Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển III - Chương 040

Quyển III

40. Hồng Ngọc

Ông Phùng
người huyện Quảng Bình (tỉnh Hà Bắc) có một con trai tên Tương Như, cha con
cùng là Chư sinh. Ông Phùng tuổi gần sáu mươi, tính cứng cỏi mà vẫn nghèo.
Trong khoảng vài năm, vợ và con dâu nối nhau chết, việc cơm nước giặt giũ đều
phải tự làm lấy.

Một đêm
Tương Như ngồi dưới trăng, chợt thấy người con gái láng giềng phía đông leo lên
tường nhìn trộm. Sinh thấy nàng đẹp, tới gần thấy hơi cười bèn vẫy, nàng không
tới cũng không đi, nài mãi mới trèo thang qua, liền ngủ với nhau. Hỏi tên họ,
nàng nói: “Thiếp là con gái nhà láng giềng, tên Hồng Ngọc.” Sinh rất yêu
thương, hẹn cùng kết duyên mãi mãi. Nàng ưng thuận, từ dó đêm đêm thường tới.
Được nửa năm, một đêm ông Phùng tỉnh giấc nghe trong phòng con có tiếng cười
nói, nhìn vào thấy cô gái nổi giận gọi sinh ra mắng: “Quân súc sinh làm gì thế?
Nghèo túng thế này đã không chịu khổ lại còn học thói đàng điếm à? Người ta
biết thì ngươi mất hết danh dự, người ta không biết thì ngươi cũng giảm thọ.”
Sinh quỳ xuống nhận lỗi, khóc nói đã hối hận. Ông Phùng mắng cô gái: “Con gái
không giữ lễ giáo, đã làm nhuốc mình lại làm nhơ cả người khác. Nếu việc lộ ra
thì không chỉ một nhà này chịu nhục thôi đâu,” mắng xong căm tức quay vào
phòng.

Cô gái
chảy nước mắt nói: “Lời cha quở trách thật là thẹn nhục, duyên phận hai ta thế
là hết rồi.” Sinh nói: “Cha còn thì không được tự chuyên, nếu nàng có tình thì
nên ngậm tủi thương nhau.” Cô gái quyết ý đoạn tuyệt, sinh rơi nước mắt, nàng
khuyên giải, nói: “Thiếp với chàng không có lời mai mối, không có lệnh cha mẹ,
trèo tường theo nhau thì làm sao sống với nhau tới lúc bạc đầu được? Vùng này
có một đám tốt, có thể hỏi cưới.” Sinh nói nhà nghèo, cô gái nói: “Tối mai cứ
đợi nhau, thiếp sẽ tính cho.” Đêm sau quả nhiên nàng tới, đưa ra bốn mươi lượng
bạc tặng sinh, nói: “Cách đây sáu mươi dặm có con gái họ Vệ ở Ngô thôn đã mười
tám tuổi, còn kén chọn nên chưa lấy ai, chàng đưa nhiều tiền thì xong,” rồi từ
biệt ra đi.

Sinh tìm
dịp thưa với cha muốn đi xem mặt, nhưng giấu chuyện cô gái tặng tiền, không dám
nói cho cha biết. Ông Phùng nghĩ nhà nghèo nên bảo thôi, sinh lại nói khéo là
cứ đi thử xem, không được thì thôi, ông bèn ưng thuận. Sinh bèn thuê đầy tớ và
ngựa tới nhà họ Vệ. Vệ vốn là người làm ruộng, sinh gọi ra nói chuyện. Vệ biết
sinh là nhà dòng dõi, lại thấy dáng người khôi ngô, trong lòng đã ưng nhưng còn
lo không được nhiều tiền. Sinh thấy nói năng ngập ngừng biết ý, bèn dốc túi bày
tiền ra bàn. Vệ mừng rỡ, nhờ người học trò láng giềng làm chứng, viết giấy đỏ
giao ước.

