Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển I - Chương 014 - 015
14. Bộ da vẽ[1]
[1] Họa bì.
Vương
sinh người Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây) sáng sớm ra đường gặp một nữ lang
ôm bọc quần áo đi mau một mình, có vẻ rất mệt nhọc, vội vượt lên nhìn thì thấy
tuổi khoảng đôi tám, dung mạo tuyệt đẹp. Trong lòng ưa thích bèn hỏi: “Sao còn
sớm mà đã đi lẻ loi một mình thế?” Nàng đáp: “Khách qua đường hiểu sao được nỗi
lo buồn của kẻ khác, hỏi làm gì cho mệt?” Sinh hỏi: “Nàng có điều gì lo buồn
vậy? Nếu giúp được thì ta không từ chối mà.” Cô gái buồn bã đáp: “Cha mẹ tham
tiền bán thiếp cho nhà quan, vợ lớn cả ghen sớm hôm đánh đập chửi mắng làm
nhục, không chịu nổi nên phải trốn đi.” Sinh hỏi định đi đâu, nàng đáp: “Người
đi trốn thì làm sao có nơi mà định trước được?” Sinh nói: “Tệ xá không xa, mời
nàng ghé qua,” cô gái mừng rỡ đi theo.
Sinh mang
hộ bọc quần áo, đưa nàng cùng về. Cô gái thấy nhà không có ai bèn hỏi sao không
có người nhà, sinh đáp đây chỉ là phòng sách thôi, nàng nói: “Nơi này tốt lắm.
Chàng như thương xót mà cứu giúp thiếp thì xin giữ kín đừng nói với ai.” Sinh
ưng thuận, kế cùng nàng chung chạ, giấu giếm trong phòng kín qua mấy ngày cũng
không ai hay. Sinh nói hé với vợ là Trần thị, vợ ngờ là nàng hầu vợ lẽ của nhà
đại gia, khuyên để cô ta đi nhưng sinh không nghe. Ngẫu nhiên đi ngang chợ, gặp
một đạo sĩ nhìn sinh kinh ngạc hỏi gặp gì lạ rồi, sinh đáp không có gì cả. Đạo
sĩ nói: “Người ông đầy tà khí, sao lại nói là không?” Sinh lại cố chối. Đạo sĩ
bèn bỏ đi, nói: “Mê muội thay, trên đời vẫn có kẻ sắp chết đến nơi mà chưa tỉnh
ngộ!”
Sinh thấy
lời nói lạ lùng cũng hơi ngờ cô gái, nhưng lại nghĩ rõ ràng là một mỹ nữ sao
đến nỗi là yêu quái được nên cho rằng đạo sĩ mượn tiếng trừ tà để kiếm ăn. Lát
sau về tới nhà học, thấy bên trong đóng chặt không vào được lấy làm ngờ vực,
bèn trèo qua chỗ tường lở vào thì cửa phòng cũng đóng. Sinh rón rén tới trước
cửa sổ nhìn vào, thấy một con quỷ hung ác mặt xanh lè, răng chơm chởm như lưỡi
cưa đang trải một tấm da người ra giường, lấy bút màu tô lên. Tô xong ném bút
nhấc tấm da như tấm áo khoác lên người, liền biến thành cô gái. Sinh thấy thế
cả sợ, bò xuống lẻn ra, vội vàng đi tìm đạo sĩ thì không biết đã đi đâu, tìm
kiếm khắp nơi mới gặp ngoài đồng, quỳ xuống xin cứu mạng.
Đạo sĩ nói:
“Xin sẽ đuổi đi giúp ông. Con quỷ ấy cũng khốn khổ mới tìm được người thay, ta
cũng không nỡ hại mạng nó.” Liền lấy chiếc phất trần đưa sinh, dặn treo ở cửa
phòng ngủ rồi từ biệt, hẹn gặp lại ở miếu Thanh Đế. Sinh về không dám tới nhà
học bèn vào phòng vợ ngủ, treo phất trần lên cửa. Khoảng canh một nghe ngoài
cửa có tiếng lạch cạch, không dám nhìn bèn bảo vợ ra nhìn xem. Chỉ thấy cô gái
tới, thấy chiếc phất trần thì không dám bước tới nữa, đứng nghiến răng hồi lâu
rồi bỏ đi. Giây lát lại quay lại mắng: “Đạo sĩ chỉ dọa ta! Chẳng lẽ miếng ăn đã
đến miệng lại nhả ra à?” Rồi chụp chiếc phất trần bẻ nát, phá cửa sấn vào, lên
thẳng giường sinh nằm xé bụng móc lấy quả tim bỏ đi.
