Liêu Trai chí dị (Tập 2) - Quyển XV - Chương 352 - 358

352. Thiệu Sĩ Mai

Tiến sĩ
họ Thiệu tên Sĩ Mai là người huyện Tế Ninh (tỉnh Sơn Đông), lúc đầu làm Giáo
thụ phủ Đăng Châu (tỉnh Sơn Đông). Có hai người Tú tài già sai người hầu đưa
danh thiếp xin gặp, Thiệu thấy tên họ rất quen, nghĩ ngợi hồi lâu sực nhớ ra
kiếp trước của mình, bèn hỏi người hầu có phải hai viên Tú tài ở thôn nọ thôn
nọ không, lại hỏi tới phong thái thường ngày của họ, nhất nhất đều đúng. Đến
lúc hai người vào gặp, cầm tay trò chuyện thân mật như quen nhau từ lâu. Thiệu
hỏi Cao Đông Hải gần đây ra sao, hai người đáp đã chết đói trong ngục hơn hai
mươi năm rồi, nay còn một con trai làm dân đen ở làng, nhưng sao Thiệu biết?
Thiệu cười nói: “Đó là người họ hàng của ta.”

Trước kia
Cao Đông Hải là kẻ du thủ du thực nhưng tính tình hào sảng, trọng nghĩa khinh
tài. Có người thiếu thuế phải bán con gái, Cao dốc túi ra đóng thay. Tới chơi
bời ở một kỹ viện, trong kỹ viện che giấu một tên cướp, quan lùng bắt rất gấp, tên
cười bèn chạy tới ẩn núp ở nhà Cao. Quan biết được bắt Cao, tra tấn nặng nề, Cao
vẫn không khai, kế chết trong ngục. Ngày Cao chết là ngày Thiệu chào đời. Sau
Thiệu tới thôn ấy, chu cấp cho vợ con của Cao, xa gần nghe thấy đều cho là
chuyện lạ. Chuyện này là quan Thiếu tễ họ Cao kể lại, Thiệu là bạn đồng niên
với
công tử Cao Dục Lương.

Phụ:
Một
truyện trong Trì Bắc Ngẫu Đàm

Bạn đồng
niên với ta[
1]
Thiệu Sĩ Mai ở huyện Tế Ninh, tự Dịch Huy, đỗ Cử nhân năm Tân
Mão đời Thuận Trị (1651), đỗ Tiến
sĩ năm Kỷ
Hợi (1659), nhớ
được kiếp trước mình là Cao Đông Hải người huyện Thê Hà (tỉnh Sơn Đông). Vợ ông
là Mỗ thị, lúc chết nói rằng: “Phải làm vợ chồng với nhau ba kiếp, kiếp sau
thiếp sẽ thác sinh vào nhà họ Đổng huyện Quán Đào (tỉnh Sơn Đông), ở ngôi nhà
thứ ba chỗ ngoặt cạnh bờ sông Lâm Hà. Sau khi ông bãi quan về, lúc tới ở chùa
Tiêu Tự đọc kinh Phật nên tìm thiếp ở đó.” Sau Thiệu làm Giáo thụ phủ Đăng Châu,
có lần được lệnh kiêm giữ chức Huấn đạo huyện Thê Hà bị khuyết, lúc rảnh rỗi
tới hỏi chỗ ở cũ của Cao Đông Hải, tìm được một người cháu nội, bèn mua nhà của
ruộng đất cho. Kế được thăng làm Tri huyện Ngô Giang (tỉnh Giang Tô), cáo bệnh
về nghỉ, khách khứa đầy nhà.

[1] Ta: tức Vương Sĩ Trinh, tác giả Trì Bắc Ngẫu Đàm.

