Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển I - Chương 010 - 011

10. Diệp sinh

Diệp sinh
người huyện Hoài Dương (tỉnh Hà Nam) không rõ tên tự, văn chương tư phú đứng
đầu một thời nhưng không thành đạt, lận đận mãi nơi trường ốc. Gặp lúc ông Đinh
Thừa Hạc người Đông Quan tới làm Tri huyện ở đó, xem văn chương của sinh lấy
làm lạ bèn mời tới nói chuyện, rất vừa ý liền sai ở lại trong dinh, giúp cho ăn
học, thỉnh thoảng lại cho tiền thóc để giúp đỡ gia đình.

Đến kỳ
khảo khóa, ông khen ngợi văn tài của sinh với quan Học sứ, kế sinh đỗ đầu, ông
rất mong mỏi vào sinh, thi hương xong đòi văn bài của sinh để đọc, gõ bàn đánh
nhịp ngợi khen không ngớt. Không ngờ thời vận cản người, văn chương ghen mệnh,
khi ra bảng thì sinh rớt, trở về ngơ ngác thẫn thờ, thẹn đã phụ lòng tri kỷ,
thân gầy rộc như bộ xương, người ngây ra như tượng gỗ.

Ông nghe
tin mời tới an ủi, sinh rơi lệ không thôi. Ông thương xót, hẹn lúc nào hết hạn
về kinh sẽ đưa sinh cùng đi. Sinh rất cảm kích cáo từ ra về, đóng cửa không đi
đâu nữa. Không bao lâu sinh lâm bệnh, ông thăm hỏi biếu tặng không ngớt nhưng
sinh uống bao nhiêu thuốc vẫn không khỏi. Gặp lúc ông xúc phạm quan trên bị
cách chức, lúc sắp về quê bèn viết thư cho sinh, đại lược rằng: “Ta nay mai sẽ
về Đông nhưng sở dĩ còn chần chừ là vì muốn chờ túc hạ đó thôi. Túc hạ tới buổi
sáng thì buổi chiều ta khởi hành.”

Thư đưa
tới cạnh giường, sinh cầm thư xem khóc rồi nhắn người đưa thư về nói bệnh nặng
khó khỏi ngay, xin ông cứ đi trước. Người ấy về thưa lại, ông không nỡ đi, nán
lại để chờ. Qua mấy hôm chợt người canh cổng vào báo Diệp sinh tới, ông mừng rỡ
ra đón hỏi han. Sinh nói: “Vì cái bệnh của kẻ hèn để đại nhân phải chờ lâu,
lòng rất áy náy, nay may đã có thể theo hầu.”

Ông bèn
gói ghém hành trang đi sớm, về tới làng sai con thờ sinh làm thầy, sớm tối bên
nhau. Công tử tên Tái Xương, năm ấy mười sáu tuổi, chưa biết làm văn nhưng rất
thông minh, sách vở thơ phú đọc qua hai ba lần là nhớ không sót một chữ. Được
một năm thì công tử hạ bút thành văn, thêm có ông lo toan nên được vào học
trường huyện. Sinh chép lại tất cả văn chương cử nghiệp của mình đã làm cho
công tử học, đến khi vào trường thi, bảy đầu đề không sai đề nào, công tử liền
đỗ á khôi.

Một hôm
ông nói với sinh: “Ông bỏ ra một mối tơ thừa mà giúp thằng nhỏ thành danh, nhưng
quả chuông vàng bị vứt bỏ mãi thì làm sao?” Sinh nói: “Điều đó là có số mệnh.
Ta mượn phúc trạch của đại nhân mà hà hơi cho văn chương để người đời biết rằng
nửa đời lận đận không phải vì kém tài, thế là thỏa nguyện rồi. Vả lại kẻ sĩ
được một người biết đã đủ không ân hận, cần gì phải đỗ đạt mới đắc chí?”

Ông thấy
sinh xa nhà đã lâu, sợ lỡ kỳ sát hạch hàng năm, khuyên nên về thăm. Sinh rầu rĩ
không vui, ông không nỡ ép bèn dặn công tử khi đến kinh thì nộp tiền mua chức
cho sinh. Công tử lại đỗ kỳ thi hội, được bổ chức Chủ chính trong bộ, đưa sinh
vào Giám, sớm tối có nhau.

