Ta Đã Làm Chi Đời Ta - Chương 8
THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG SUỐT ĐỜI SAY
CHƯA TỈNH!
Say lão đỗ, say phù dung tiên tử, say
má đào, sênh phách, say tình bằng hữu với giai nhân là... Nàng ”mây ”!
Từ Quyên ĐẶNG VĂN NHÂM
LỜI TÁC GIẢ.- Thi sĩ Vũ Hoàng Chương
qua đời thấm thoát thế mà đã hơn 33 năm rồi. Thời gian ngót một nửa thế kỷ vụt
qua nhanh như bóng câu qua cửa sổ.
Trong thời gian ly hương dài dằng dặc
này, trải qua hơn một thế hệ, tôi nhận thấy công tác văn học, báo chí hải ngoại
của các nhà văn, nhà báo tị nạn chỉ nở rộ về mặt LƯỢNG, nhờ kỹ thuật ấn loát tối
tân và truyền thống tự do thông tin và xuất bản của Âu Mỹ. Nhưng về mặt PHẨM, tức
nội dung và tư tưởng, đã tỏ ra sa sút đến mức thảm hại. Ấy là chưa kể một đám
đông “BÚT GIAN” vô liêm sỉ ở hải ngoại, no cơm rửng mỡ, sanh chứng háo danh, đã
kéo nhau túa vào tràn ngập tổ chức VBVNHN, tranh giành chức vụ khiến cho tổ chức
văn hoá thanh cao này bị mang nhục trên bình diện quốc tế.
Ngày nay, ở hải ngoại, tôi nhận thấy,
vẫn có một số người thừa tiền của đem in ra những thi, văn phẩm của chính mình
để trình làng, hầu được mang nhãn hiệu: nhà thơ, nhà văn v.v...Tôi không có thì
giờ đọc các tập thi, văn ấy, nên không dám mạo muội phê bình. Nhưng hơn thế nữa,
tôi lại được thấy có người chịu khó làm công việc sưu tập một số tác phẩm và
các tác giả mới này (chắc là phải quen biết thân lắm!), nhắm mục đích rõ rệt là
mặc áo thụng, nửa ngô nửa ngọng tâng bốc lẫn nhau, để cuối cùng tự coi đó là một
giòng văn học hải ngoại!
Để giúp bạn đọc phân biệt được vàng
thau lẫn lộn trong số các tác phẩm xuất bản bừa bãi ở hải ngoại, hôm nay, nhân
dịp ngày giỗ muộn lần thứ 33 của cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương, tôi viết bài này.
Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời cầm
bút, tôi đã làm một việc phá lệ, viết về một thi nhân nổi tiếng cùng thời,
nhưng không thân thiết lắm, mặc dù tôi với Hoàng huynh vốn quen biết nhau trên
cả 2 lãnh vực dạy học và hoạt động văn hoá từ 1954. Thuở còn ở quê nhà, thỉnh
thoảng tôi vẫn gặp Hoàng huynh nơi trường ốc hay những ngày hội họp VĂN BÚT VN
(PEN). Nhưng ở trường ốc, nơi hành nghề ” gõ đầu trẻ”, tôi đã thân với các anh
Bùi Xuân Uyên, Bàng Bá Lân, Tam Ích, Nguyên Sa, Hư Chu (dạy Sử Địa), và Lê
Thương (dạy Pháp Văn)...nhiều hơn. Ấy cái nghề dạy học tư nó như thế đó. Lắm
khi anh em đồng nghiệp dạy chung một trường mà cả niên học không bao giờ gặp mặt
nhau, hoặc thỉnh thoảng chỉ kịp trao đổi với nhau vài câu thăm hỏi vội vàng lúc
”chạy giờ ”, hay những giây phút xả hơi khi đổi giờ! Về mặt viết lách, tuy cùng
là hội viên VĂN BÚT, nhưng tôi với Hoàng huynh cũng không gần gũi lắm. Tôi tham
gia hội từ khi mới thành lập, năm 1957. Mỗi lần hội họp đông đảo tôi thường ngồi
bên cụ Nguyễn Thiệu Lâu hay cụ Vương Hồng Sển. Vì cụ NT Lâu vừa là thầy cũ dạy
Sử Địa ở Văn Khoa (chương trình Pháp), vừa là đồng nghiệp, dạy chung trường
trung học Tân Thịnh, các niên khóa giữa thập niên 50. Tôi với cụ lại dạy chung
giờ, và hai phòng sát nhau, nên cụ thường ngoắc tôi theo cụ xuống tiệm tàu đầu
đường đong vội một cóng ” bạch thủy”. Còn ông Vương Hồng Sển vốn làm việc trong
” nhà xưa ” ở Sở Thú, nơi đây có thư viện của trường Viễn Đông Bác Cổ, (tôi là
hội viên Hội Khảo Cổ Đông Dương từ năm 1953 đến 1975), thường cùng nhà văn Sơn
Nam vào đây đọc sách và nghiên cứu...
