường là ai?” Long quân nói: “Là em ruột của quả nhân.”
Chợt nghe thấy tiếng cười nói râm ran, trong có một người đeo đầy châu ngọc
khua vang, quần áo lụa là tha thướt bước tới, nhìn ra thì là người thiếu phụ
nhờ Nghị đưa thư. Long quân cười nói: “Đứa tù nhân ở sông Kinh về đây rồi,” bèn
cho Nghị nghỉ lại ở điện Ngưng Quang. Hôm sau mở tiệc lớn ở điện Ngưng Bích,
hội cả bạn bè thân thích, tấu nhạc rộn rã. Bắt đầu thì còi trống thanh la, gươm
giáo cờ xí, hàng vạn người đàn ông múa bên phải, trong có một người bước ra nói:
“Đây là bài nhạc Tiền Đường phá trận.” Kế đó tơ trúc đàn sáo, cờ
lọng gấm vóc, hàng ngàn người con gái múa bên trái, trong có một người bước ra nói:
“Đây là khúc nhạc Công chúa về cung.” Nghị bèn cùng về hồ Động
Đình, không rõ tung tích ra sao.

48. Trúc Thanh

Ngư Dung
người Hồ Nam, người kể chuyện quên mất quận huyện. Nhà nghèo đi thi bị trượt
trở về, dọc đường hết sạch tiền nhưng xấu hổ không dám ăn xin, đói quá vào tạm
nghỉ trong miếu Ngô Vương[1],
bi phẫn khấn vái trước án thờ rồi ra nằm ở hành lang. Chợt có một người dẫn đi
yết kiến Ngô Vương, quỳ xuống tâu: “Đội Hắc y còn thiếu một lính, xin lấy người
này sung vào,” Ngô Vương ưng thuận, Ngư liền được trao cho chiếc áo đen, vừa
mặc vào thì biến thành quạ vỗ cánh bay ra. Thấy các bạn quạ họp thành bầy bèn
bay theo chia nhau đậu trên cột buồm. Khách trên thuyền tranh nhau ném thịt cho
ăn, đàn quạ lượn lờ trên không đón lấy. Sinh cũng bắt chước, giây lát no bụng,
bay đậu lên cành cây, cũng rất mãn nguyện. Qua hai ba ngày, Ngô Vương thương
còn lẻ loi ghép cho một con mái tên Trúc Thanh, rất thương yêu nhau.

[1] Ngô Vương: Tức Cam Ninh, đại tướng
Đông Ngô thời Tam quốc, trong trận Hào Đình bị tướng Tây Thục là Sa Ma Kha bắn
trúng gáy đeo cả tên mà chạy rồi chết dưới một gốc cây to ven sông, có đàn quạ
mấy trăm con sà xuống che kín xác. Duẫn lang ngẫu bút của Mục Trọng thời Tống
chép Cam Ninh được dân trấn Phú Trì ở Sở Giang lập miếu thờ, linh hiển phi
thường, đến thời Tống được phong tước vương, cạnh miếu luôn có vài trăm con quạ
tụ họp, người ta gọi là “Quạ thần của Ngô Vương” (Ngô Vương thần nha).

Ngư mỗi
khi đi kiếm mồi không hề đề phòng, Thanh nhiều lần khuyên nhưng Ngư không nghe.
Một hôm bị người lính đi thuyền qua bắn trúng bụng, may được Trúc Thanh quắp
mang đi mới không bị bắt. Bầy quạ nổi giận vỗ cánh quạt nước, sóng nổi cuồn
cuộn lật úp hết thuyền bè. Trúc Thanh tha mồi mớm cho Ngư nhưng Ngư bị thương
nặng quá, một ngày thì chết, chợt như tỉnh mộng thì ra đang nằm trong miếu.
Nguyên là trước đó dân chung quanh thấy Ngư chết, không biết là ai, sờ vào
người thấy còn ấm nên cứ lâu lâu lại tới xem. Đến lúc ấy họ hỏi biết duyên do,
liền góp tiền giúp cho về quê.