Có người
bạn đồng niên làm Tri huyện Quán Đào, Thiệu tìm tới thăm hỏi, ra ở chùa Tiêu Tự,
trong chùa có một bộ kinh Phật, lúc rảnh rỗi giở ra xem. Chợt nhớ lời vợ, bèn
theo bờ sông tìm, quả có họ Đổng ở nhà thứ ba chỗ ngoặt cạnh bờ sông. Trong nhà
có người con gái chưa gả chồng, Thiệu kể chuyện cũ rồi xin cưới cô ta. Hơn mười
năm sau, Đổng thị lại mắc bệnh, trước khi chết lại dặn Thiệu rằng: “Lần này
thiếp sẽ thác sinh vào nhà họ Vương ở huyện Tương Dương (tỉnh Hồ Bắc), trước
cổng nhà có hai cây liễu. Vài năm nữa chàng tới tìm thiếp ở đó thì sẽ được tái
hợp, sinh được hai con trai,” Thiệu theo lời quả đúng. Năm Kỷ
Mùi đời Khang Hy (1679) Thiệu ở
kinh thường nhiều lần kể cho ta và bạn đồng niên là Thị ngư họ Phó, Đồng Thần Y,
Phan Lại bộ, Trần Phục Dương nghe.

Phụ:
Truyện Thiệu Sĩ Mai
của tiên sinh Lục Thú Sơn[2]

[2] Lục Thú Sơn tiên sinh Thiệu Sĩ Mai truyện.

Thiệu Sĩ
Mai tự Dịch Huy là người châu Tế Ninh tỉnh Sơn Đông. Kiếp trước tên Cao Tiểu
Hòe, vốn là người Cao gia trang ở huyện Thê Hà, được sung chức Lý chính trong
làng, lo việc chung giữ phép công, không lấy của dân một đồng. Lúc bệnh chết, thấy
hai người áo xanh dáng như công sai tới bảo nhắm chặt mắt lại rồi cắp lấy mang
đi rất mau, chỉ nghe bên tai gió thổi vù vù. Giây lát tới một gian phòng, hai
người áo xanh bỏ đi mất, mở mắt nhìn thấy hai bà mụ đang đỡ đẻ trong màn, thì
đã thác sinh vào nhà họ Thiệu rồi. Miệng không nói được nhưng trong bụng nghĩ
thầm
: “Theo như trước mắt nhìn
thấy thì nhà cửa vật dùng đều khác hẳn, nhưng chẳng lẽ cả chân tay da tóc cũng
chẳng phải là ta như cũ sao?” Đến năm hai ba tuổi biết nói rồi, cứ nói muốn tới
Cao gia trang Cao gia trang thôi. Cha mẹ lấy làm lạ quát: “Con nói bậy! Cao gia
trang ở đâu?”

Đến khi
lớn đi học xa nhà, đem chuyện nói với thầy, thầy nói: “Chuyện tiền thân ấy nên
giữ kín là hơn,” từ đó không nói với ai nữa. Năm Kỷ
Hợi đời Thuận Trị Thiệu đỗ Tiến sĩ,
nhận chức Giáo thụ phủ Đăng Châu, gặp lúc vâng lệnh kiêm giữ chức Huấn đạo huyện
Thê Hà, trên đường đi ghé ngang Cao gia trang thì nhà cửa xóm làng vẫn còn như
cũ, nhân họp người ở đó lại, hỏi rằng: “
đây từng có một người là Cao Tiểu Hòe
phải không?” Mọi người đáp: “Có, nhưng chết đã lâu rồi.” Lại hỏi tới ngày tháng
chết thì hoàn toàn khớp với ngày Thiệu sinh, bèn thuật lại mọi chuyện. Tìm tới
con trai Cao, thì một đã chết, một đi vắng, chỉ có một con gái đã lấy chồng ở
cách đó hơn một dặm. Gọi tới hỏi chuyện, nói những việc lúc con gái còn nhỏ đều
đúng cả. Lại hỏi thăm các bậc cố lão trong làng, chỉ có một người còn sống, tóc
bạc phơ phơ, đã hơn chín mươi tuổi rồi. Gặp nhau nói chuyện cũ, thân mật như
quen biết đã lâu.

