Liêu Trai chí dị (Tập 2) - Quyển XVI - Chương 434
26. Bài ký Trĩ Xuyên[1]
[1] Trĩ Xuyên ký.
Con nhà họ Lý ở Cô Tàng, gặp thời loạn lạc, trốn vào núi Thái
Bạch, xõa tóc mặc áo vải, dứt hết trần duyên, quy y Tam bảo, đạo hiệu là Khế
Hư. Không ăn cơm gạo, hàng ngày ăn lá bách đỡ lòng, như thế đã nhiều năm. Một
hôm có đạo sĩ Kiều Quân dung mạo thanh tú, râu tóc trắng xóa tới thăm Khế Hư, nói:
“Cốt cách của sư rất thanh tú sau này nên rong chơi nơi tiên đô.” Khế Hư nói: “Ta
là người trần tục, làm sao tới được tiên đô?” Kiều Quân nói: “Tiên đô rất gần, sư
có thể đi.” Khế Hư nhân xin Kiều Quân chỉ đường, Kiều Quân nói: “Sư nên chuẩn
bị thức ăn chờ ở quán trọ tại Thương Sơn, phàm thấy người nào mang giỏ tre đi
buôn, thì cứ mời ăn. Có ai hỏi sư đi đâu, sư cứ nói là muốn tới Trĩ Xuyên, người
ấy sẽ dẫn sư đi.” Khế Hư nghe xong, vui vẻ ra mặt, lập tức tới Thương Sơn, ngụ trong quán trọ, chuẩn
bị thức ăn ngon để cho những người buôn bán qua lại Thương Sơn.
Ở đó liên tiếp mấy tháng, gặp hơn trăm người bán hàng rong
mang giỏ tre, đều ăn xong rồi đi, hoàn toàn không có lễ phép gì, lòng cung kính
của Khế Hư cũng hơi giảm. Lại cho rằng Kiều Quân lừa dối, định về Trường An. Đã
chuẩn bị hành trang, chợt có một người bán hàng rong mang giỏ tre, tuổi còn rất
trẻ, đột nhiên bước vào, hỏi Khế Hư: “Sư định đi đâu?” Khế Hư nói: “Ta muốn lên Trĩ Xuyên gần
một năm nay rồi.” Thiếu niên kinh ngạc nói: “Trĩ Xuyên là cõi thần tiên, sư làm
sao tới được?” Khế Hư đáp: “Ta từ nhỏ đã hâm mộ thần tiên, từng gặp bậc chí
nhân khuyên ta tới Trĩ Xuyên, nhưng chưa biết đường thế nào.” Thiếu niên nói: “Trĩ
Xuyên cách đây trong gang tấc, sư có thể theo ta, có thể không bị ngăn trở.”
Khế Hư nói: “Nếu quả được tới Trĩ Xuyên, thì có chết cũng không hối hận.” Thiếu
niên dẫn Khế Hư tới Lam Điền, mua thức ăn, rồi trong đêm ấy lên Ngọc Sơn, qua
chỗ cheo leo, lên chỗ dốc hiểm, tất cả có tám mươi nơi. Tới một cái động, thấy
trong động có nước chảy ra. Thiếu niên và Khế Hư lấy giỏ tre đựng đá tráng lấp
cửa động, để chặn dòng nước. Sau ba ngày, nước trong động mới cạn, hai người
bước vào, tối tăm không thể nhìn thấy vật gì. Thấy một cánh cửa cách vài mươi
bước, bèn đi tới đó.