Qua năm
sau sinh thi hương ở kinh đỗ Cử nhân, gặp lúc công tử được bổ chức Điển vụ ở Hà
Nam, nhân nói với sinh: “Chuyến này đi không xa quý hương, nay tiên sinh đắc
chí mây xanh, áo gấm về làng cũng hay.” Sinh cũng mừng liền chọn ngày tốt lên
đường, tới địa giới Hoài Dương thì công tử sai người ngựa đưa sinh về.

Tới nhà
thấy cổng ngõ tiêu điều, sinh bùi ngùi lững thững đi vào sân. Vợ cầm cái nia đi
ra, thấy sinh thì vứt xuống hoảng sợ bỏ chạy. Sinh buồn rầu nói: “Ta nay đã nên
danh phận, mới ba bốn năm không gặp, sao lại như không quen nhau thế?” Vợ đứng
xa nói: “Chàng chết đã lâu, sao còn nói là nên danh phận? Sở dĩ còn quan linh
cữu trong nhà là vì nhà nghèo con nhỏ mà thôi. Nay con cũng đã khôn lớn, đang
tìm đất chôn cất, chàng đừng hiện hồn để dọa người còn sống.” Sinh nghe nói
ngậm ngùi, lững thững đi vào trong phòng, nhìn thấy linh cữu mình liền ngã
xuống đất biến mất. Vợ kinh hãi nhìn lại chỉ thấy áo mũ không như cái xác ve
lột, vô cùng thương xót ôm lấy khóc lóc.

Con trai
sinh đi học về, thấy ngựa xe trước cổng bèn hỏi han rồi hoảng sợ chạy vào báo
cho mẹ, mẹ gạt nước mắt kể lại, lại hỏi kỹ những người theo hầu mới biết rõ đầu
đuôi. Người theo hầu về báo, công tử nghe tin nước mắt ròng ròng, lập tức sai
thắng xe ngựa tới nhà sinh khóc lóc rồi bỏ tiền ra làm ma chay, chôn cất sinh
theo lễ Hiếu liêm. Lại tặng tiền bạc cho con sinh rất hậu, đón thầy về dạy cho
và nói với quan Học sứ, qua năm sau con sinh được vào học trường huyện.

Dị Sử thị nói: Hồn theo tri kỷ
nên quên cái chết ư? Người khác nghe thì ngờ chứ ta thì tin lắm. Thiến Nương
cùng lòng, hồn từng lìa khỏi gối[1], bạn bè ngàn dặm, dường còn nhận
trong mơ[2], huống hồ tơ tằm vết nhặng, văn nhân quen bày tỏ tâm can[3],
nước chảy non cao[4], học giả vẫn coi như tính mạng sao! Than ôi,
gặp gỡ khó hẹn ngày, tao phùng không xứng ý nên hành tung trôi nổi để trước
bóng ôm sầu, ngạo khí lăng tằng mà gãi đầu xót phận, than mặt mày tê gió bụi,
bị ma quỷ tới cợt đùa[5]. Ngoài bảng Tôn Sơn[6], thơ phú
theo công danh lạt lẽo, trong phường thi rớt, tóc râu cùng năm tháng phôi pha.
Khóc ròng suốt trong kim cổ, chỉ có Biện Hòa[7], ngựa hay không được
đoái hoài, nào ai Bá Nhạc[8]. Ôm danh thiếp ba năm nhạt chữ[9],
nhìn thân mình bốn bể không nhà. Người sống trên đời chỉ nên nhắm mắt đưa chân,
mặc cho con tạo xoay vần mà thôi. Chứ trên đời những người tài giỏi mà lận đận
như Diệp sinh chắc cũng không ít, mà lại muốn có Lệnh Uy trở lại[10]
để họ theo mà sống chết chăng? Ôi!

[1] Ly hồn ký chép Trương Dật có con gái
tên Thiến Nương rất xinh đẹp, đã hứa gả cho cháu là Vương Trụ, sau có người
khác tới hỏi cưới, Dật ưng thuận. Cô gái nghe tin rất uất ức, Trụ cũng căm hờn
bỏ đi, nửa đêm thấy một người lên thuyền theo, nhìn ra thì là cô gái, bèn đưa
nhau trốn đi. Năm năm sau sinh được hai con trai, cô gái nhớ cha muốn về thăm,
Trụ về trước xin lỗi Dật thì Thiến Nương đã bệnh nằm liệt giường năm năm rồi.
Đến khi cô gái vào nhà thì cô gái trong phòng mừng rỡ chạy ra, hai người liền
nhập vào làm một.