Sinh vào
chào bà già, thấy nhà cửa chật hẹp, cô gái đứng núp sau mẹ. Sinh liếc thấy nàng
tuy áo vải thoa gai nhưng thần thái xinh đẹp, trong bụng mừng thầm. Vệ thuê nhà
tiếp đãi con rể, nói: “Công tử không cần đón dâu, đợi may ít quần áo sẽ đưa qua
nhà.” Sinh hẹn ngày rồi về, nói dối với cha rằng: “Họ Vệ mến nhà ta dòng dõi
thanh bạch nên không đòi tiền,” ông Phùng cũng mừng. Đến ngày hẹn, Vệ quả đưa
con gái tới. Cô gái tính cần kiệm lại hiền thục, vợ chồng rất êm ấm. Hơn hai
năm nàng sinh một trai, đặt tên là Phúc Nhi.

Nhân tiết
Thanh Minh nàng bế con đi tảo mộ, gặp họ Tống là thân hào trong huyện. Tống làm
quan tới chúc Ngự sử, phạm tội ăn hối lộ bị cách chức về nhưng vẫn cậy oai lộng
hành. Hôm ấy Tống cũng đi tảo mộ về, thấy cô gái đẹp, hỏi người trong thôn biết
là vợ sinh, nghĩ Phùng là học trò nghèo, lấy nhiều tiền dụ dỗ có thể xiêu lòng,
liền sai người nhà bắn tin. Sinh vừa nghe thấy tức giận ra mặt, kế lại nghĩ thế
không địch nổi bèn nén giận tươi cười rồi về nói với cha. Ông Phùng cả giận
chạy ra gặp tên người nhà của Tống chỉ trời vạch đất chửi mắng thậm tệ. Tên
người nhà trốn về, Tống cũng tức giận, sai mấy người xông vào nhà sinh đánh
nhau, hai cha con sinh chửi ầm lên. Cô gái nghe thấy, bỏ con xuống giường, xõa
tóc chạy ra kêu cứu, bọn kia liền bắt lấy khiêng lên rầm rộ bỏ đi. Cha con bị
thương nằm rên rỉ dưới đất, đứa nhỏ thì khóc oa oa trong phòng. Láng giềng cùng
thương xót vực cha con lên giường, qua hôm sau sinh chống gậy đứng lên được,
ông Phùng thì tức giận bỏ ăn, thổ huyết mà chết.

Sinh khóc
lớn, bế con đi kiện lên tới tỉnh, kiện tụng khắp nơi rốt lại vẫn không được
xét. Sau nghe nói vợ không chịu khuất mà chết lại càng đau xót, căm giận đầy
bụng không làm sao phát tiết. Thường nghĩ muốn đón đường đâm chết Tống, nhưng
lo đầy tớ y đông, con lại không gửi ai được, ngày đêm đau xót nghĩ ngợi không
hề chợp mắt. Chợt một người đàn ông tới nhà thăm hỏi, râu quăn cằm bạnh, chưa
từng gặp qua. Sinh mời ngồi, vừa định hỏi họ tên quê quán, khách đã nói ngay: “Ông
có cái thù giết cha, mối hận cướp vợ mà không báo à?” Sinh ngờ là người của
Tống sai tới dò xét nên chỉ giả vâng dạ. Khách nổi giận trợn mắt muốn rách
khóe, bước ngay ra, nói: “Ta cho rằng ông là người, nay mới biết là đồ hèn
không đáng đếm xỉa.” Sinh thấy lạ liền quỳ xuống kéo lại nói: “Thật là sợ người
nhà họ Tống tới dò la, nay xin bày tỏ gan ruột. Ta ôm lòng báo thù lâu rồi,
nhưng thương đứa nhỏ trong bọc này, sợ bị tuyệt tự. Ông là bậc nghĩa sĩ, có thể
vì ta mà làm Chử Cữu[1]
không?”

[1] Chử Cữu: Sử ký, Triệu thế gia chép
Triệu Sóc nước Tấn thời Xuân thu lấy vợ là chị Tấn Thành công. Gian thần là Đồ
Ngạn Giả hại chết Triệu Sóc, lúc ấy vợ Sóc đang mang thai, Giả chờ nếu sinh con
trai sẽ giết. Sau phu nhân sinh con trai, môn khách của Sóc là Trình Anh và
Công Tôn Chử Cữu bày mưu đưa được ra khỏi cung nhưng bị Ngạn Giả nghi ngờ, dò
xét truy tìm rất gấp. Lúc ấy Trình Anh cũng vừa sinh con trai bèn tráo vào thay
con Sóc rồi cho Chử Cữu đi tố giác. Ngạn Giả đem quân bắt được Anh, thấy con
trai Anh quấn tã lót sang trọng bèn giết chết. Chử Cữu xin Ngạn Giả cho mang “con
Anh” đi ở ẩn sau nuôi con Sóc lớn lên, trả thù được cho họ Triệu.