Ra khỏi cánh cửa thì mặt trời tỏa sáng, gió mát hiu hiu, sơn
thủy xinh tươi, cảnh tiên hiển hiện trước mắt. Lại đi hơn trăm bước, thấy một
hòn núi cao, đỉnh núi chót vót, đường lên cheo leo, Khế Hư hoa mắt không dám
lên. Thiếu niên nói: “Tiên đô đã sát bên, sao còn chần chừ?” Rồi kéo tay Khế Hư
đi. Lên tới đỉnh núi, là một bãi đất phẳng. Nhìn xuống sông ngòi đồng ruộng
phía dưới, xa tít không thấy rõ. Lại đi hơn trăm dặm, vào một cái động. Đến khi
ra, thấy có hồ nước rộng mênh mông, cạnh hồ có một con đường lát đá rộng hơn
thước, lại theo đó đi hơn trăm dặm. Thiếu niên dẫn Khế Hư theo đường đá đi, tới
chân núi, phía trước có cây cổ thụ, cành lá rậm rạp, khói mây giăng mắc, cao
mấy mươi tầm. Thiếu niên trèo lên cây hú dài, hồi lâu chợt có gió thu nổi lên
đầu cành cây, kế thấy có sợi dây lớn buộc một cái giỏ trúc từ đỉnh núi thả
xuống. Thiếu niên bảo Khế Hư nhắm mắt ngồi vào giỏ.
Khoảng nửa ngày, thiếu niên nói: “Sư có thể mở mắt ra nhìn
rồi.” Khế Hư đã quên mình đang trên đỉnh núi, nhìn thấy thành quách cung khuyết
vàng ngọc chớp sáng ngoài cõi ráng mây. Thiếu niên chỉ nói: “Đó là Trĩ Xuyên.”
Lúc ấy bèn giải thích những gì trước mắt. Có bọn tiên đồng hơn trăm người xếp
hàng trước sau, một người tiên hỏi thiếu niên: “Nhà sư này là ai, là người nhân gian à?”
Thiếu niên đáp: “Nhà sư này tên Khế Hư, thường muốn tới Trĩ Xuyên, nên ta dắt
tới đây.” Kế tới một điện, có người cài trâm cầm hốt ngồi dựa vào ghế ngọc, dáng
vẻ rất oai nghiêm, thị vệ xúm quanh vòng trong vòng ngoài, quát tháo rất dữ
tợn. Thiếu niên bảo Khế Hư cúi đầu bước lên ra mắt, nói: “Đó là Trĩ Xuyên chân
quân.” Khế Hư cúi lạy. Chân quân triệu Khế Hư lên, hỏi: “Ngươi đã dứt bỏ được
Tam Bành chưa?” Khế Hư không sao trả lời. Chân quân nói: “Cẩn thận đừng ở lại
đây quá lâu.”
Rồi sai thiếu niên dẫn lên đình Thúy Hà. Ngôi đình ấy vươn ra
không trung, lan can chạm mây, thấy một người phanh áo chớp mắt, tóc dài mấy
mươi thước, da dẻ xám xịt, chỗ mắt và ngực lõm vào. Thiếu niên nói: “Sư có thể
ra mắt vái chào.” Khế Hư hỏi: “Người này là ai, chớp mắt là nhìn cái gì?” Thiếu
niên nói: “Đó là Dương Ngoại lang, vốn là Tôn thất nhà Tùy, từng làm Ngoại lang
ở Nam cung, cuối thời Tùy thiên tử hoang dâm, thiên hạ phân tranh, bốn phương
binh lửa, nước thuộc người khác. Vì thế ty địa vào núi, nay đã đắc đạo. Đó
không phải là chớp mắt mà là nhìn thấu qua. Phàm người nhìn thấu qua thì thấy
rõ cả thế gian.” Khế Hư nói: “Xin ông ta đừng chớp mắt có được không?” Thiếu
niên bèn dẫn tới vái chào cầu xin. Ngoại lang chợt không chớp mắt nữa. Nhưng
hai mắt phát ra ánh sáng sáng rực như mặt trăng mặt trời, mở nhắm cũng như nhau,
không sao che được. Khế Hư sợ sệt toát mồ hôi lưng, lông tóc đều dựng đứng.
