Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển II - Chương 021 - 022 - 023

21. Người học trò Phượng Dương[1]

[1] Phượng Dương sĩ nhân.

Có một
người học trò ở huyện Phượng Dương (tỉnh An Huy) đi du học xa, hẹn vợ nửa năm
sẽ về nhưng hơn mười tháng vẫn tuyệt vô âm tín, vợ ở nhà mỏi mòn trông đợi. Một
đêm vừa mới đi nằm, thấy bóng trăng lay động trên tấm rèm che cửa sổ, càng thêm
nhớ nhung. Còn đang trằn trọc thì có một cô gái đẹp cài trâm ngọc quàng khăn
hồng vén rèm bước vào cười hỏi: “Bà chị muốn gặp lang quân không?” Người vợ vội
trở dậy vâng dạ.

Người đẹp
rủ cùng đi, nàng ngại đường xa hiểm trở, người đẹp khuyên đừng lo rồi nắm tay
đạp lên ánh trăng ra đi. Được khoảng một tầm tên, nàng thấy người đẹp đi rất
mau mà mình đi chậm liền gọi bảo đợi một lát để về mang giày. Người đẹp kéo
nàng ngồi xuống bên đường, cởi giày của mình đưa cho, nàng mừng rỡ mang vào,
may là vừa khít, liền đứng dậy đi theo, thấy bước đi mau như bay. Giây lát thấy
người học trò cưỡi ngựa trắng đi tới, nhìn thấy vợ ngạc nhiên vội xuống ngựa
hỏi đi đâu, nàng đáp: “Định đi thăm chàng.” Người học trò quay nhìn người đẹp
rồi hỏi là ai, nàng chưa kịp trả lời thì người đẹp che miệng cười nói: “Thôi
đừng hỏi nữa, nương tử bôn ba tới đây không phải dễ, chàng thì rong ruổi đến
nửa đêm, chắc người ngựa cũng đều mệt rồi. Nhà thiếp cách đây không xa, xin mời
vào tạm nghỉ ngơi, sáng mai đi cũng không muộn.” Hai người nhìn ra thấy gần đó
quả có làng xóm bèn cùng đi.

Vào một
ngôi nhà, người đẹp gọi tỳ nữ dậy lo cơm nước mời khách, nói: “Đêm nay trăng
sáng không cần thắp đèn, ngồi lên sập đá trong tiểu đình cũng được.” Người học
trò buộc ngựa vào cây ngô đồng rồi ngồi xuống, người đẹp nói: “Giày to không
vừa chân, trên đường chắc chị mệt lắm. Nhưng lúc về đã có con ngựa đỡ chân, cho
em xin lại.” Người vợ cảm ơn, cởi giày trả lại.

Lát sau,
rượu bánh bày ra, người đẹp nâng chén nói: “Loan phượng xa nhau lâu ngày, đêm nay
được sum họp, có chén rượu đục xin kính mừng!” Người học trò cũng nâng chén đáp
lễ, chủ khách cười nói vui vẻ, giày dép lẫn lộn dưới sập. Người học trò cứ đăm
đăm nhìn người đẹp, mấy lần buông lời đùa cợt, vợ chồng bao ngày mới gặp nhau
mà không trò chuyện một lời. Người đẹp cũng liếc mắt đưa tình, thả lời nũng
nịu, người vợ cứ ngồi im giả như ngu đần. Hồi lâu rượu càng ngấm, hai người trò
chuyện lại càng buông thả. Người đẹp lấy chén lớn mời khách, người học trò từ
chối là đã say nhưng nàng cứ ra sức nài ép. Người học trò cười nói: “Nàng hát
cho nghe một khúc, ta sẽ uống ngay.” Người đẹp không từ chối, lấy phím ngà gảy
đàn cầm hát rằng:

Hoàng
hôn ngả bóng màu son nhạt

Gió
lạnh ngoài song buốt thấu rèm

Lắng
tiếng mưa rơi trên lá chuối, biết nơi nào run rẩy cùng ai

Đợi
chờ mỏi mắt, chẳng thấy người về, nước mắt chảy dài

Nghĩ
lại nhớ chàng, nghĩ lại hận chàng

Cầm
chiếc giày thêu thử gieo quẻ bói.