Khách nói:
“Đó là việc của đàn bà con gái, ta không làm được. Việc ông muốn nhờ người xin
tự làm lấy, còn việc ông muốn tự làm thì ta xin làm thay cho.” Sinh nghe nói
dập đầu lạy, khách bỏ ra không thèm nhìn. Sinh đuổi theo hỏi họ tên, khách đáp:
“Việc không xong không nhận oán, việc xong không nhận ơn,” rồi đi. Sinh sợ tai
vạ tới, bế con bỏ trốn.

Đến đêm,
cả nhà họ Tống đang ngủ, có người vượt qua mấy lần tường vào giết ba cha con
Ngự sử và một tỳ nữ, một con dâu. Nhà họ Tống làm báo quan, quan cả sợ. Nhà họ
Tống cứ vu cho Tương Như nên quan sai lính bắt sinh, vì sinh trốn không biết đi
đâu nên càng tin là thật. Đầy tớ nhà họ Tống cùng lính quan đi lùng khắp nơi,
đêm đến núi Nam nghe tiếng trẻ khóc, tìm tới nơi gặp sinh bèn trói giải về. Đứa
nhỏ càng khóc dữ, chúng liền giật lấy vứt đi, sinh căm hờn muốn chết.

Khi gặp
quan huyện, quan hỏi vì sao giết người, sinh nói: “Thật oan quá! Họ chết ban
đêm mà ta ra đi từ ban ngày, vả lại bế đứa nhỏ khóc oa oa thì làm sao vượt
tường giết người?” Quan huyện hỏi: “Không giết người tại sao bỏ trốn?” Sinh
nghẹn lời không đáp được, quan liền sai giam vào ngục. Sinh khóc nói: “Ta chết
cũng không tiếc, nhưng đứa nhỏ mồ côi kia có tội gì?” Quan huyện nói: “Ngươi
giết con người ta đã nhiều, thì con ngươi bị giết còn oán gì?” Sinh bị lột áo
mũ nhà nho, lại nhiều lần bị tra tấn tàn khốc nhưng rốt lại không hề nhận tội.

Đêm ấy
quan huyện nằm ngủ nghe có vật gì đập vào giường rung lên thành tiếng, cả sợ
kêu lớn. Cả nhà giật mình thức dậy, xúm lại đốt đuốc soi, thấy một lưỡi đoản
đao sáng loáng cắm vào giường sâu hơn một tấc, chặt cứng không rút ra được.
Quan huyện nhìn thấy khiếp vía, cầm giáo đi lùng khắp nơi không thấy gì, trong
lòng lo thầm. Lại vì họ Tống đã chết không đáng sợ nữa, bèn trình lên quan tỉnh
giải oan cho sinh rồi tha về.

Sinh về
nhà, trong hủ không một đấu gạo, một mình với bốn bức vách, may được láng giềng
thương xót cho ăn uống, sống đỡ qua ngày. Nghĩ tới mối thù lớn đã trả thì tươi
cười vui vẻ nhưng nhớ lại tai họa thảm khốc suýt chết toàn gia thì buồn bã sa
lệ, lại nghĩ mình nửa đời nghèo thấu xương, không người nối dõi, thì khi vắng
người bật tiếng khóc thất thanh không sao kìm được. Cứ thế nửa năm, việc bắt bớ
lơi lỏng dần, bèn xin quan huyện cho mang hài cốt Vệ thị về. Chôn cất xong trở
về, đau đớn chỉ muốn chết, trằn trọc trên giường nghĩ không còn cách gì để
sống.