[2] Hàn phi tử chép thời chiến quốc Trương
Mẫn và Cao Huệ chơi thân với nhau, Mẫn nhớ Huệ nhưng đường xa không đi thăm
được bèn tìm tới Huệ trong giấc mộng nhưng nửa đường lạc lối phải quay về, như
thế ba lần.

[3] Tơ tằm từ câu trong Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp: “Chương cú tại thiên như kiển
chi trừu tự” (Câu chữ trong bài như rút tơ tằm trong kén), chỉ việc dụng công
làm văn.

Vết nhặng nguyên văn là “nhăng tích”, chưa
rõ điển tích song có lẽ cũng chỉ việc làm văn nói chung. Văn nhân... tâm can
lấy tích Lý Hạ thời Đường ra khỏi nhà thì dắt tiểu đồng mang cái túi gấm cũ
theo, nghĩ được câu thơ nào hay là viết bỏ vào túi, chiều tối trở về ngồi nghĩ
cho thành bài, bà mẹ nói: “Con thì phải tỏ bày cho hết gan ruột mới chịu thôi.”

[4] Nước chảy non cao: nguyên văn là “lưu
thủy cao sơn”. Lữ thị Xuân thu chép Bá Nha đánh đàn, Chung Tử Kỳ ngồi nghe, lúc
Bá Nha nghĩ tới núi cao, Tử Kỳ nói: “Hay làm sao, vòi vọi như núi Thái,” lúc Bá
Nha nghĩ tới nước trôi, Tử Kỳ nói: “Hay làm sao, cuồn cuộn như nước chảy.” Sau
người ta dùng tích này chỉ kẻ tri âm tri kỷ.

[5] Ma quỷ tới cợt đùa: Thế thuyết chép La
Hữu thời Tấn nhà nghèo theo Hoàn Ôn, Ôn chu cấp cho nhưng không dùng. Sau trong
phủ Hoàn Ôn có người được cử làm Quận thú, Ôn mở tiệc đưa tiễn, Hữu tới sau
cùng. Ôn hỏi sao tới chậm, Hữu đáp: “Được lệnh ông gọi đã ra đi từ sáng sớm,
nhưng dọc đường gặp một con quỷ chế nhạo, nói: ‘Ta chỉ thấy ngươi tiễn người
khác đi làm quan chứ chẳng thấy người khác tiễn ngươi đi làm quan, vì vậy nên
tới muộn.’” Đây chỉ việc trắc trở công danh.

[6] Ngoài bảng Tôn Sơn: Thi thoại chép Tôn
Sơn thời Đường đi thi đỗ cuối bảng, có người cùng dự thi vờ tới hỏi thăm, Sơn đáp:
“Cuối bảng là Tôn Sơn, người khác thì ngoài bảng.” Đây chỉ việc thi rớt.

[7] Hàn Phi tử chép Biện Hòa người nước Sở
dâng viên ngọc chưa đẽo gọt cho Hoài vương, Hoài vương cho là viên đá bèn chặt
chân trái của Hòa. Hoài vương chết, Hòa lại dâng cho Bình vương, Bình vương
cũng cho là khi quân, sai chặt chân phải của Hòa. Bình vương chết, Kinh vương
lên ngôi, Hòa ôm viên ngọc khóc dưới núi. Kinh vương biết chuyện sai thợ khéo
gọt giũa, phá lớp đá ngoài thì được một viên ngọc rất đẹp, bèn phong Hòa làm
Lăng Dương hầu. Cả câu ý nói có tài mà không được ai biết tới.

[8] Chiến quốc sách chép Bá Nhạc giỏi xem
tướng ngựa, một hôm vào chợ bán ngựa chơi, có người bán ngựa hay tới nói: “Ta
đứng bán ở đây đã ba ngày mà không ai hỏi tới. Nhờ ông đi một vòng rồi tới nhìn
ngựa của ta, nhìn xong quay đi nhưng lại ngoái đầu nhìn lại, ta xin dâng số
tiền lời của một ngày.” Nhạc theo lời, chỉ trong một buổi sáng người ấy đã bán
được giá gấp mười. Đây ý nói có tài mà không được ai giúp đỡ tiến cử.