Sĩ Mai
nhân đó sực hiểu cả mọi việc, mối ngờ vực suốt nửa đời từ đó tiêu tan, nhân
vịnh thơ rằng: “Hai kiếp mở toang đường sống chết, Một thân biết hết việc xưa
nay.” Bèn bỏ tiền mua ruộng vườn cho con cái họ Cao. Về sau Thiệu được thăng
làm Tri huyện Ngô Giang, nhân sĩ trong huyện rất truyền tụng chuyện của ông, buổi
đầu ta[
3] cũng
chưa tin. Gặp lúc Cống sinh Đăng Châu Lý Viết Bạch, em ruột bạn đồng niên của
ta là Viết Quế đi ngang ghé thăm, ta ngẫu nhiên nhắc tới. Viết Bạch nói: “Chẳng
lẽ là quan Giáo thụ phủ Đăng Châu ta là Tiên sinh Thiệu Dịch Huy sao? Chuyện đó
có thật đấy, ta còn nhớ rõ mà.” Nhân kể chuyện lúc Thiệu ở Đăng Châu, thường kể
chuyện cho người đồng liêu là Lý Phủ, Phủ kể lại cho Viết Bạch, nhiều lần đều
như vậy. Ta bèn sắp xếp lại lời ấy, viết thành tiểu truyện. Cao Tiểu Hòe chỉ là
một người Lý chính mà thôi, nhưng làm điều lành nên vẫn chết được yên lành, tái
sinh nổi tiếng, huống là người khác sao? Ngày cuối tháng 5 năm Khang Hy thứ 7
(1668), Vân Gian Dã Sử Lục Minh Kha soạn.

[3] Ta: tức Lục Thứ Sơn tự xưng.

353.
Ông Thiệu ở Lâm Tri
[1]

[1] Thiệu Lâm Tri.

Con gái
ông Mỗ ở huyện Lâm Tri (tỉnh Sơn Đông) là vợ Thái học Lý sinh. Lúc chưa lấy
chồng, có người thuật sĩ xem số, nói chắc chắn phải gặp chuyện hình ngục. Ông
Mỗ nổi giận, kế lại cười nói: “Nói bậy tới như thế là cùng, đừng nói con gái
nhà thế gia ắt không bao giờ phải tới công đình, chẳng lẽ nó chẳng lấy được một
anh Giám sinh à?” Đến khi lấy chồng rồi, chị ta rất hung dữ, xỉa xói chửi bới
chồng là chuyện thường. Lý chịu không nổi, uất ức kêu lên quan. Tri huyện là
ông Thiệu theo lời xin, phát lệnh sai bắt chị ta. Ông Mỗ nghe chuyện cả sợ, dắt
con em tới huyện đường năn nỉ xin bỏ qua nhưng không được. Lý cũng hối, xin
thôi không kêu ca gì nữa. Ông Thiệu giận nói: “Chỗ công đường này đâu phải là
nhà của ngươi mà muốn sao thì muốn?” rồi lập tức sai bắt vợ Lý lên, hỏi qua một
hai câu rồi nói: “Đúng là đàn bà dữ dằn, phạt đánh ba mươi trượng,” dập nát cả
mông.

Dị Sử thị nói: Ông
Thiệu có thương xót đàn bà yếu ớt không? Sao mà giận dữ tới như thế? Nhưng
huyện có quan hiền thì làng không có đàn bà dữ, nên ghi lại chuyện này để bổ
khuyết vào những chuyện quan lại còn chưa làm được.

354.
Quan
huyện không con[1]

[1] Đơn phụ t.

Người dân
ở huyện Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) là Mỗ, hơn năm mươi tuổi lại lấy người thiếp
còn trẻ. Hai đứa con trai sợ ông ta lại sinh con, bèn nhân lúc cha say rượu, ngầm
thiến đi rồi băng bó lại. Ông ta biết, thác bệnh không nói gì, lâu sau vết
thương đã gần lành. Chợt một hôm gần vợ, vết dao cũ toác ra, máu chảy không cầm
được, kế chết. Người thiếp biết, kiện lên quan. Quan bắt hai người con, quả
nhiên đều nhận tội. Quan hoảng sợ nói: “Nay ta lại làm quan huyện không con[
2] rồi!”
Bèn đem giết hai người.