Vợ sinh
la lên, tỳ nữ vào soi đèn thì sinh đã chết, khoang bụng máu me bê bết, Trần thị
sợ khóc không thành tiếng. Hôm sau sai em chồng là Nhị Lang chạy tới kể với đạo
sĩ, đạo sĩ tức giận nói: “Ta đã thương tình mà con quỷ này lại dám làm thế.”
Lập tức theo em sinh tới thì cô gái đã biến mất, bèn ngẩng đầu nhìn quanh rồi nói:
“May là nó trốn chưa xa.” Lại hỏi dãy nhà phía nam là nhà ai, Nhị Lang đáp: “Đó
là nhà tiểu sinh.” Đạo sĩ nói: “Nó đang ở nhà ông.” Nhị Lang ngạc nhiên nói là
chưa hề có. Đạo sĩ hỏi: “Vậy có ai không quen tới chưa?” Nhị Lang đáp: “Ta tới
miếu Thanh Đế nên không biết, để về hỏi lại.”
Rồi đi
một lúc thì quay lại nói: “Quả là có. Sáng nay có một bà già tới xin làm thuê,
vợ ta giữ lại, hiện còn ở đó.” Đạo sĩ nói: “Chính nó đấy.” Liền cùng đi qua,
cầm kiếm gỗ đứng giữa sân gọi: “Yêu nghiệt ra đền phất trần cho ta!” Bà già
trong nhà hốt hoảng tái mặt, ra cửa toan chạy. Đạo sĩ đuổi theo chém ngã lăn
ra, tấm da người tuột xuống, bà ta hóa thành con quỷ nằm kêu rống như heo. Đạo
sĩ lấy kiếm gỗ chặt đầu, thân nó biến thành đám khói dày xoáy tròn trên mặt
đất. Đạo sĩ lấy ra một cái hồ lô mở nút đặt vào giữa đám khói, nghe kêu vu vu
như huýt sáo, trong chớp mắt đám khói mất hết, đạo sĩ nút hồ lô lại bỏ vào túi.
Cùng nhìn lại tấm da người thấy đủ cả mày mắt tay chân, đạo sĩ cuốn lại, tiếng
kêu như cuốn trục tranh, cũng bỏ vào túi rồi từ biệt toan đi.
Trần thị
đón lại lạy lục trước cổng, khóc lóc xin cứu chồng sống lại, đạo sĩ từ tạ là
không làm được. Trần thị càng đau xót, quỳ rạp không đứng dậy, đạo sĩ ngẫm nghĩ
rồi nói: “Phép thuật của ta kém cỏi, thật không làm người chết sống lại được.
Ta chỉ cho một người may ra có thể làm được, tới cầu chắc có kết quả.” Hỏi là
ai, đạo sĩ đáp: “Trong chợ có một người điên hay nằm trên đống phân, thử tới
khẩn cầu xem. Nếu y buông tuồng làm nhục phu nhân, xin phu nhân cũng đừng tức
giận.”
Nhị Lang
cũng biết người ấy bèn từ biệt đạo sĩ, cùng chị dâu đi tìm. Thấy người ăn mày
đang ngu ngơ ca hát trên đường, nước mũi lòng thòng, vô cùng bẩn thỉu. Trần thị
lê gối tới trước mặt, y cười nói: “Người đẹp yêu ta à?” Trần thị kể mọi chuyện
xong y lại cười lớn nói: “Ai cũng là chồng được mà, cứu sống lại làm gì?” Trần
thị cố kêu van, y nói: “Lạ thật, ai đâu chết mà nhờ ta cứu sống, ta là Diêm
Vương à?” Rồi tức giận lấy gậy đánh Trần thị.
Trần thị
cắn răng chịu đau, người trong chợ dần xúm lại xem đông nghẹt. Người ăn mày
khạc một vốc đờm vào tay rồi gí vào miệng Trần thị nói: “Ăn đi!” Trần thị đỏ
bừng mặt tỏ vẻ ngần ngại, nhưng nhớ lại lời đạo sĩ dặn bèn nhắm mắt nuốt vào,
tới cổ họng thấy vướng như nắm bông, nghèn nghẹn trôi xuống rồi dừng lại ở ức.