Ba năm
sau Ngư lại qua chốn cũ liền vào bái yết miếu Ngô Vương, bày thức ăn gọi bầy
quạ xuống ăn, khấn: “Trúc Thanh như có ở đây, xin ở lại gặp,” nhưng bầy quạ ăn
xong đều bay đi hết. Sau Ngư đỗ Cử nhân về qua lại vào bái yết miếu Ngô Vương,
dâng cỗ cúng tế. Kế bày cỗ lớn mời hết các bạn quạ, lại khấn như trước. Đêm ấy
ghé vào nghỉ ở Hồ Thôn, đốt đèn ngồi chơi chợt thấy trước bàn như có con chim
đáp xuống, thì ra là một mỹ nhân khoảng hai mươi tuổi. Nàng tươi cười hỏi: “Từ
khi chia tay chàng vẫn khỏe chứ?” Ngư kinh ngạc hỏi, nàng đáp: “Chàng không
nhận ra Trúc Thanh à?” Ngư mừng rỡ hỏi từ đâu tới, nàng đáp: “Thiếp nay là thần
nữ Hán Giang, ít có dịp về cố hương. Trước đây bạn quạ hai lần kể lại tình
chàng nên tới gặp nhau một lần.” Ngư càng bồi hồi cảm động, hai người như vợ
chồng xa cách lâu ngày, rất mực nồng nàn.

Sinh định
đưa nàng về nam, nàng lại muốn sinh theo về tây, không quyết được bề nào. Sinh
thức giấc thì nàng đã dậy rồi, mở mắt thấy mình đang trong một ngôi nhà lớn,
đèn đuốc sáng choang chứ không phải trong thuyền nữa. Sinh kinh ngạc trở dậy
hỏi đây là nơi nào, nàng cười đáp: “Đây là Hán Dương (huyện thuộc Hồ Bắc). Nhà
thiếp tức là nhà chàng, cần gì phải về nam?” Trời dần sáng, đám tỳ nữ vú già
nhao nhao kéo tới, rượu thịt đã bày, kê giường rộng, đặt ghế thấp, vợ chồng
cùng nhau ăn uống. Ngư hỏi đầy tớ của mình đang ở đâu, nàng đáp: “Ở trên thuyền.”
Ngư lo nhà thuyền không thể chờ lâu, nàng nói: “Không sao, thiếp sẽ báo giúp
cho.” Từ đó ngày đêm vui thú, Ngư vui quên cả chuyện về.

Nhà
thuyền thức dậy chợt thấy đang ở Hán Dương sợ lắm. Người hầu của Ngư đi tìm chủ
khắp nơi không thấy, nhà thuyền muốn đi thì chèo lái bị cột chặt không cởi ra
được, đành cùng ở lại giữ thuyền. Được hơn hai tháng, sinh chợt nhớ quê, nói
với cô gái: “Ta ở đây tuyệt đường thân thích, vả lại ta với nàng tiếng là vợ
chồng mà chưa một lần biết tới nhà cửa họ hàng thì làm sao được?” Nàng đáp: “Chưa
nói tới chuyện thiếp không đi được, nếu đi được thì ở nhà chàng đã có vợ, vậy
sẽ xử với thiếp ra sao? Chi bằng cứ để thiếp ở đây làm một phòng khác của chàng
là được rồi.”

Sinh buồn
nỗi đường xa không thể tới thường, cô gái đưa chiếc áo đen ra, nói: “Áo cũ của
chàng còn đây, lúc nào nhớ thiếp cứ mặc vào thì có thể tới ngay, tới rồi thiếp
sẽ cởi ra cho.” Rồi sai bày tiệc lớn đưa tiễn, sinh say rồi ngủ, khi tỉnh dậy
thì thấy mình trong thuyền, nhìn ra thì vẫn là cảnh vật chỗ ghé thuyền ở hồ
Động Đình cũ. Nhà thuyền và đầy tớ đều có đó, nhìn nhau kinh sợ xúm lại hỏi đi
đâu. Sinh làm ra vẻ bàng hoàng sợ hãi, thấy bên gối có cái bọc, mở ra xem thì
là áo mới, giày thêu của cô gái tặng, chiếc áo đen cũng xếp để trong đó. Lại có
cái túi thêu buộc dây thắt ngang, mở ra thì thấy đầy tiền bạc. Rồi đó đi thẳng
về nam, khi cập bến Ngư trả công hậu cho nhà thuyền rồi về.