Bỗng có
người gõ cửa, sinh lắng tai nghe thấy ngoài cửa có tiếng một người đang nựng
nịu trẻ con. Sinh vội dậy ra nhìn thì như là một cô gái, cửa vừa mở đã hỏi: “Nỗi
oan lớn đã rửa, may không sao chứ?” giọng rất quen nhưng lúc vội vàng không sao
nhớ ra được. Đánh lửa soi thì ra là Hồng Ngọc, dắt một đứa nhỏ cười đùa dưới
chân. Sinh không kịp hỏi han, ôm nàng khóc nức nở, cô gái cũng buồn bã. Kế đẩy
đứa nhỏ nói: “Con quên cha rồi sao?” Đứa nhỏ nắm áo cô gái nhìn sinh chằm chằm,
sinh nhìn kỹ thì là Phúc Nhi, cả kinh khóc hỏi: “Sao con về đây được?” Cô gái nói:
“Nói thật với chàng, trước kia thiếp nói là con gái láng giềng là nói dối.
Thiếp thật là hồ, nhân đi đêm thấy con khóc trong hang liền bế về nuôi ở đất
Tần (tỉnh Thiểm Tây). Nghe nạn lớn đã yên nên đem con về cùng chàng đoàn tụ.” Sinh
lau nước mắt lạy tạ. Đứa nhỏ nép vào lòng cô gái như nương tựa mẹ ruột, không
nhận ra cha nữa.

Trời chưa
sáng, cô gái đã trở dậy, hỏi thì nàng đáp: “Nô tỳ muốn đi,” Sinh cởi trần quỳ ở
đầu giường khóc không ngẩng lên được. Cô gái cười nói: “Thiếp lừa chàng thôi.
Nay nhà đang gầy dựng, không thức khuya dậy sớm không được.” Rồi nhổ cỏ dọn
dẹp, làm lụng như đàn ông. Sinh lo nhà nghèo không đủ ăn, nàng nói: “Xin chàng
cứ buông rèm học hành, đừng hỏi chuyện thiếu đủ, may cũng không chết đói đâu.”
Rồi bỏ tiền ra sắm khung dệt, thuê vài mươi mẫu ruộng mướn người cày cấy, vác
bừa làm ruộng, kéo tranh lợp nhà, hàng ngày làm lụng.

Làng xóm
nghe sinh có vợ hiền càng vui lòng giúp đỡ, khoảng nửa năm trong nhà ăn uống
sung túc như nhà giàu. Sinh nói: “Sau lúc tro tàn, nhờ nàng một tay gầy dựng
lại, nhưng còn một việc chưa xong, biết làm sao?” Nàng hỏi việc gì, sinh đáp: “Kỳ
thi sắp tới mà khăn áo chưa lấy lại được.” Cô gái cười nói: “Trước đây thiếp đã
đem bốn lượng vàng gửi Học quan, ghi lại tên chàng vào sổ rồi, đợi tới chàng
nhắc thì trễ lắm,” sinh càng cho là thần. Khoa ấy sinh đỗ Cử nhân, năm ấy ba
mươi sáu tuổi, ruộng tốt liền bờ, nhà cửa cao rộng. Cô gái mảnh khảnh như gió
thổi là bay mà làm lụng còn hơn con nhà nông, mùa đông rét buốt vẫn làm việc mà
bàn tay vẫn mềm mại, tự nói ba mươi tám tuổi nhưng nhìn chỉ như hơn hai mươi.

Dị Sử thị nói: Con giỏi mà cha
có đức nên được báo đáp hào hiệp, mà chẳng riêng gì người hào hiệp, tự mình
cũng giống kẻ hào hiệp nên tao ngộ cũng lạ lùng. Nhưng quan huyện mù mờ khiến
người ta căm hờn, lưỡi đao sắc cắm vào giường, còn tiếc gì mà không phóng qua
cách đó nửa thước? Nếu Tô Tử Mỹ[2]
đọc truyện này ắt sẽ hào hùng nói: “Tiếc là đánh mà không trúng.”

[2] Thế thuyết bổ chép Tô Vũ Khâm người
thời Tống, tự Tử Mỹ, tính hay rượu, tới ở nhà cậu, cứ tối đến là xin một đấu
rượu. Cậu sai gia nhân rình xem, thấy Tử Mỹ đọc truyện Trương Lương trong Hán
thư, tới đoạn Trương Lương cùng người khách ám sát Tần Thủy Hoàng thì vỗ tay nói:
“Tiếc là đánh mà không trúng,” rồi uống cạn một chén lớn. Gia nhân về kể lại,
cậu nói: “Nếu thế thì uống một đấu rượu cũng không phải là nhiều.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3