Người ăn mày cười lớn nói: “Người đẹp yêu ta thật!” rồi đứng lên đi thẳng không
ngoái lại. Trần thị theo sau thấy y vào trong miếu, bước mau theo để khẩn cầu
thì không biết đã đi đâu mất, tìm khắp trước sau không thấy tăm hơi đành vừa
thẹn vừa giận trở về.
Đã xót
chồng không may chết thảm, lại hối mình chịu nhục nuốt đờm, ôm mặt kêu khóc chỉ
muốn chết ngay. Kế chùi máu liệm xác chồng, người nhà cứ đứng xa nhìn không ai
dám tới gần, Trần thị ôm thây nhặt ruột, vừa xếp vừa khóc. Khóc đến lúc thất
thanh chợt cái vật vướng trong ức trào ra, chưa kịp quay đi nó đã rơi vào trong
khoang bụng xác chết. Hoảng sợ nhìn lại thì là một quả tim người đang đập thon
thót, hơi nóng bốc nghi ngút như khói, lấy làm lạ vội lấy hai tay khép bụng
chồng lại, cố sức giữ chặt, hơi nới tay thì hơi nóng từ khe hở bốc ra, bèn xé
lụa buộc mau lại. Sờ vào xác chồng thấy dần dần ấm lại bèn lấy chăn đắp lên,
nửa đêm mở ra xem thì thấy mũi có hơi thở.
Đến sáng
thì sinh sống lại, nói vừa giật mình như nằm mơ tỉnh dậy, chỉ thấy bụng nhoi
nhói đau. Nhìn lại chỗ bị xé rách thấy đóng vảy to như đồng tiền, sau dần lành
lại.
Dị Sử thị nói: Người đời ngu
thay! Rõ ràng là yêu quái mà cho là người đẹp. Người ngu mê muội thay! Rõ ràng
là lời ngay mà cho là nói bậy. Nhưng mê đắm sắc đẹp mà muốn chiếm lấy, thì vợ
cũng phải chịu cái nhục nuốt đờm của người khác. Đạo trời tuần hoàn, nhưng
người ngu vẫn mê muội không tỉnh ngộ, đáng thương lắm thay.
15. Đứa con người lái buôn[1]
[1] Cổ nhi.
Ông Mỗ
người đất Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc) đi buôn xa nhà, vợ ở nhà một mình, đêm mơ
thấy ngủ với người lạ, tỉnh dậy sờ thì là một người đàn ông bé nhỏ. Thấy cung
cách khác người thường biết là hồ, lát sau y xuống giường đi ra, cửa chưa mở đã
biến mất. Đến tối phải bảo bà già nấu bếp vào ngủ chung, có đứa con trai mười
tuổi vẫn ngủ riêng cũng gọi vào. Đến khuya bà già và đứa nhỏ đã ngủ thì hồ lại
tới, người đàn bà ú ớ như nói mê, vú già hay được la lên, hồ mới đi. Từ đó
người đàn bà cứ ngẩn ngơ, đến tối không dám tắt đèn, dặn con đừng ngủ say.
Đến
khuya, đứa nhỏ và bà già dựa vào tường ngủ gật một lúc, tỉnh dậy thì người đàn
bà biến mất, ngỡ là đi tiểu nhưng chờ lâu không thấy vào mới sinh nghi. Bà già
sợ không dám đi tìm, đứa nhỏ cầm đèn đi soi khắp nơi, tới phòng khác thì thấy
mẹ trần truồng nằm trong, tới gần đỡ lên cũng không biết xấu hổ.
Từ đó
người đàn bà hóa điên, ban ngày ca khóc chửi mắng đủ kiểu, đêm đến không muốn ở
chung với ai mà ngủ riêng một phòng, bảo đứa nhỏ và bà già qua ngủ chỗ khác.
Đứa nhỏ mỗi khi nghe thấy tiếng mẹ cười nói thì dậy châm lửa soi, mẹ tức giận
mắng cũng mặc kệ, mọi người đều khen là gan dạ. Nhưng nó lại nghịch ngợm quá
quắt, hàng ngày cứ bắt chước thợ nề lấy gạch đá xếp lên cửa sổ, cản lại thì nó
không nghe, vứt gạch đá đi thì nó lăn ra đất kêu khóc nên không ai dám chọc
ghẹo.