[9] Hậu Hán thư, Trương Hành truyện chép
Trương Hành tới đất Lạc chơi, mang theo một tấm danh thiếp nhưng không có ai để
yết kiến mà đưa nên lâu ngày chữ trên tấm danh thiếp phai hết.

[10] Lệnh Uy trở lại: Hậu Sưu thần ký chép
Đinh Lệnh Uy là người Liêu Đông vào núi Linh Hư học đạo, sau hóa thành con chim
hạc bay về quê đậu trên cây hoa biểu nói: “Hữu điểu hữu điểu Đinh Lệnh Uy, Khứ
gia thiên niên kim thủy quy. Thành quách như cố nhân dân phi, Hà bất học tiên
gia luy luy” (Có chim có chim Đinh Lệnh Uy, Học đạo ngàn năm nay mới về, Thành
quách như xưa người đã khác, Sao chẳng theo tiên hóa hạc đi).

11. Vị tiên họ Thành[1]

[1] Thành Tiên.

Chu sinh
người huyện Văn Đăng (tỉnh Sơn Đông) cùng Thành sinh học chung từ nhỏ nên kết
thành bạn thân. Thành nhà nghèo, quanh năm phải nhờ vả Chu, so về tuổi thì Chu
lớn hơn nên Thành gọi vợ Chu là chị dâu, giỗ tết qua lại như một nhà.

Vợ Chu
sinh được một trai thì bị bạo bệnh chết, Chu cưới vợ kế họ Vương, Thành vì nàng
nhỏ tuổi nên chưa từng xin gặp mặt. Một hôm em trai Vương thị tới thăm chị, Chu
bày tiệc mời ở nhà trong. Gặp lúc Thành tới chơi, người nhà vào báo, Chu sai
mời vào. Thành không vào mà từ tạ ra về, Chu bèn dời tiệc ra nhà ngoài rồi đuổi
theo gọi Thành quay lại. Vừa ngồi vào bàn thì có người vào báo tin đầy tớ giữ
trại cho nhà Chu bị quan huyện phạt đánh rất đau.

Nguyên là
đầy tớ chăn trâu nhà quan Lại bộ họ Hoàng để trâu xéo lên ruộng của Chu nên đôi
bên cãi nhau, tên chăn trâu chạy về báo với chủ bắt đầy tớ của Chu giải lên
quan phạt đánh thật nặng. Chu hỏi rõ đầu đuôi rồi nổi giận nói: “Thằng đầy tớ
chăn lợn họ Hoàng kia sao dám làm thế. Cha nó còn phải hầu hạ ông nội ta, vừa
đắc chí đã không coi ai ra gì à?” Rồi giận sôi lên đứng phắt dậy định qua tìm
Hoàng, Thành ấn ngồi xuống nói: “Thời buổi ngang ngược này vốn không phân đen
trắng, huống chi quan lại ngày nay quá nửa là lũ cướp, chỉ là không cầm giáo
đeo cung thôi.”

Chu không
nghe, Thành năn nỉ mấy lần rơi cả nước mắt mới chịu thôi nhưng vẫn không nguôi
giận. Trằn trọc suốt đêm, sáng ra nói với gia nhân: “Họ Hoàng khinh ta thì ta
tức, nhưng cứ để đó. Còn quan huyện là quan của triều đình chứ không phải là
quan của bọn quyền thế, nếu có chuyện tranh chấp thì cũng phải hỏi cả đôi bên
chứ sao lại như con chó suỵt đâu chạy đó được? Ta cũng kiện đầy tớ nhà kia xem
y phân xử thế nào.”

Đám gia
nhân đều vun vào, Chu bèn quyết ý cầm đơn kiện tới gặp quan huyện. Quan huyện
xé đơn ném xuống đất, Chu tức giận chửi mắng, quan vừa thẹn vừa tức bèn bắt
giam Chu. Gần trưa Thành qua thăm mới biết Chu đã lên huyện thưa kiện, vội đuổi
theo cản lại thì Chu đã bị giam vào ngục, giẫm chân không biết làm sao.