Kế lại thấy một người nằm trên vách đá, thiếu niên nói: “Người
ấy họ Nhất, tên Chi Nhuận, cũng là người nhân gian đắc đạo mà tới đây.” Thiếu
niên dẫn Khế Hư trở về, vẫn theo đường cũ. Khế Hư nhân hỏi thiếu niên: “Trước đây ta ra mắt chân
quân, chân quân hỏi ta chuyện Tam Bành, ta không trả lời được, xin hỏi đó là ý
nghĩa gì?” Thiếu niên nói: “Phàm Bành là họ của Tam Thi, thường sống trong thân
thể con người, chờ xét công tội. Mỗi khi đến ngày Canh Thân thì báo lên Thượng đế. Cho nên
phàm những người tu tiên, trước tiên phải trừ tuyệt Tam Thi, như thế thì có thể
đạt đạo. Nếu không thì tuy khổ công cũng vô dụng.” Khế Hư hiểu ra, từ đó trở về
làm nhà ở núi Thái Bạch, tuyệt cốc luyện khí, chưa từng kể lại chuyện Trĩ Xuyên
cho người khác. Về sau dời tới ở dưới núi Hoa Sơn.
Có Trịnh Thân người Vinh Dương, Thẩm Luật người Ngô Hưng cùng
từ Trường An ra, đi ngang Hoa Sơn, gặp lúc trời tối mưa lớn, hai người dừng
lại. Khế Hư đã tuyệt cốc, nên không mời cơm. Trịnh Thân lấy làm lạ vì Khế Hư
không ăn mà da dẻ vẫn hồng hào, nhân hỏi sự thật. Khế Hư mới kể lại chuyện Trĩ
Xuyên. Trịnh vốn là người hiếu kỳ, nghe được chuyện ấy vừa than thở vừa ngạc
nhiên, đến khi từ Quan Đông trở về ghé lại thì Khế Hư đã dọn đi không biết ở
đâu. Trịnh quân từng ghi lại truyện ấy, gọi là Trĩ Xuyên ký.
27. Người nước ngoài[1]
[1] Ngoại quốc nhân.
Mùa thu năm Kỷ Tỵ, ở Lĩnh Nam có một chiếc thuyền lớn ngoài biển gặp bão dạt
vào, trên có mười một người. Đều mặc áo bằng lông chim, vằn vện rực rỡ, tự nói
là người nước Lữ Tống[2], gặp
bão đắm thuyền, mấy mươi người đều chết, chỉ còn mười một người bám vào thanh
gỗ lớn, trôi dạt tới một đảo lớn nên thoát chết. Ở lại đó năm năm, hàng ngày
tìm bắt chim chóc, côn trùng để ăn, đêm ngủ trong hang đá, dệt lông chim làm
áo. Chợt lại có một chiếc thuyền bị bão dạt vào, cột buồm cánh buồm đều không
có, đại khái cũng bị thổi gãy trên biển. Lúc ấy bèn lấy chiếc thuyền trở về.
Lại bị bão thổi vào Áo Môn (thuộc tỉnh Quảng Đông). Tuần phủ dâng sớ về triều, rồi
đưa họ về nước.
[2] Lữ Tống: tức Singapore.
28. Rắn sâu[1]
[1] Trập xà.
Quách sinh người huyện ta, mở trường dạy học ở trang Chi Hòa
Đông Sơn. Đồng tử có năm sáu người, đều vừa vào học. Phía nam phòng sách là nhà
xí, lại có một chuồng trâu dựng kề vào vách núi, trên vách núi cỏ mọc um tùm.
Bọn đồng tử vào nhà xí phần nhiều cả giờ mới ra. Quách quở mắng thì nói: “Tôi trong nhà xí
được lên mây.” Quách ngờ vực, lúc đồng tử vào nhà xí, bèn theo bên cạnh liếc
nhìn. Thấy bay lên trên không hai ba thước, lúc lên lúc xuống, thỉnh thoảng lại
bất động. Quách bước vào nhìn kỹ, thấy ở khe hở trên vách đá có một con rắn
ngẩng cao đầu, to như cái chậu, hút hơi phun lên. Bèn gọi người trong trang
cùng tới xem, chất lửa đốt vách đá, con rắn chết mà khe hở vỡ ra. Con rắn không
dài lắm, nhưng to bằng cái thùng. Đại khái bị chẹt ở trong không ra được, đã
qua nhiều năm.