Hát xong
cười nói: “Đây là khúc hát ở đầu đường xó chợ, không đáng làm bẩn tai chàng,
nhưng vì thiên hạ đang ưa chuộng nên thiếp cũng học đòi bắt chước thôi.” Giọng
nói uốn éo, bộ dạng lả lơi khiến người học trò điên đảo tâm thần, như không kìm
lòng được nữa. Lát sau người đẹp giả về ngủ đi ra, người học trò cũng đứng dậy
đi theo, hồi lâu không trở vào, đứa tỳ nữ mỏi mệt nằm gục xuống ngủ ở hành
lang. Người vợ ngồi trơ trọi một mình, trong lòng vừa buồn vừa giận không sao
chịu nổi, nghĩ muốn bỏ ra về nhưng đêm tối mù mịt, lại không nhớ đường đi, băn
khoăn không sao kìm lòng được bèn đứng lên ra xem. Vừa tới cạnh cửa sổ đã nghe
loáng thoáng tiếng mây mưa bên trong, lại lắng nghe thì ra những gì chồng vẫn
thường làm khi âu yếm với mình trong phòng đều giở ra hết. Người vợ lúc ấy tim
đập mạnh, tay run bắn, chết điếng cả người, nghĩ không bằng cứ ra cửa nhảy
xuống ngòi rãnh mà chết đi.

Vừa căm
hờn đi ra thì thấy em trai là Tam Lang cưỡi ngựa tới, xuống ngựa hỏi han. Nàng
kể lại mọi việc, Tam Lang cả giận lập tức cùng chị quay lại, vào thẳng trong
nhà thì cửa phòng đã cài then nhưng vẫn nghe thấy tiếng thì thào trên giường.
Tam Lang nhấc một hòn đá to bằng cái đấu ném mạnh vào cửa sổ làm gãy luôn mấy
cái chấn song, nghe bên trong có tiếng kêu lớn: “Lang quân vỡ sọ rồi, làm sao?”
Nàng nghe thấy kinh hoàng khóc lớn, nói với em: “Ta đâu có bảo ngươi giết y,
làm thế nào bây giờ.” Tam Lang trợn mắt nói: “Chị vừa khóc lóc kéo ta vào, bây
giờ hả giận rồi thì lại vì chồng mà oán anh em. Ta không quen chịu sai phái như
bọn tôi tớ đâu, rồi quay người bỏ ra. Nàng níu áo nói: “Ngươi chẳng đưa ta về
lại còn đi đâu?” Tam Lang xô chị ngã lăn xuống đất rồi bỏ đi, nàng giật mình
tỉnh dậy mới biết là vừa nằm mơ.

Hôm sau
quả nhiên người học trò về, cũng cưỡi con ngựa trắng, vợ kinh ngạc nhưng chưa
nói gì. Người học trò kể lại giấc mơ đêm qua, những điều gặp gỡ nhất nhất đều
như vợ đã nghe đã thấy, hai người đều lấy làm quái lạ. Kế Tam Lang nghe tin anh
rể đi xa về cũng tới thăm hỏi, xong nói với người học trò: “Đêm qua nằm mơ thấy
anh về, nay quả đúng, thật lạ quá.” Người học trò cười nói: “May mà ta không bị
đá ném chết.” Tam Lang ngạc nhiên hỏi sao nói thế, người học trò kể lại giấc
mơ, Tam Lang vô cùng kinh ngạc. Thì ra đêm qua Tam Lang cũng nằm mơ thấy gặp
chị khóc lóc kể lể nên nổi giận ném đá. Ba giấc mộng khớp nhau, chỉ không biết
người đẹp là ai mà thôi.