[2] Quan huyện không con: nguyên văn là “Đơn phụ tễ” (Quan huyện là
người cha cô đơn). Ngày xưa quan lại thường được gọi là “dân chi phụ mẫu” (cha
mẹ của dân), quan huyện này gặp phải việc hai người con thiến cha nên nói như
vậy. Chữ Đơn (Đan) còn có một âm là Thiện, “Thiện Phụ”
, lại là một huyện cũng trong tỉnh Sơn Đông, nên ba chữ trên còn có nghĩa
là “Quan huyện Thiện Phụ”
, ở đây có chỗ chơi chữ không
dịch được.

Huyện ta
có Vương sinh, cưới vợ được hơn tháng thì bỏ vợ, người cha vợ kiện lên quan.
Lúc ấy ông Tân làm Tri huyện huyện Truy, hỏi Vương vì sao bỏ vợ, Vương đáp là
không thể nói được. Hỏi mãi mới đáp rằng: “Cô ta không thể sinh nở.” Ông Tân nói:
“Nói bậy! Mới cưới hơn một tháng, làm sao đã biết là không thể sinh nở.” Vương
ngượng nghịu hồi lâu mới đáp: “Vì chỗ kín của cô ta méo.” Ông Tân phì cười nói:
“Té ra là vì méo mó nên trong gia đình không êm thắm”[
3]. Đây cũng là một chuyện nên chép lại cùng
chuyện
quan huyện không con để cười vậy?

[3] Nguyên văn là “Thị tắc thiên chi vi hại, nhi gia chi sở dĩ bất tề dã”. Tề gia (sắp xếp việc nhà cho êm đẹp) là một trong những nhiệm vụ của
người quân tử theo quan niệm Nho giáo, đây quan huyện chơi chữ, đem chữ tề đối
với chữ thiên.

355. Diêm
Vương
chết[1]

[1] Diêm la hoăng.

Cha Tuần
phủ Mỗ trước là Tổng đốc một tỉnh phía nam, đã chết từ lâu. Một đêm ông nằm mơ
thấy cha về, vẻ mặt buồn bã nói: “Ta lúc còn sống không làm nhiều tội nghiệt, chỉ
có một lần cầm quân ở trấn, không nên điều động mà lại điều động, trên đường đi
gặp phải cướp biển, toàn quân chết sạch. Nay họ kiện ta tới Diêm Vương, hình
phạt tàn nhẫn rất là đáng sợ. Diêm Vương không phải ai khác, ngày mai có viên
Kinh lịch họ Ngụy áp tải lương tới, chính là y đấy. Con nên kêu xin cho ta, nhớ
đừng có quên?” Ông tỉnh dậy lấy làm lạ, cũng không tin lắm. Nằm ngủ lại lại mơ
thấy cha trách: “Cha đã gặp nạn mà con chưa chịu ghi nhớ lời dặn, lại còn cho
là mộng mị hão huyền à?” Ông càng lấy làm lạ. Hôm sau ghi nhớ ra xem văn án, quả
có viên Kinh lịch họ Ngụy vừa áp tải lương tới, lập tức cho gọi vào, sai hai
người giữ cho ngồi yên rồi bước ra quỳ lạy như triều kiến thiên tử. Lạy xong
quỳ khóc, kể lại mọi việc.