Về nhà
được mấy tháng sinh nhớ Hán Thủy, liền ngầm lấy chiếc áo đen ra mặc, hai tay
mọc ra đôi cánh bay vút lên không, qua hai giờ đã tới Hán Thủy. Bay vòng nhìn
xuống thấy giữa đảo nhỏ có một dãy lầu gác bèn đáp xuống. Đã có một tỳ nữ nhìn
thấy từ xa gọi lớn: “Quan nhân tới.” Không bao lâu Trúc Thanh ra, sai mọi người
cởi áo cho, sinh thấy lông cánh đều trút xuống hết. Nàng cầm tay sinh đi vào
nhà, nói: “Chàng tới vừa hay, chỉ nay mai là thiếp sinh nở.” Sinh đùa hỏi: “Sinh
con hay đẻ trứng?” nàng đáp: “Thiếp nay là thần, xương cốt đều thay đổi, chắc
phải khác trước chứ.”

Vài hôm
sau quả nàng lâm bồn, bọc thai to dày nhìn như quả trứng lớn, xé vỏ ra thì là
con trai. Sinh mừng rỡ đặt tên là Hán Sản. Sau ba ngày các thần nữ ở Hán Thủy
đều tới, đem đủ quần áo đồ chơi quý lạ chúc mừng, người nào cũng xinh đẹp, tuổi
đều không quá ba mươi. Họ vào phòng tới bên giường lấy ngón tay cái ấn lên mũi
đứa nhỏ, gọi là “Tăng thọ”. Họ về rồi, sinh hỏi là ai, cô gái đáp: “Đều là bạn
thiếp, nàng mặc áo trắng đi cuối cùng chính là người cởi ngọc ở Hán Cao[2] đấy.”

[2] Người cởi ngọc ở Hán Cao: Liệt tiên
truyện chép Trịnh Giao Phủ đi chơi Hán Giang, tới dưới đài Hán Cao gặp hai cô
gái đeo hai viên ngọc to bằng quả trứng gà, Giao Phủ tới chuyện trò rồi xin
ngọc, hai nàng bèn cởi ra cho. Giao Phủ chào đi, lại muốn được cả hai nàng,
ngoảnh nhìn thì không thấy đâu nữa mà ngọc cũng biến mất.

Được vài
tháng, nàng cho thuyền đưa sinh về, thuyền không cần dùng cánh buồm mái chèo mà
cứ tự lướt đi. Tới bờ đã có người dắt ngựa chờ bên đường, sinh liền cưỡi về, từ
đó qua lại không dứt. Được vài năm, Hán Sản càng khôi ngô, sinh yêu quý lắm. Vợ
sinh họ Hòa khổ vì không sinh nở được, cứ đòi gặp Hán Sản một lần. Sinh nói với
cô gái, nàng liền sắp sửa hành trang cho con theo cha về, hẹn ba tháng phải
quay lại. Về tới nhà, Hòa thị yêu quý Hán Sản còn quá con đẻ, giữ lại hơn mười
tháng không nỡ cho về. Một hôm đứa nhỏ phát bệnh mà chết, Hòa thị đau xót muốn
chết. Sinh bèn đi Hán Thủy báo cho cô gái, vào cửa thì thấy Hán Sản cởi truồng
nằm trên giường, mừng quá vội hỏi. Cô gái đáp: “Chàng lỡ hẹn lâu quá, thiếp nhớ
con nên gọi nó về.” Sinh nhân giải thích vì Hòa thị quá mến con, nàng nói: “Chờ
thiếp sinh lần nữa sẽ cho Hán Sản về hẳn bên đó.”

Hơn năm
sau nàng đẻ sinh đôi, một trai một gái. Trai đặt tên là Hán Sinh, gái đặt tên
là Ngọc Bội, sinh bèn đưa Hán Sản về. Nhưng mỗi năm ba bốn lần đi lại không
tiện, nên sinh dời nhà tới ở Hán Dương. Năm Hán Sản mười hai tuổi vào học ở
trường quận. Cô gái cho là ở trần gian không có người đẹp, gọi con tới Hán Thủy
cưới vợ cho rồi bảo về. Vợ tên Hỗ Nương, cũng là con gái thần nữ. Sau Hòa thị
mất, Hán Sinh và em gái đều tới chịu tang. Chôn cất xong, Hán Sản ở lại còn
sinh dắt Hán Sinh và Ngọc Bội đi, từ đó không trở về nữa.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3