Lúc bấy
giờ vừa bắt được ba tên giặc biển, quan huyện và Hoàng đút tiền dặn chúng khai
Chu là đồng đảng rồi vịn vào đó mà lột mũ áo nhà nho, tra tấn tàn nhẫn. Thành
vào ngục thăm nhìn nhau cay đắng, bàn việc lên kinh kêu oan. Chu nói: “Nay
vướng vào trọng án như chim trong lồng, tuy có chú em yếu ớt cũng chỉ làm được
việc đưa cơm tù mà thôi.”

Thành sốt
sắng nhận đi, nói: “Đây là phận sự của ta, lúc có nạn không giúp nhau thì còn
bạn bè làm gì.” Rồi lập tức lên đường, em Chu định đưa tiền lộ phí thì đã đi
lâu rồi. Thành tới kinh đô, chưa biết tới cửa nào kêu thì nghe đồn vua sắp đi
săn bèn tính toán núp trong khu chợ gỗ, kế xa giá đi qua liền ra sụp lạy kêu
khóc. Sớ được chuẩn xét giao cho dịch trạm chuyển về bộ viện thẩm tra tâu lại.

Lúc ấy vụ
án đã qua hơn mười tháng, Chu đã bị khép bừa vào tội hình. Hình viện nhận được
ngự phê hoảng sợ, cho thẩm xét lại bản cung khai và lời nghị án. Hoàng cũng sợ,
mưu giết Chu bèn hối lộ cho người coi ngục để tuyệt đường cơm nước. Em Chu mang
thức ăn vào thăm cũng bị cấm ngặt, Thành lại tới Hình viện tố cáo sự khuất
khúc, Chu được gia ơn đem ra hỏi cung thì đã đói lả không dậy nổi. Quan Hình
viện tức giận cho đánh chết người coi ngục, Hoàng khiếp đảm phải bỏ ra mấy ngàn
lượng vàng chạy chọt nên được mập mờ xóa tội, quan huyện thì vì làm trái pháp
luật bị đi đày. Chu được thả về, càng phục Thành là can đảm.

Thành sau
vụ kiện tụng thì tình đời nguội lạnh bèn rủ Chu cùng đi ở ẩn, nhưng Chu còn đắm
đuối vợ trẻ nên nghe nói thì cười là viển vông, Thành tuy không đáp song đã
quyết ý. Sau khi chia tay, mấy ngày không thấy tới, Chu sai qua nhà thăm dò thì
người nhà nghĩ rằng đang ở nhà Chu, cả hai nơi đều không thấy mới nghi ngờ. Chu
biết là có chuyện lạ, sai người đi dò hỏi khắp các chùa quán hang động, thỉnh
thoảng lại đem vàng lụa chu cấp cho con Thành.

Tám chín
năm sau Thành chợt tìm về, đội khăn vàng mặc áo lông, rõ ràng là đạo sĩ. Chu cả
mừng nắm tay hỏi: “Anh đi đâu làm ta tìm khắp nơi?” Thành cười đáp: “Mây ngàn
hạc nội không ở nơi nào nhất định, nhưng sau khi chia tay may vẫn mạnh khỏe.”

Chu sai
bày tiệc, nói qua nỗi niềm xa cách, muốn Thành hoàn tục nhưng Thành chỉ cười
không nói. Chu bảo: “Ngu thay! Sao có thể bỏ vợ con như đôi giày rách được?”
Thành cười nói: “Không phải thế, người định bỏ ta chứ ta đâu bỏ được ai?” Hỏi
nơi ở, Thành đáp là trên cung Thượng Thanh núi Lao Sơn. Kế nằm gác chân ngủ,
Chu mơ thấy Thành trần truồng đè lên người mình nặng muốn tức thở, kinh ngạc hỏi
làm gì nhưng Thành không đáp.

Giật mình
tỉnh dậy gọi không thấy Thành lên tiếng, nhỏm dậy mò thì đã đi đâu mất. Lát sau
định thần mới biết đang trên giường của Thành, hoảng sợ nói: “Tối qua không say
mà sao lẫn lộn đến thế này?” Bèn gọi người nhà, người nhà thắp đèn lên thì thấy
rõ ràng là Thành. Chu vốn nhiều râu bèn lấy tay sờ thì thấy cằm lơ thơ chỉ có
vài sợi, liền cầm gương soi rồi ngạc nhiên nói: “Thành sinh ở đây thì ta đi đâu?”
Kế sực hiểu ra, biết Thành dùng ảo thuật gọi mình đi ở ẩn, muốn vào phòng vợ
nhưng em trai thấy mặt mũi khác hẳn nên ngăn lại không cho. Chu cũng không có
cách nào làm rõ liền sai sắp ngựa và đầy tớ đi tìm Thành.