Đã không thân với Hoàng huynh thì tôi
không thể nào phác họa linh động và trung thực được chân dung của thi nhân. Nếu
tôi mạo muội, làm công việc khiên cưỡng ấy, tất sẽ không tránh khỏi sơ thất
đáng trách. Nhưng ngược lại, tôi vốn là người yêu thơ của Hoàng huynh, thuộc
nhiều thơ của Hoàng huynh cũng như tôi đã từng thuộc truyện Kiều của Tiên Điền
tiên sinh, mỗi lần đi dạy học, tôi không cần cầm sách theo vẫn có thể đọc và giảng
bài cho học trò được. Như vậy, tại sao tôi không viết về thơ và những cái say,
yên sĩ phi lý thuần, đã giúp thi nhân phun châu nhả ngọc, và đã để lại cho đời
rất nhiều thi phẩm tuyệt tác, giá trị bất hủ, vượt thời gian cả không gian!
Vượt thời gian thì ai là người VN
cũng đã thấy rồi. Còn vượt không gian? Tôi có quá yêu thi nhân mà hóa ra nồng
nàn hoa ngữ hay không? Thưa không! Tôi xin tạm dẫn chứng. Từ thập niên 60, nhiều
thi phẩm của Vũ Hoàng Chương đã được chuyển dịch sang ngoại ngữ Anh, Pháp, Đức...như:
thi tập ” Cảm Thông ” (nhan đề Anh ngữ là: Communion, do Nguyễn Khang phiên dịch),
thi tập ” Tâm tình Người Đẹp”(nhan đề Pháp ngữ: Les 28 Étoiles), gồm 42 bài thơ
Nhị Thập Bát Tú, bản dịch của nữ thi sĩ Bỉ Quốc Simone Kuhnen de La
Coeuillerie, tập ” Thi Tuyển ” (nhan đề Pháp ngữ là: Poèmes Choisis), bản dịch
của nữ sĩ Simone Kuhnene de La Coeuillerie, thi tập ” Ánh Trăng đạo ”, do Nha
Tuyên Úy Phật Giáo xuất bản tập ” Die Achtund- Zwanzig Sterne ”, thơ dịch Đức
Ngữ, do nhà Hoffmann Und Campe, tỉnh Hamburg. Dịch giả là thi sĩ Áo quốc Kosmas
Liegler...
Huống chi, ở Sài Gòn, hiện nay nữ sĩ
Thục Oanh, hiền nội của cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương vẫn còn giữ được một ít tư liệu
về cố thi sĩ. Được biết nữ sĩ Thục Oanh vốn là bào tỷ của thi sĩ Đinh Hùng, tên
thật là Đinh Hoài Điệp bút hiệu Thứ Lang. Đinh Thục Oanh cũng chính là khuê
danh của nữ sĩ.
Nữ sĩ Thục Oanh cho biết, sau ngày
30.4 năm 1975, thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã bị quân CSBV bắt giam về tội làm...
thơ! Những ai đã từng quen biết Vũ thi sĩ đều biết sức khỏe của ông vốn rất
mong manh, dáng người gầy yếu, đi đứng chơi vơi tưởng chừng như gió có thể thổi
bay. Bởi thế chỉ trong vòng 6 tháng giam cầm, đày đọa, Vũ thi sĩ đã lâm bịnh nặng.