22. Châu nhi

Người dân
ở Thường Châu (huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô) là Lý Hóa, nhà giàu có, nhiều ruộng
đất. Hơn năm mươi tuổi mà không có con trai, chỉ có một con gái tên Tiểu Huệ,
mặt mũi xinh đẹp, vợ chồng rất yêu dấu. Năm cô gái mười bốn tuổi thì mắc bạo
bệnh chết yểu, nhà cửa vắng vẻ, Lý không còn sinh thú mới cưới tỳ thiếp. Hơn
một năm người thiếp sinh được một con trai, Lý yêu quý như châu ngọc, đặt tên
là Châu nhi. Đứa nhỏ dần dần lớn lên, khôi ngô khả ái nhưng tính rất ngây ngốc,
năm sáu tuổi vẫn chưa phân biệt được ngô với đậu, ăn nói thì ngơ ngẩn, Lý cũng
ưa nên không ghét bỏ.

Gặp lúc
có nhà sư lòa tới khuyến hóa ở chợ, biết rõ cả việc trong khuê phòng nhà người
ta, mọi người đều tôn kính như thần. Sư lại nói có thể cứu sống hại chết, ban
phúc giáng họa, muốn vài trăm ngàn đồng tiền cứ tìm tên mà đòi, không ai dám
chậm trễ. Tới Lý khuyến hóa xin một trăm quan tiền, Lý lấy làm khó, đưa ra mười
quan nhưng sư không nhận. Dần dần đưa lên thêm tới ba mươi quan, sư tức giận nói:
“Phải đủ một trăm quan, thiếu một đồng cũng không được.” Lý cũng tức giận, thu
tiền lại đuổi ra, sư tức tối đứng lên nói: “Đừng có hối hận, đừng có hối hận.”

Không bao
lâu Châu nhi chợt phát bệnh đau tim, lăn lộn cào cấu trên giường, mặt xám như
tro. Lý sợ liền đem tám mươi quan tới chỗ nhà sư xin cứu cho, sư cười nói: “Có
được bấy nhiêu tiền quả không dễ, nhưng nhà sư trong núi thì làm được gì?” Lý
về thì Châu nhi đã chết, vô cùng đau đớn bèn đưa đơn kiện lên huyện. Quan huyện
cho bắt nhà sư hỏi cung, sư cũng nói đó là việc ngẫu nhiên để phân trần, quan
sai đánh đòn thấy bồm bộp như đánh vào cái túi da, liền sai lục soát trong
người sư, tìm được hai hình người bằng gỗ, một chiếc quan tài nhỏ, năm lá phướn
con. Quan tức giận, lấy tay làm ra vẻ bắt quyết cho nhìn, sư sợ hãi bèn xin
cung khai. Quan không thèm nghe, sai đánh chết luôn, Lý bèn lạy tạ ra về.

Lúc ấy
trời đã sập tối, Lý và vợ đang ngồi trên giường, chợt có đứa nhỏ chập chờn bước
vào phòng, nói: “Sao cha đi mau thế, con cố đuổi mà không kịp,” nhìn tới vóc
dáng dung mạo thì khoảng bảy tám tuổi. Lý kinh ngạc đang định gạn hỏi thì thấy
nó như ẩn như hiện, chập chờn tựa làn mây mù. Lúc chập chờn nó đã lên tới
giường, Lý xô xuống, nó rơi xuống đất không có tiếng động, nói: “Sao cha lại
làm thế?” Trong chớp mắt lại đã lên giường trở lại. Lý hoảng sợ dắt vợ bỏ chạy,
đứa nhỏ kêu cha gọi mẹ không ngớt. Lý chạy vào phòng vợ, đóng mau cửa lại, quay
lại thì đứa nhỏ đã đứng ngay dưới chân, Lý sợ quá hỏi nó định làm gì, đứa nhỏ đáp:
“Con là người Tô Châu (tỉnh Giang Tô), họ Thiềm, năm lên sáu tuổi đã mồ côi cha
mẹ, anh trai chị dâu không chịu nuôi nấng nên tới ở nhà ngoại. Ngẫu nhiên chơi
đùa ngoài cổng bị gã yêu tăng kia dụ dỗ giết chết dưới gốc dâu, sai khiến như
ma trành, ngậm oan dưới suối vàng không được chuyển sinh. May nhờ cha trả thù
cho, xin theo làm con.”