Mấy ngày
thì tới núi Lao, ngựa chạy nhanh nên đầy tớ theo không kịp, Chu dừng lại dưới
gốc cây chờ. Thấy khách mặc áo lông qua lại rất đông, trong có một đạo nhân đưa
mắt nhìn, Chu nhân hỏi Thành thì đạo sĩ cười đáp: “Cũng có nghe tên, hình như ở
cung Thượng Thanh,” nói xong bỏ đi. Chu nhìn theo thấy ông ta đi xa khoảng hơn
một tầm tên lại dừng lại chuyện trò với một người, cũng chỉ vài câu rồi đi.
Người kia dần dần tới gần thì ra là một người bạn học, thấy Chu kinh ngạc hỏi:
“Bao nhiêu năm không gặp, nghe người ta nói ông lên non học đạo mà nay còn dạo
chơi ở nhân gian sao?” Chu kể lại chuyện lạ, người kia giật mình nói: “Thế thì
ta vừa gặp Thành sinh mà tưởng là ông. Mới đi chưa bao lâu, chắc cũng không xa
đâu.”

Chu rất
lạ lùng, nói: “Quái thật, sao mặt mũi của mình mà nhìn thấy lại không nhận ra
được thế?” Người đầy tớ cũng vừa tới, vội đuổi theo nhưng không thấy bóng dáng
Thành đâu, nhìn lên chỉ thấy mịt mù xa tắp, không biết nên đi hay về. Kế tự
nghĩ không biết về đâu bèn quyết ý đuổi theo tới cùng, nhưng đường cheo leo
hiểm trở không đi ngựa được bèn đưa ngựa cho đầy tớ dắt về, lần mò đi tiếp.
Thấy xa xa có đứa tiểu đồng ngồi một mình vội rảo bước tới gần hỏi đường, nói
rõ duyên cớ. Tiểu đồng tự xưng là đệ tử của Thành rồi mang giúp khăn gói dẫn
Chu cùng đi, dãi gió dầm sương lặn lội rất xa, ba ngày mới tới lại không phải
nơi thế gian vẫn gọi là cung Thượng Thanh.

Bấy giờ
là giữa tháng mười mà hoa rừng nở đầy lối đi, không giống như đầu mùa đông.
Tiểu đồng vào báo tin khách tới, Thành lập tức ra đón, Chu mới nhận ra hình
dáng của mình. Thành cầm tay dắt vào bày tiệc trò chuyện, Chu thấy có nhiều
chim chóc màu sắc lạ lùng dạn dĩ, tiếng như đàn sáo cứ tới đậu ngay chỗ ngồi mà
hót, rất lấy làm lạ nhưng lòng trần còn tha thiết không có ý ở lại. Dưới đất
trải hai tấm bồ đoàn, Thành kéo cùng ngồi, đến quá canh hai thì muôn mối lo
nghĩ đều lặng xuống, chợt như chớp mắt bỗng thấy mình và Thành lại đổi thân
hình cho nhau, ngờ vực đưa tay sờ cằm thì thấy rậm râu như cũ.

Sáng ra
Chu muốn về ngay, Thành cố giữ lại, qua ba ngày thì nói: “Xin cứ nghỉ một lúc,
sáng sớm sẽ đưa ông về.” Vừa thiu thiu thì nghe Thành gọi: “Hành trang đã sẵn
rồi?” Bèn trở dậy theo đi, thấy đường khác hẳn lối cũ.