29. Đầy tớ của họ Bao[1]
[1] Bao thị bộc.
Bao thị người Phiên Dương, ở ngoài cửa Tần Châu. Mua một con
ngựa, giao cho đầy tớ là Trình Tam nuôi nấng. Hàng ngày dắt ngựa ra bến sông
tắm, thường có con quạ khoang cổ trắng đậu xuống lưng ngựa ỉa, rất lo sợ, nhưng
đuổi đi nó lại trở lại. Lúc ấy
bèn uốn kim làm lưỡi câu, xâu vào sợi tơ dài, từ bụng ngựa buộc vòng lên lưng, móc
mồi để nhử. Con quạ ăn mồi nuốt luôn lưỡi câu, không sao thoát được. Trình móc
hai mắt quạ cho vào bọc về nhà, xin rượu của chủ nhân nuốt xuống. Từ đó mắt
ngày càng sáng, có thể nhìn thấy ma quỷ trong cõi hư không. Có tỳ nữ của họ Bao
trong bếp, thấy một con ma trợn mắt lè lưỡi, dưới cổ lòng thòng một sợi dây, núp
lén nhìn qua khe cửa, Trình vác gậy đập, con ma rên la hoảng sợ, dần dần lún
xuống đất biến mất. Đại khái trước kia có người thắt cổ ở chỗ ấy. Về sau mỗi
lần Trình ra ngoài đồng ắt nhìn thấy vật gì đó, tuy giống hình người, nhưng
chân tay thân thể phần nhiều không nguyên vẹn. Quát tháo đuổi tới, thường đều
bỏ chạy. Có người nói mắt con quạ ngàn năm có thể nhìn thấy vật giấu kín, hay
cái mà Trình nuốt là như thế chăng.
30. Tục đất Huy[1]
[1] Huy tục.
Người đất Huy phần nhiều hóa thành loài vật, ra ngoài kiếm
ăn. Có người khách nghỉ lại quán trọ, thấy bầy chuột chui vào khạp gạo, đuổi
thì bỏ chạy. Khách chờ lúc chui vào, mau lẹ đậy nắp lại, múc nước đổ vào trong,
lát sau đều chết. Cả nhà chủ nhân đột nhiên chết hết, chỉ còn một đứa con sống,
liền kiện lên quan. Quan theo tình tha cho người khách.
31. Tục đất Nguyên[1]
[1] Nguyên tục.
Lý Quý Lâm quyền giữ ấn triện Nguyên Giang. Lúc vừa tới đáo
nhiệm, thấy mèo chó đầy sảnh, lấy làm kinh ngạc. Liêu thuộc nói: “Đó là bách
tính dưới quê tới xem phong thái.” Giây lát số người và súc vật bằng nhau, lát
sau đều hóa thành người, nhao nhao tản đi. Một hôm, Lý ra ngoài gặp khách, kiệu đang đi trên đường,
chợt một người phu kiệu gọi lớn: “Tiểu nhân bị hại rồi!” Lập tức nhờ nha dịch khiêng giúp. Nha dịch
tức giận quát tháo cũng không nghe, cắm đầu chạy mau. Nha dịch đuổi theo sau, người
ấy vào trong chợ, tìm thấy một ông già liền tới nhờ xem. Ông già nói: “Là ngươi
ăn phải vật lạ.” Bèn lấy tay vuốt vào bụng, từ trên xuống dưới, ra sức đẩy, đẩy
tới bụng dưới, thấy da thịt gồ lên, bèn lấy dao sắc rạch ra, lấy ra một hòn đá, nói: “Khỏi rồi,” người
ấy bèn chạy về. Lại nghe nói có người nằm trong nhà mà cánh tay thì bay đi, vào
nhà người ta trộm cắp tài vật. Nếu bị chủ nhân phát giác, buộc chặt cánh tay
không cho bay về, thì người ấy kể như mất một cánh tay.