Qua mấy
hôm, hai cửa sổ đều bị lấp kín không còn chút ánh sáng nào lọt vào được, kế nó
lại lấy bùn trét kín khe vách bị hở, suốt ngày quần quật không biết mệt. Trét
xong lại vớ dao làm bếp mài xoèn xoẹt, ai cũng ghét là bướng bỉnh, không buồn
đếm xỉa. Đến nửa đêm đứa nhỏ giấu dao vào bụng, chụp vỏ quả bầu lên ngọn đèn,
đợi mẹ nói mê liền vùng dậy mở ra, đứng chặn ngoài cửa phòng kêu ầm lên. Chờ
hồi lâu không thấy gì lạ, nó bèn bước ra xa cửa phòng giả nói to là mót tiểu.
Chợt có con vật như con mèo từ khe cửa vọt ra, nó chém vội chỉ đứt được khúc
đuôi dài khoảng hai tấc, máu chảy ròng ròng. Lúc nó vừa dậy khêu đèn thì mẹ đã
mắng chửi, đứa nhỏ cũng làm như không nghe, chém không trúng hồ bực bội đi ngủ
lại, tự nghĩ tuy không chém chết được nhưng may ra thì hồ không tới nữa.
Đến sáng
ra nhìn thấy vết máu qua tường mà đi, lần theo thấy vào vườn nhà họ Hà, đến đêm
quả không thấy gì nữa. Đứa nhỏ mừng thầm nhưng mẹ lại ngủ mê mệt như chết.
Không bao lâu người lái buôn về, tới cạnh giường thăm hỏi nhưng vợ chửi mắng
coi như kẻ thù. Đứa nhỏ kể chuyện lại, người cha sợ hãi mời thầy cắt thuốc
chữa, vợ hắt thuốc chửi rủa, phải ngầm đổ thuốc vào cháo cho uống, mấy ngày mới
hơi đỡ, cha con đều mừng.
Một đêm
tỉnh giấc thấy người đàn bà đã biến mất, hai cha con qua phòng khác tìm thì bắt
gặp. Từ đó lại điên không muốn ngủ cùng phòng với chồng, cứ gần tối lại chạy
qua phòng khác, kéo lại thì càng chửi mắng thậm tệ. Chồng không còn cách nào
phải đóng chặt cửa tất cả các phòng khác, nhưng người đàn bà tới thì cửa cứ tự
mở. Chồng lo lắng, cầu cúng đủ cách vẫn không hiệu nghiệm. Đứa nhỏ chiều tới
lén tới núp trong bụi cỏ rậm ở vườn nhà họ Hà để dò xét chỗ hồ ở.
Trăng vừa
lên chợt nghe tiếng người nói, lén vạch cỏ nhìn ra thấy hai người uống rượu, có
một người đầy tớ râu dài bưng bầu rượu, mặc áo màu xanh sẫm, tiếng nói rất nhỏ,
không nghe được gì. Lát sau nghe một người nói: “Ngày mai cứ đem một vò rượu
trắng tới đâ,y” giây lát cùng ra đi, chỉ còn người râu dài ở lại, cởi áo nằm
trên tảng đá trong đình, nhìn kỹ thấy tay chân đều như người, chỉ có cái đuôi
thò ra phía sau. Đứa nhỏ muốn về nhưng sợ hồ biết bèn núp suốt đêm, trời chưa
sáng lại nghe thấy hai người lục tục trở lại, thì thào đi vào bụi tre rậm.
Đứa nhỏ
trở về, cha hỏi đi đâu nó đáp là ngủ ở nhà bác. Gặp hôm theo cha vào chợ, thấy
hàng mũ có treo cái đuôi chồn liền xin cha mua. Cha không nghe, nó cứ kéo áo
vòi vĩnh, cha không nỡ phật ý bèn mua cho. Cha buôn bán trong cửa hàng, đứa con
nô đùa bên cạnh, nhân lúc cha quay đi bèn lấy cắp tiền đi mua rượu trắng, gửi
lại ở quán. Có người cậu ở trong thành vốn làm nghề săn bắn, đứa nhỏ chạy tới
nhà cậu thì cậu đi vắng, mợ hỏi thăm mẹ, nó đáp: “Mấy hôm nay khỏe hơn, nhưng
vì chuột cắn phá quần áo làm mẹ giận kêu khóc không thôi nên sai cháu xin ít
thuốc chuột.” Mợ mở hòm lấy ra khoảng một đồng cân gói lại đưa cho, đứa nhỏ cho
là ít. Mợ ra nấu mì cho cháu ăn, nó nhân lúc trong phòng không có ai liền mở
gói thuốc trộm lấy một vốc giấu vào bọc, kế ra nói với mợ đừng nhóm bếp nữa vì
cha đang chờ ở chợ, nó không kịp ăn, rồi đi luôn. Nó lén bỏ thuốc độc vào rượu
rồi chơi rong trong chợ, gần tối mới về. Cha hỏi đi đâu, nó nói thác là ở nhà
cậu, từ đó hàng ngày đứa nhỏ cứ đi chơi trong chợ.