Ngụy lúc
đầu không chịu nhận, ông cứ quỳ mãi không chịu đứng lên, Ngụy mới nói: “Đúng là
có chuyện ấy, nhưng âm ty có phép tắc, không phải lôi thôi như ở trần gian, cho
dù có thể nương tay, sợ cũng không làm được.” Ông càng tha thiết năn nỉ, Ngụy
bất đắc dĩ phải nhận lời. Ông lại xin Ngụy xử đoán mau cho, Ngụy ngẫm nghĩ rồi
ngại là không có chỗ yên tĩnh, ông xin quét dọn khách sảnh, Ngụy bèn ưng thuận.
Ông mới đứng dậy, lại xin cho theo nghe trộm, Ngụy nói là không được, ông năn
nỉ mãi, Ngụy mới dặn: “Tới đó thì phải im lặng không được lên tiếng, vả lại
hình phạt ở âm ty tuy thảm khốc không giống như ở trần gian song chỉ là tạm
thời bị giết chứ không phải chết thật, nếu thấy điều gì cũng đừng run sợ.”

Đến đêm, ông
ngầm vào núp bên hành lang khách sảnh, thấy dưới thềm la liệt tù nhân, kẻ đứt
đầu người cụt tay đông đặc nhốn nháo. Dưới thềm đặt bếp lửa vạc dầu, có mấy
người đang cho củi nhen lửa. Chợt thấy Ngụy đội mão thắt đai ra bước lên ngồi, khí
tượng uy nghiêm dữ tợn, khác hẳn lúc ban ngày. Đám quỷ cùng nhất tề lạy rạp
xuống, đều kêu khóc là oan khổ. Ngụy nói: “Các ngươi bị giặc giết, oan có đầu
nợ có chủ, sao lại quy tội cho quan trưởng.” Bọn quỷ ồn ào nói: “Lẽ ra không
đáng điều động, lại bị công văn không hợp lệ gởi tới nên chúng tôi mới gặp nạn,
vậy ai đền nỗi oan khổ này.” Ngụy lại giải thích quanh co, đám quỷ gào khóc, ồn
ào náo động. Ngụy bèn sai quỷ tốt đem bỏ cha viên quan Mỗ vào vạc dầu luộc qua
một lượt, xét về lý thì đúng, nhưng xem ý tứ thì chỉ làm thế để đám quỷ hả dạ
mà thôi. Lệnh vừa ban ra, lập tức có bọn quỷ đầu trâu giải cha ông tới rồi lấy
đinh ba xóc lên bỏ vào vạc dầu. Ông nhìn thấy trong lòng đau đớn, không kìm
được bất giác kêu lên một tiếng thất thanh, thì trong sảnh chợt vắng ngắt không
còn gì nữa. Ông than khóc quay về, đến sáng tới tìm Ngụy, thì Ngụy đã chết
trong phòng. Chuyện này là Trương Võ Định ở huyện Tùng Giang (tỉnh Giang Tô) kể
lại, vì không phải là chuyện hay nên không nói rõ tên người.

356.
Đạo
sĩ điên[1]

[1] Điên đạo nhân.

Có đạo sĩ
điên không rõ tên họ ngụ trong chùa trên núi, lúc ca lúc khóc bất thường, người
ta không hiểu được, có người thấy đạo sĩ nấu đá làm cơm ăn. Gặp tiết Trùng
Dương có người hào quý trong huyện mang rượu lên núi chơi, ngồi kiệu che lọng
rầ
m rộ kéo đi, yến ẩm xong về ngang
chùa. Vừa tới cổng thì thấy đạo sĩ đi chân không mặc áo rách, tự cầm lọng vàng,
miệng kêu beng beng làm như tiếng thanh la dẹp đường từ trong đi ra, như có ý
nhạo báng. Người hào quý vừa thẹn vừa giận, sai đầy tớ đuổi theo chửi mắng, đạo
sĩ cười bỏ chạy. Bọn kia đuổi gấp, đạo sĩ vứt bỏ cái lọng, lại xé tan vải lọng
ra, từng mảnh từng mảnh biến thành chim ưng chim cắt bay tứ tán, mọi người mới
bắt đầu run sợ. Cái cán lọng biến thành con mãng xà lớn, vẩy đỏ mắt sáng, bọn
kia kêu la định bỏ chạy. Có người khách cùng đi ngăn lại nói: “Đó chẳng qua chỉ
là ảo thuật mà mắt thôi, làm sao nuốt được người?” Bèn rút đao xông lên, con
mãng xà tức giận lướt tới há miệng táp người ấy nuốt chửng. Bọn kia càng hoảng
sợ, đỡ người hào quý chạy mau, được ba dặm mới dừng, sai mấy người trở lại dò
xét. Vào tới chùa thì chẳng thấy người khách và con mãng xà đâu, đang định về
báo thì nghe trong cây hòe lớn có tiếng thở phì phò như con lừa. Họ sợ hãi, lúc
đầu không dám bước tới, dần dần mới rón rén tới gần xem, thấy trong gốc cây có
cái hốc bằng cái mâm, trèo lên nhìn vào thì người đánh nhau với con mãng xà bị
nhét chúc đầu xuống bên trong, nhưng cái lỗ chỉ đủ thò hai bàn tay vào, không
có cách nào ra được. Họ vội lấy đao phá gốc cây, cái hốc vỡ ra thì người đã
ngất đi. Hồi lâu tỉnh lại, họ bèn vực về, còn đạo sĩ không biết đã đi đâu.