Không bao
lâu thì thấy làng quê hiện ra trước mắt, Thành ngồi đợi bên đường bảo cứ tự về.
Chu lôi kéo không được đành lủi thủi đi, về tới cổng nhà gõ không thấy thưa,
đang định trèo tường vào thì cảm thấy thân nhẹ như chiếc lá, nhảy một cái đã
qua khỏi, vượt mấy lớp tường thấp thì tới phòng ngủ. Thấy bên trong đèn đuốc
sáng trưng, vợ còn chưa ngủ mà đang rì rầm trò chuyện với người khác. Chu nhấm
nước bọt chọc thủng giấy dán cửa sổ nhìn vào thì ra vợ đang uống rượu với một
tên đầy tớ, bộ dạng rất lả lơi. Chu giận sôi lên toan xông vào bắt nhưng sợ có
một mình không thắng nổi bèn lặng lẽ lui lại mở cửa chạy ra nói với Thành nhờ
giúp sức. Thành hăng hái đi theo thẳng tới phòng ngủ, Chu vác đá đập cửa, bên
trong hoảng sợ nháo nhác. Chu càng đập gấp nhưng cửa đóng rất chặt, Thành rút
gươm đưa một nhát, cánh cửa toác ra. Chu sấn vào, tên đầy tớ lao ra cửa chạy,
bị Thành đứng ngoài vung gươm chém đứt cánh tay tới tận vai. Chu bắt vợ tra vấn
mới biết lúc mình bị giam thì nàng đã tư thông với tên đầy tớ, bèn mượn gươm
chặt đầu vợ, khoét ruột treo lên cành cây trước sân rồi theo Thành trở ra.

Đang tìm
đường về núi chợt giật mình tỉnh dậy thì thấy vẫn còn nằm trên giường, hoảng sợ
nói: “Mộng mị bậy bạ làm rợn cả người.” Thành cười nói: “Mơ thì ông cho là
thật, thật thì lại cho là mơ.” Chu ngạc nhiên hỏi, Thành đưa gươm ra cho xem
thì vết máu vẫn còn, Chu sợ phát khiếp nhưng thầm ngờ là Thành dùng ảo thuật
lừa dối. Thành biết ý bèn sắp sửa hành trang đưa Chu về. Phút chốc tới đầu
làng, Thành nói: “Đêm ấy chẳng phải là ta chống kiếm đợi ở đây sao! Ta đã chán
cuộc đời nhơ đục, xin lại đợi ông ở đây. Nếu quá trưa mà ông không ra, ta sẽ đi.”

Chu tới
nhà thấy cổng ngõ tiêu điều như không có người ở, bèn vòng qua nhà em. Em Chu
thấy anh thì sa nước mắt kể: “Sau khi anh đi, đang đêm cướp vào giết chị rồi
khoét ruột bỏ đi, vô cùng thê thảm, đến nay quan lùng bắt chưa được.” Chu như
chợt tỉnh mộng bèn kể lại sự tình thật, dặn đừng truy cứu nữa, em Chu sững sờ
hồi lâu. Chu hỏi thăm con trai mình, em gọi bà vú bế tới, Chu nói: “Đứa nhỏ còn
bọc tã lót này quan hệ tới việc nối dõi tông đường, em nên cố chăm sóc chứ anh
nay muốn từ giã cõi trần rồi.”

Rồi đứng
lên đi ra, em trai nước mắt giàn giụa đuổi theo giữ lại, Chu chỉ cười đi thẳng
không ngoái lại. Ra tới ngoài làng gặp Thành liền cùng đi, đi xa mới quay lại
dặn: “Ở đời thì việc nhẫn nhục là vui nhất.” Em còn muốn nói thì Thành khoát
tay một cái, lập tức không thấy đâu nữa, bèn ngẩn ra hồi lâu rồi khóc lóc trở
về.

Em Chu là
người chất phác vụng về, không biết coi sóc người nhà làm ăn nên qua vài năm
nhà càng nghèo, con Chu dần lớn lên không thể đón thầy nên phải tự mình dạy
cháu học.

Một hôm
sáng sớm tới phòng sách, thấy trên bàn có một phong thư dán kín, ngoài đề gởi
em trai. Cầm xem thì đúng là nét chữ của anh, mở ra thì trong không chẳng có
gì, chỉ thấy một cái móng tay dài khoảng hai đốt tay, lấy làm kỳ quái. Bèn đặt
cái móng lên nghiên mực rồi bước ra hỏi người nhà thư từ đâu tới nhưng không ai
biết, quay vào nhìn thì cái nghiên đá đã biến thành vàng lóng lánh, vô cùng
ngạc nhiên, đem thử lên đồng sắt đều như thế.

Từ đó
giàu to, đem ngàn vàng cho con Thành, vì thế người ta đồn rằng hai nhà này có
thuật điểm kim.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3