32. Con ngựa có nghĩa[1]
[1] Nghĩa mã.
Lưu Thừa Tiết người Chiết Tây, làm quan thu thuế ở Cống Châu
được điều nhiệm, để gia đình ở lại đất Cống, chỉ cùng một con trai một đầy tớ
cưỡi ngựa lên đường. Tới Quý Khê, dừng ngựa vào nhà trọ nghỉ lại. Gặp mấy người
khách buôn mang hương đất Quảng, cùng ngồi hỏi han nhau từ đâu tới, muốn mua
hương của khách. Khách lấy ra cho xem, đều không vừa ý. Khách chế nhạo, Lưu nói:
“Ta tuy không giàu có, nhưng hương của ta còn hơn hàng này.” Nhân mở rương lấy
ra cho xem, trong rương có vài trăm lượng bạc, bọn khách lén nhìn trộm. Đến lúc
trời tối, đều ngủ lại. Bọn kia đều là cướp, đến khuya vác gậy xông vào phòng
Lưu. Lưu từ nhỏ tòng quân, có
sức khỏe, vung đao chém đứt một cánh tay, bọn cướp sợ hãi tan chạy.
Chủ nhân cũng là kẻ đồng mưu, bèn nói: “Bọn họ không thỏa
lòng, nhất định sẽ gọi thêm bè đảng tới, không thể ngủ yên được đâu, chẳng bằng
nhân lúc trời chưa sáng lên đường để tránh đi.” Lưu không ngờ là dối trá, gọi
người đầy tớ dậy, không chờ ăn sáng đã lên đường. Tới dưới gò cao, gặp bọn cướp, tuy ra sức
đánh nhau, nhưng ít khó chống nhiều, Lưu cùng con trai, đầy tớ đều bị giết. Vừa
lúc có một người lính đưa công văn đi qua, bọn cướp cũng giết chết, vứt xác
xuống hố, chia tiền bạc rồi tan đi, chỉ còn con ngựa quanh quẩn trên đường. Gặp
lúc có viên Chủ bạ đi công cán về, con ngựa tới đón trước xe, khuỵu chân như
lạy phục xuống, kế lúc lui lúc tiến, đuổi đi lại quay lại. Viên Chủ bạ lấy làm
lạ, nói: “Đây ắt có nỗi oan muốn tố cáo.” Bèn sai mấy người theo con ngựa. Tới
dưới dốc gò, con ngựa giẫm xuống đất đứng lại, thấy máu tươi đầy đất tanh nồng,
bốn cái xác trong huyệt vẫn còn ấm. Lập tức sai Lý chính truy nã tìm bắt, không
đầy buổi sáng đã bắt được tất cả bọn cướp, đều khép vào tội chết.
33. Vệ Sư Hồi
Vệ Uyên, tự Sư Hồi, người Đông A Trịnh Châu. Nghiện rượu thành
tật, thông minh hơn người nhưng lười đọc sách, hơn bốn mươi tuổi vẫn tay trắng
nghèo hèn, thủy chung chưa ra làm quan. Gặp lúc mùa hè nóng bức, Sư Hồi cùng
bạn bè đầu hồ uống rượu, say nằm dưới tường, mơ thấy mình đang ở chỗ khác. Chợt
có tin báo người nước Nhũng Miến vào cướp, cư dân dìu già cõng trẻ chạy tán
loạn. Sư Hồi hốt hoảng lủi trốn, đến khi trở về thì trong nhà đều đầy những
người bị bắt, một mình đi vào núi, bàng hoàng mấy năm, không chốn nương thân.
Chợt gặp ba người bạn cũ là Diêm Trung Phu, Lý Hanh Gia, Vương Miễn Phu, hỏi
han tình hình, cho biết vợ con đều không việc gì.