Lý nói: “Người
với ma khác loài, làm sao nương tựa nhau được?” Đứa nhỏ nói: “Chỉ xin xếp cho
một gian phòng nhỏ, trong bày giường chiếu cho con nằm, mỗi ngày cho một chén
cháo loãng, ngoài ra không cần gì khác.” Lý theo lời, đứa nhỏ mừng rỡ, từ đó
một mình ở trong phòng riêng, ra vào ăn nói không khác gì người sống. Nghe
người thiếp của Lý khóc lóc, nó hỏi Châu nhi chết đã mấy ngày rồi, người thiếp
đáp bảy ngày. Đứa nhỏ nói: “Trời đang rất lạnh, chắc xác chưa rã, xin đào mồ
lên xem thử, nếu như vẫn còn nguyên vẹn thì con có thể sống lại.”

Lý mừng
rỡ dắt nó cùng đi, đào mồ Châu nhi lên xem thấy xác vẫn như cũ, đang còn đau
xót, ngoảng lại nhìn thì đứa nhỏ đã biến mất, lấy làm lạ bèn cáng cái xác về.
Vừa đặt lên giường thì mí mắt đã động đậy, giây lát đòi uống nước, uống xong ra
mồ hôi đầm đìa, kế đứng lên. Mọi người mừng Châu nhi đã sống lại, lại còn thêm
khôn ngoan thông minh khác hẳn ngày trước. Đến đêm lại lên giường nằm cứng đờ
không có chút hơi thở nào, mọi người cùng vào xoay trở vẫn nhắm mắt nằm yên như
chết, mọi người đều cả sợ cho rằng lại chết rồi.

Trời vừa
sáng nó mới như tỉnh mộng, mọi người xúm lại hỏi han, đứa nhỏ đáp: “Trước đây
lúc còn theo gã yêu tăng, còn có hai đứa nhỏ khác, một đứa tên Ca Tử, vừa rồi
đuổi theo cha không kịp vì nán lại phía sau chia tay Ca Tử đó thôi. Nay Ca Tử ở
dưới âm ty làm con nuôi của Khương Viên ngoại, cũng được thong thả. Đêm qua nó
tới chơi đùa với con, kế lấy ngựa đưa con về.” Vợ Lý nhân hỏi có thấy Châu nhi
dưới âm ty không, đứa nhỏ đáp: “Châu nhi đã đi đầu thai rồi, nó với cha không
có duyên phận cha con, chẳng qua chỉ là Nghiêm Tử Phương ở Kim Lăng (tỉnh thành
Giang Tô) tới đòi món nợ mấy trăm ngàn đồng tiền trước đây mà thôi.” Trước là
Lý buôn bán ở Kim Lăng, còn thiếu tiền hàng của Nghiêm chưa trả, kế Nghiêm
chết, chuyện ấy không ai hay biết. Lý nghe thấy cả sợ.