Một hôm
thấy người râu dài cũng chen trong đám đông, đứa nhỏ nhìn kỹ liền theo sát bên,
lân la bắt chuyện hỏi thăm quê quán, y đáp ở thôn Bắc rồì cũng hỏi lại, đứa nhỏ
bịa đặt đáp là trong hang núi. Người râu dài tỏ vẻ lạ lùng, nó cười nói: “Nhà
ta đời đời ở hang núi, ông thì không sao?” Người kia càng kinh ngạc hỏi tên họ,
đứa nhỏ đáp: “Ta là con họ Hồ, hình như đã gặp ông ở đâu rồi, thấy ông đi theo
hai chàng trẻ tuổi, ông quên rồi à?”
Người kia
nhìn kỹ nó nửa tin nửa ngờ, nó bèn khẽ vạch quần, hơi thò cái đuôi giả ra, nói:
“Bọn ta trà trộn giữa loài người, chỉ cái này là vẫn còn, thật đáng bực.” Người
kia hỏi ra chợ làm gì, nó đáp: “Cha ta sai đi mua rượu,” y cũng nói là đi mua
rượu. Đứa nhỏ hỏi mua chưa, y đáp: “Bọn ta phần lớn đều nghèo nên hay đánh cắp
hơn.” Đứa nhỏ nói: “Việc ấy cũng khổ, luôn luôn phải lo sợ,” người kia nói: “Chủ
nhân ra lệnh, không thể không làm.” Đứa nhỏ hỏi chủ là ai, y đáp: “Là hai anh
em mà hôm trước ngươi gặp đấy. Một người dan díu với vợ họ Vương ngoài cửa Bắc,
một người ngủ ở nhà ông Mỗ ở thôn Đông, gặp thằng con ông ta dữ quá nên bị chém
đứt đuôi mười ngày mới lành, nay lại tới đó rồi.”
Nói xong
định từ biệt, nói: “Đừng làm hỏng việc của ta.” Đứa nhỏ nói: “Đánh cắp khó hơn
mua nhiều, ta đã mua trước còn gởi trong quán, xin tặng cho ông. Trong túi ta
còn tiền, không lo gì cả.” Người kia thẹn vì không có gì báo đáp, đứa nhỏ nói: “Chúng
ta vốn cùng loài, tiếc gì bấy nhiêu đó, lúc nào rảnh con phải uống với ông một
bữa thật say kia.” Liền cùng tới quán lấy rượu đưa cho y rồi về.
Đến đêm
thấy mẹ quả ngủ yên không chạy đi nữa, nó biết có chuyện lạ bèn nói với cha
cùng tới xem thì thấy có hai con chồn chết trong đình, một con chết trong đám
cỏ, máu còn ròng ròng trên miệng, bình rượu cũng có đó, cầm lên lắc thử vẫn
chưa hết. Cha kinh ngạc hỏi sao không nói trước, nó đáp: “Giống này rất khôn
lanh, hơi lộ ra là nó biết ngay.” Cha mừng nói: “Con ta quả là Trần Bình đánh
hồ[2] đấy.” Hai cha
con bèn mang xác chồn về, thấy một con bị cụt đuôi, vết dao còn rõ. Từ đó mới
yên nhưng người đàn bà ngày càng gầy rạc, tỉnh táo dần nhưng ho càng nặng, cứ
khạc ra hàng đấu đờm, kế chết. Vợ họ Vương ngoài cửa Bắc trước vẫn bị hồ ám,
lúc ấy tới hỏi thì hồ đã dứt mà bệnh cũng khỏi. Cha vì vậy cho rằng đứa nhỏ là
đứa trẻ lạ liền cho học cưỡi ngựa bắn cung, sau làm quan tới chức Tổng nhưng.
[2] Trần Bình đánh hồ: Trần Bình là người
thời Hán Sở tranh hùng, theo giúp Hán Cao tổ Lưu Bang đánh dẹp, từng sáu lần
bày kế lạ giúp Lưu Bang, sau làm tới chức Tả Thừa tướng, được phong là Khúc
Nghịch hầu. Đây người cha có ý khen con mưu trí như Trần Bình.