Dị Sử thị nói: Giương
lọng đi chơi núi, thật là hợm hĩnh đáng ghét, người tiên đem phép thuật đùa cợt,
nghĩ cũng buồn cười. Ân sinh Văn Bình người làng ta là em rể quan Tư nông họ
Tất, tính hay nhạo báng không khiêm cung. Huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) có
Chu sinh, vốn nhà nghèo hèn mới phất lên, cứ ra khỏi nhà là đi kiệu, cũng là họ
hàng với quan Tư nông. Gặp ngày mừng thọ Thái phu nhân mẹ Tư nông, Ân đoán là
Chu sẽ tới bèn mang giày da lợn, mặc áo nhà quan, cầm danh thiếp ra đón trên
đường. Chờ kiệu Chu tới, khom lưng bên đường nói lớn
: “Chư sinh huyện Truy Xuyên đón Chư sinh huyện Chương
Khâu.” Chu thẹn bước xuống kiệu, nói vài câu rồi từ biệt. Lúc sau cùng họp mặt
ở nhà quan Tư nông, áo mão đầy tiệc, nhìn thấy lối ăn mặc của Ân, ai cũng cười
thầm. Ân ngạo nghễ chẳng buồn để ý, tiệc xong ra cổng, mọi người đều gọi xe gọi
kiệu, Ân cũng lớn tiếng gọi: “Xe độc long của Ân lão gia đâu?” Có hai tên đầy
tớ vác một cái gậy bước tới, Ân nhảy lên ngồi, cất tiếng chào lớn, rồi hai tên
đầy tớ khiêng Ân chạy mau. Ân sinh cũng là bậc sau người tiên vậy.

357. Tửu lệnh của ma[1]

[1] Quỷ lệnh.

Giáo thụ
Triển tiên sinh tiêu sái phóng khoáng có phong độ danh sĩ, nhưng uống rượu say
là bất chấp lễ nghi. Cứ mỗi lần uống rượu về lại phi ngựa vào sân miếu thờ
Khổng Tử. Trong sân có nhiều cây bách cổ, một hôm Triển phi ngựa húc vào cây vỡ
đầu tự nói: “Tử Lộ[
2] giận
ta vô lễ, đánh vỡ đầu ta rồi,” nửa đêm thì chết. Trong huyện có Mỗ Ất buôn bán
ở làng ấy, đêm ngủ ở một ngôi chùa cổ, đêm vắng không người, chợt thấy bốn năm
người mang rượu vào uống, Triển cũng có trong số đó. Rượu được vài tuần, có
người lấy chữ làm tửu lệnh, đọc:

Chữ Điền không đủ cùng

Chữ Thập ở bên trong

Chữ Thập đưa lên ngọn

Chữ Cổ được đầy chung.”