Vợ Lý bèn
hỏi đứa nhỏ rằng con gặp chị Huệ không, nó đáp: “Không biết, lần sau con xuống
đó sẽ hỏi thăm.” Ba bốn hôm sau, nó nói với mẹ rằng: “Chị Huệ dưới âm ty sung
sướng lắm, làm vợ của con trai út Sở Giang vương, vàng ngọc đeo đầy người, ra
cửa thì có hàng ngàn người tiền hô hậu ủng.” Vợ Lý hỏi: “Sao nó không về thăm
nhà một chuyến?” Đứa nhỏ nói: “Kẻ đã chết thì không dính líu gì với người thân
nữa, nếu có ai kể rõ chuyện kiếp trước mới nhớ lại thôi. Hôm rồi con theo
Khương Viên ngoại nên được gặp chị, chị gọi con lên ngồi trên giường san hô,
con nói cha mẹ đều rất nhớ nhung mà chị cứ như đang ngủ mơ. Con nói lúc chị còn
sống thích thêu quả cầu kết hoa bằng lụa, lúc cắt vải bị đứt tay làm dính máu
vào đó, nay mẹ còn treo ở đầu giường, thương nhớ không nguôi, chị quên rồi sao?
Chị mới buồn rầu, nói sẽ thưa với lang quân xin về thăm mẹ. Vợ Lý hỏi lúc nào,
nó đáp là không biết.

Một hôm
nói với mẹ rằng: “Chị sắp về tới, có rất nhiều tùy tùng đi theo, phải chuẩn bị
nhiều rượu thịt.” Giây lát nó chạy vào phòng mẹ nói: “Chị tới rồi!” rồi đẩy ghế
ra sảnh đường nói: “Chị hãy ngồi xuống nghỉ mệt, đừng khóc lóc,” mọi người
không ai nhìn thấy gì cả. Đứa nhỏ bảo mọi người ra đốt giấy tiền vàng bạc ngoài
cổng rồi trở vào nói: “Con đã cho những người tùy tùng tạm lui về rồi. Chị nói
rằng trước đây cái chăn gấm xanh chị vẫn đắp bị lửa đèn bắn vào làm thủng một
lỗ to bằng hạt đậu, nay có còn không?” Mẹ đáp: “Vẫn còn.” Rồi lập tức mở rương
lấy ra, đứa nhỏ nói: “Chị bảo con đem trải trong phòng cũ, chị hơi mệt phải
nghỉ một lúc, ngày mai sẽ lại nói chuyện với mẹ.”

Có cô gái
họ Triệu bên láng giềng vốn chơi thân với Huệ, đêm ấy chợt mơ thấy Huệ đội khăn
mặc áo màu tía tới thăm, chuyện trò cười nói thân thiết như lúc còn sống, kế nói:
“Ta nay khác loài, giáp mặt cha mẹ mà chẳng khác nào xa cách nhau muôn núi ngàn
sông, định mượn xác muội tử về trò chuyện với người nhà, xin đừng hoảng sợ.”
Đến sáng nàng đang trò chuyện với mẹ chợt ngã lăn ra đất mê man, lát sau mới
tỉnh, nói: “Tiểu Huệ xa cách thím mấy năm rồi, không ngờ tóc thím đã bắt đầu
bạc.” Bà Triệu hoảng sợ nói: “Con điên rồi à?” Nàng lạy chào rồi đi ra. Bà
Triệu biết là có chuyện lạ bèn đi theo, thấy nàng tới thẳng nhà Lý, vào ôm vợ
Lý khóc sướt mướt, vợ Lý hoảng sợ không biết chuyện gì. Nàng nói: “Hôm qua con
về mệt quá chưa nói được câu nào. Con bất hiếu nửa đường chết đi bỏ cha mẹ lại,
lại làm cha mẹ phải nhớ nhung, biết lấy gì để chuộc tội?” Mẹ sực hiểu ra bèn
khóc hỏi: “Nghe nói nay con rất quý hiển, mẹ rất được an ủi, nhưng con gởi thân
ở nhà bậc vương hầu, làm sao tới được đây?” Cô gái nói: “Chồng con rất thương
yêu con, cha mẹ chồng cũng rất thương mến, nên không bị ghét bỏ gì.”