Sư Hồi cả mừng vì được quá cả lòng mong mỏi, bèn nói: “Ta
khốn khổ ba năm, đói rét phiêu linh, ăn bữa sáng không biết bữa tối, thường
nghĩ lúc gặp gỡ vui chơi trước kia, uống một hơi hết vài đấu rượu, nay muốn
được uống một chén cho đỡ khát, cũng không phải chuyện gì lớn. Các ông thấy sao?”
Trung Phu nói: “Cách đây vài dặm có quán rượu, nhị muội của ta coi việc hâm
rượu, rất xinh đẹp, cứ cùng tới thăm.” Sư Hồi càng mừng, vào tới chợ thì đúng
như lời Trung Phu. Sư Hồi đầu tiên uống một vò, lại gọi lấy thêm rượu, thấy a
hoàn bưng rượu ra có vẻ buồn rầu.
Sư Hồi trách nói: “Người hàng rượu gặp khách thì phải vui vẻ,
tại sao ngươi lại như thế?” A hoàn khóc nói: “Tiền bối không biết đó thôi. Vật
người vừa uống không phải là lúa mạch nấu ra, mà đều là tinh huyết của người
ta. Người là người cõi trần, lại vứt bỏ tiền trình, rước lấy tai họa, lúc chết
sẽ bị ép cốt tủy mà làm rượu,” Sư Hồi chớp chớp mắt không tin. Cô gái bèn dẫn
vào nhà trong, vòng qua sảnh lớn, thấy đồ nấu rượu bày la liệt, bên cạnh có hơn
trăm người trần truồng ngồi đó, nam nữ lẫn lộn. Có hai con quỷ lớn cầm kích
theo thứ tự xóc lên cho vào vò rượu, lấy đá lớn đè xuống. Máu từ miệng chảy ra,
giây lát thành rượu, Sư Hồi hoảng sợ tỉnh dậy. Nhìn thấy tiểu đồng đang hầu bên
cạnh, tân khách vẫn đang ngồi, tiếng đầu hồ vẫn khua lanh canh. Bèn kể lại giấc
mộng thì vốn chưa đầy một giờ, nhớ lại những điều đã trải qua, thì lại trong
vài năm. Người thời Đường chép truyện Thái thú Nam Kha[1] anh
đào áo xanh[2] giấc
mộng kê vàng ở Hàm Đan[3], việc
cũng tương tự Văn thiên lục chép việc Trương sinh xuống âm ty[4], cũng
rất giống chuyện này.
[1] Truyện Thái thú Nam Kha: Nam Kha
ký của Lý Công Tá thời Đường chép Thuần Vu Phồn ở Quảng Lăng, phía nam nhà ở có
cây hòe lớn, cành lá xanh tốt. Gặp hôm sinh nhật Phồn say rượu nằm ngủ, mơ thấy
tới nước Đại Hòe An, cưới công chúa, làm Thái thú quận Nam Kha hai mươi năm, sinh
năm trai hai gái, cực kỳ vinh hiển. Sau đánh nhau với giặc thua trận, công chúa
cũng chết, bị cách chức. Tỉnh dậy thấy nằm ở sân, mà mặt trời chưa lặn chén
rượu uống dở vẫn còn. Bèn đi tìm dưới gốc cây hòe, thấy một tổ kiến lớn, mới
sực nghĩ ra nước Đại Hòe An là bầy kiến dưới cây hòe, quận Nam Kha là một cành
hòe hướng về phía nam. Về sau người ta dùng từ “Nam Kha” để chỉ sự hư ảo của
vinh hoa.
[2] Anh đào áo xanh: nguyên văn là “Anh
đào thanh y”, chưa rõ là sách gì.
[3] Giấc mộng kê vàng Hàm Đan: xem
chú thích truyện Tục hoàng lương, quyển V.
[4] Chưa rõ là sách gì.
34. Thần sét[1]
[1] Lôi công.