[2] Tử Lộ: tên Trọng Do, học trò giỏi của Khổng tử, tính cương trực
quả cảm, được Nho gia thờ chung trong
văn miếu với Khổng tử.

Một người
đọc:

Chữ Hồi không đủ cùng

Chữ Khẩu ở bên trong

Chữ Khẩu đưa lên ngọn

Chữ Lữ được đầy chung.”

Một người
đọc:

Chữ Linh không đủ cùng

Chữ Lệnh ở bên trong

Chữ Lệnh đưa lên ngọn

Chữ Hàm được đy chung.”

Lại một
người đọc:

Chữ Khốn không đủ cùng

Chữ Mộc ở bên trong

Chữ Mộc đưa lên ngọn

Chữ Hạnh được đầy chung.”

Sau cùng
tới Triển, Triển nghĩ không ra, mọi người cười nói: “Không đọc được thì phải
chịu phạt, uống một chén lớn đi.”

Triển nói:
“Ta nghĩ được rồi,” rồi đọc:

Chữ Viết không đủ cùng

Chữ Nhất ở bên trong.”

Mọi người
cười hỏi: “Suy ra là chữ gì?” Triển uống cạn chén rồi đọc tiếp:

Chữ Nhất đưa lên ngọn

Một hớp đầy một chung[3].”

[3] Tất cả các bài thơ trước đều
dùng một lối chiết tự như nhau, như chữ
điền gồm chữ khẩu ở ngoài và chữ thập ở trong, đưa chữ thập lên trên chữ khẩu thành chữ cổ. Riêng bài của nhân vật họ Triển
thì chiết tự chữ viết lại không ra chữ gì mà lại thành hai chữ
nhất khẩu (một hớp).

Mọi người
cười ran, không bao lâu thì ra về. Ất không biết là Triển chết, nghĩ thầm rằng
chắc bị bãi chức về. Đến khi về tới làng hỏi thăm, thì Triển chết đã lâu, mới
biết rằng mình đã gặp ma.

358.
Diêm Vương
đãi tiệc[1]

[1] Diêm la yến.

Thiệu
sinh ở huyện Tĩnh Hải (tỉnh Hà Bắc) nhà nghèo, gặp ngày sinh nhật của mẹ, sắm
sửa rượu thịt ra cúng ở sân. Lạy xong đứng dậy thì thức ăn bày trên bàn đã hết
sạch. Vô cùng hoảng sợ, đem chuyện kể với mẹ, mẹ ngờ vì túng thiếu không thể
làm lễ chúc thọ nên bịa đặt ra như vậy, Thiệu im lặng không biết làm sao phân
trần. Không bao lâu sau, quan Học sứ đích thân đi khảo thí học trò các phủ
huyện, Thiệu khổ sở không có tiền ăn đường nhưng chạy mượn được món tiền nhỏ ra
đi. Trên đường gặp một người chờ bên vệ đường mời mọc rất ân cần. Thiệu đi theo,
thấy điện gác lâu đài xếp lớp trên đường. Vào tới nơi, thấy một bậc vương giả
ngồi trên điện, Thiệu lạy phục xuống. Vương hòa nhã bảo ngồi, rồi mời ăn tiệc, nhân
nói: “Lần trước đi ngang quý thự, vì bọn người hầu đi đường đói khát quá nên có
ăn vụng bàn tiệc của ông.” Thiệu ngạc nhiên không hiểu, Vương nói: “Ta là Diêm
Vương đây, ông không nhớ hôm mừng thọ lệnh đường à?” Ăn tiệc xong, đưa cho
Thiệu một đồng tiền, nói: “Có chút ít, gọi là cám ơn lần trước.” Thiệu nhận lấy
trở ra, thì cung điện nhân vật trong phút chốc biến mất cả, chỉ có vài cây đại
thụ sừng sững bên đường. Nhìn lại đồng tiền thì là vàng ròng, đem cân được năm
lượng. Khảo thí xong, Thiệu chỉ tiêu hết có một nửa, còn bao nhiêu đem về nuôi
mẹ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3