Lúc Huệ
còn sống hay lấy tay chống cằm, cô gái nói xong cũng làm giống hệt. Giây lát
Châu nhi chạy vào nói: “Người đón chị tới rồi,” cô gái bèn đứng lên khóc lóc từ
biệt, nói: “Con đi đây.” Nói xong ngã lăn ra đất hồi lâu mới tỉnh.

Sau đó
vài tháng, Lý mắc bệnh nặng, thuốc men gì cũng vô hiệu. Đứa nhỏ nói: “Sợ trong
sớm tối sẽ khó cứu, có hai con quỷ ngồi ở đầu giường cha, một đứa cầm gậy, một
đứa cầm dây dài bốn năm thước, con đã đêm ngày năn nỉ mà chúng không đi.” Mẹ
khóc chuẩn bị đồ liệm, đến tối thì đứa nhỏ bước vào nói: “Đàn bà con gái tránh
ra hết, anh rể tới thăm cha đấy.” Giây lát lại vỗ tay cười lớn mẹ hỏi vì sao,
nó đáp: “Con cười hai con quỷ nghe nói anh rể tới đều rúc vào gầm giường như
con rùa rụt đầu.” Lát sau lại thấy nó nhìn lên trời nói chuyện, hỏi thăm anh rể
khỏe không, kế vỗ tay nói: “Hai thằng quỷ kia, ta năn nỉ không chịu đi bây giờ
thật hả dạ.” Rồi đi ra cổng, kế quay vào nói: “Anh rể đi rồi, hai con quỷ bị
bắt buộc sau yên ngựa, chắc cha không sao đâu. Anh rể nói trở về sẽ thưa với
Đại vương xin cho cha mẹ sống lâu trăm tuổi,” cả nhà đều mừng rỡ.

Đến đêm
thì Lý đỡ bệnh, qua vài ngày thì khỏi hẳn. Bèn rước thầy về dạy học cho, đứa
nhỏ rất thông minh, mười tám tuổi được vào học trường huyện, vẫn thường nói
chuyện dưới âm ty. Thấy trong làng có ai bị bệnh thì chỉ rõ nơi ma quỷ trốn
núp, lấy lửa thiêu đất, ai cũng khỏi bệnh. Về sau nó bị bệnh nặng, người sưng
phù lên, da chỗ xanh chỗ tím, tự nói là quỷ thần phạt ta về tội tiết lộ chuyện
âm ty, từ đó trở đi không nói gì nữa.

23. Quan nhân nhỏ bé[1]

[1] Tiểu quan nhân.

Có quan
Thái sử[2] Mỗ, ta quên mất tên họ, một hôm nghỉ trưa trong phòng
chợt thấy có một đội nghi trượng bé tí trong góc phòng kéo ra, ngựa như con
ếch, người như con kiến xếp thành vài mươi đội đưa một viên quan đội mũ sa mặc
áo thêu ngồi kiệu, rầm rộ kéo ra ngoài cửa đi mất.

[2] Thái sử: từ gọi chung quan chức trong
Hàn lâm viện.

Thái sử
lấy làm lạ, ngờ là mình ngái ngủ hoa mắt nhìn lầm, chợt có một người tí hon
quay vào phòng, vác một cái bao lông chiên to bằng nắm tay đi tới dưới giường,
nói rằng chủ nhân có món quà mọn kính biếu Thái sử. Nói xong đứng sững ra đó
không đưa quà, lát sau lại cười nói: “Vật mọn nhỏ tí, nghĩ chắc Thái sử cũng
không dùng được vào việc gì, chẳng bằng ban cho tiểu nhân cho xong.”

Thái sử
gật đầu, y vui vẻ vác cái bao đi, về sau không lần nào thấy như thế nữa. Tiếc
là Thái sử trong lòng đang sợ sệt, chưa kịp hỏi người ấy rằng họ từ đâu tới.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3