Người dân ở Hào Châu tên Vương Tùng Giả, mẹ đang ngồi trong
sảnh, gặp lúc mưa nhỏ, sắc trời mờ tối. Thấy thần sét cầm chùy đập cánh sấn vào,
cả sợ vội cầm cái chậu đựng nước tiểu hắt ra. Thần sét bị dính bẩn, giống như bị đao búa
chém trúng, quay người chạy mau, hết sức nhảy lên mây mà không được. Lăn lộn
trước sân, rống lên như bò. Mây trên trời dần dần hạ xuống ngang mái hiên, trong
đám mây có tiếng ran ran như ngựa hí, ứng với tiếng của thần sét. Giây lát mưa
đổ như trút, thần sét rửa sạch được nước tiểu trên người, liền nổi sấm sét mà
đi.
35. Hai mươi bốn truyện ma[1]
[1] Quỷ trấp tứ tắc: Nguyên
bản in là “Quỷ nữ tứ tắc” (Bốn truyện nữ quỷ), nhưng thực tế có tới hai mươi ba truyện và không phải truyện nào cũng nói về nữ quỷ, rõ ràng
chữ “nữ” đã bị lầm từ chữ “trấp” (hai mươi) vì có tự hình tương tự, đây đính
lại như trên. Tuy nhiên bản Liêu Trai chí dị thập di chúng tôi dùng chỉ có hai mươi ba truyện, có lẽ bị in sót.
I
Nhà người dân thôn Dư Can là Trương Học Lễ, đã đi ngủ, mục đồng ở
chuồng bò nghe có tiếng gõ cửa, vội trở dậy ra nhìn. Thấy vài trăm tráng hán, đều
khoác giáp ngũ hoa, đội mũ đâu mâu đỏ xông vào, kế biến mất không thấy đâu nữa.
Đến sáng, năm mươi con bò trong chuồng đều chết, đại khái là ma ôn dịch
II
Điền Xác người Truy Xuyên, cháu gái lấy con Lưu Lang trung.
Lưu qua đời mấy năm, Điền thị bị bệnh, sai đầy tớ tới huyện bên cạnh gọi cháu
họ là Trương Mẫn Trung tới, định gửi gắm hậu sự, Trương chưa tới thì Điền đã
chết. Điền vốn có anh trai, cưới con gái họ Liêu ở huyện bên cạnh. Người ấy
chết, lại cưới cô em gái, lúc anh Điền chết, chỉ còn có người chị dâu sau, bèn
cùng Mẫn Trung tới viếng, ngụ ở gác Một Sơn chỗ Trương ở cũ. Lúc ấy là tháng
mười năm Giáp Thân. Đêm ấy
Liêu thị chợt đau tim, mời thầy thuốc tới chữa cũng hơi đỡ. Quá nửa đêm, định
ngồi dậy, ăn nói quàng xiên. Trương tới xem, thì là người chị nhập vào xác, trách
mắng em gái nói: “Lấy chồng chỗ nào không được, sao lại nhất định phải có chồng
chung với ta, lúc chồng ta chết cũng không đặt bài vị thờ ta, khiến ta quanh
năm không có nơi nương tựa. Không kéo ngươi cùng đi không được.” Mẫn Trung nài
nỉ nói: “Đây là do chú Điền, không phải là lỗi của thím hai. Đã là chị em một
nhà, sao lại nỡ làm thế?” Giây lát, chợt chắp tay nói: “Thúc ông vạn phúc,” lại
nói: “Khánh Tôn, ngươi cứ lên giường ngồi.” Thúc ông là Điền Xác cha Điền Tam
cô, Khánh Tôn là con út của Xác, đều đã chết. Đại khái ma quỷ đầy sảnh, người
chung quanh đều nổi gai ốc.
Trong giây lát lại biến đổi vẻ mặt nói giọng họ Điền, nhìn
Trương nói: “Tri huyện vì cô mà tới đây. Lúc cô sống có lời muốn nói, nay cũng
nên nói ra,” rồi gọi Trương tới trước mặt nói chuyện lúc cô chết anh chồng lấn
chiếm ruộng vườn và tỳ thiếp trộm cắp tiền bạc, lập ra danh sách, quả thật
không sai, lại dặn lập đứa con nuôi thứ hai làm con thừa kế họ Lưu. Lại hạ
giọng thì thào, như không muốn người khác nghe thấy. Hồi lâu ứa nước mắt nói: “Ta
không có tội gì lớn, sẽ không phải xuống địa ngục, nhưng đầu thai đường dài, chưa
thể siêu thoát thôi,” rồi sụt sùi ra đi. Lúc nhập vào thì Liêu thị thành mắt
xếch, má có lúm đồng tiền, mười ngón tay thuôn dài, rất giống Điền cô lúc còn
sống. Cứ thế cách một ngày lại tới một lần, toàn nhập vào Liêu thị.
Mùa xuân năm sau đưa đi chôn cạnh mộ Lưu, Trương và Liêu thị
tống táng, ngủ lại cạnh mộ. Lúc ấy mưa xuân lạnh lẽo, gió thông vi vút, mọi
người đều sợ sệt nghĩ là Liêu sẽ bị nhập. Trương mắng: “Nhất định là ma quái
ngoài đồng giả ra, chứ nếu là Điền Tam cô, thì tại sao dung mạo lại khác hẳn
mùa đông năm ngoái?” Con ma lập tức thay đổi, rõ ràng không khác gì trước kia, lại
nói chuyện cũ, dặn dò cặn kẽ rồi đi. Đến khi Liêu thị về nhà, lại tới nhờ cậy, nói
muốn gặp Trương. Người nhà nói: “Trương Tri huyện cách đây không xa, sao không
tới đó?” Đáp: “Trạch long cản trở, tuy ta muốn vào nhưng không cho, ta cũng
không khỏi làm ma.” Sau một năm Liêu chết, từ đó mới không tới nữa. Ma nhập vào
người sống thì rất nhiều, nhưng chỉ con ma ấy là có thể khiến cho hình dáng trở
nên giống mình, thật cũng kỳ quái.
III
Dân ở đường Hoàng Bá Nam Môn Phủ Xuyên là Chiêm Lục Chiêm
Thất, làm nghề bán cháo bán lụa. Người nhỏ còn gọi là Tiểu Ca, vì đánh bạc hết tiền, sợ anh
đánh mắng, lén trốn đi nơi khác, lâu ngày không về. Người mẹ nhớ con tha thiết
mà nằm mơ xem bói đều là điềm bất tường, cho là tiểu ca đã chết. Gặp ngày hội
Vu Lan rằm tháng bảy, đêm trước họ
Chiêm bày tiền giấy ra đốt trước sân. Trời sập tối, nghe như có tiếng sụt sịt
bên ngoài. Người mẹ nói: “Tiểu Ca chết thật rồi, nay tới nói với ta đấy.” Rồi lấy một tờ giấy tiền vàng
bạc khấn: “Nếu đúng là con ta, thì hãy giật tờ giấy này đi là đúng, sẽ cầu khấn
âm ty giúp đỡ ngươi.” Giây lát gió âm nổi lên, mấy lần cuốn vào rồi giật tờ
giấy tiền vàng bạc đi. Mẹ và anh trai khóc thất thanh. Kế gọi sư tới tụng kinh
siêu độ, không còn mong đợi gì nữa. Sau vài tháng, chợt Tiểu Ca từ ngoài đi vào. Người anh nói:
“Ma,” rồi cầm dao đuổi. Người em sấn
tới ôm chặt, nói: “Chưa đâu,” người anh mới nhìn kỹ, hỏi còn sống hay chết.
Người em nói: “Vốn sợ anh đánh nên trốn đi, nên tới Nghi Hoàng làm thuê, chứ
chưa chết.” Mới biết chuyện trước kia là ma quỷ dối trá.