Trước sự thể ấy, CS liền phóng thích Vũ thi sĩ, để một là nhà nước khỏi tốn tiền
thuốc men, khỏi tốn công mai táng, mà lại còn tránh được tiếng ác là: giam cầm
đến chết một thi nhân yếu đuối!
Nhưng Hoàng huynh chỉ về nhà đoàn tụ
với vợ con (một dưỡng tử) được vỏn vẹn 6 ngày thì mất, đúng ngày 0 6. 09. 1976,
tức ngày 14, tháng Tám Â. L. Tính ra đến tháng Chín 1998 này đã tròn 22 năm!
THƠ SAY, CÁI SAY CỦA NHÀ THƠ.
Nhìn vào tiểu sử của họ Vũ, ta thấy
tác phẩm đầu tay của thi sĩ là tập ” THƠ SAY ” (xuất bản năm 1940). Đành rằng
sau đó không lâu, thi nhân còn cho ra đời nhiều ” đứa con có vần ” khác nữa,
như: MÂY, VÂN MUỘI, TRƯƠNG CHI, HỒNG ĐIỆP, LÊN ĐƯỜNG, THƠ LỬA, CÔ GÁI MA, RỪNG
PHONG, HOA ĐĂNG, TRỜI MỘT PHƯƠNG v.v...nhưng dường như chỉ có THƠ SAY, hay nói
một cách khác chỉ có chữ ” SAY” độc nhất đã hiển lộ rõ nét con người và tài
năng thiên phú của tác giả.
Nếu ngày xưa đã có Đỗ Phủ càng say
làm thơ càng tuyệt tác, và đã qua đời sau một cơn say, khiến cho thi thần Cao
Bá Quát, trong bài ” Tài tử đa cùng phú ” đã phải thốt nên những câu:
“Lắc bầu rượu dốc nghiêng non nước lại,
Chén tiếu đàm mời mọc trích tiên.
Hóng túi thơ nong hết gió trăng vào,
Cơn xướng họa hẹn hò Lão Đỗ.”
(Ghi chú thêm của ĐVN: Đời nhà Đường,
có hai thi nhân cùng họ Đỗ. Để phân biệt, người đương thời gọi Đỗ Phủ là lão Đỗ
và Đỗ Mục là tiểu Đỗ. Vì Đỗ Phủ lớn tuổi hơn.)
Nhưng ngày nay, nếu có ai đã biết thi
sĩ họ Vũ - anh em thân thuộc thường gọi là Hoàng, thì thấy cái “SAY” của hai họ
Đỗ và Vũ khác nhau xa. Xa lắm chẳng khác nào như đất Tương Dương, bên tàu và
Nam Định, miền Bắc VN!
Ngày xưa, vào khoảng năm những năm
758 trở đi, thi hào Đỗ Phủ chỉ say men rượu mà làm thơ. Nhưhg, kể từ những năm
1940 trở đi, ở VN, thi sĩ họ Vũ chẳng những SAY rượu Mai Quế Lộ, hay rượu Con
Hươu (bạch thủy) mà gieo vần xướng họa.
“Tay tiên rót chén rượu đào,
Đổ đi thì tiếc uống vào thời say...”
Thi sĩ còn nhả tơ cả trong những giây
phút SAY sưa, đi mây về khói, bên Phù Dung Tiên Tử, với bạn hiền.
“Nhựa say tâm sự đêm huyền hoặc nâu.
Ngắm hoa đèn, hiểu ý nhau:
Quên ngày quên tháng, quên sầu nhân
sinh...”
Tôi thấy Hoàng huynh đã tỏ ra là con
người rất dễ say. Ông SAY cả khi vừa thoáng nghe và chợt thấy:
“Sống lụa thâm phần phật đổ bên thềm,
Trên vách phấn, quan họ gái đã vẽ
thêm dăm sáu bóng...”
Cho đến lúc các quan viên vừa an tọa
và đào nương gieo tiếng phách, ” Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy...”, thì thi
sĩ họ Vũ đã ngâm bài trường ca:
“Quải ấn phong kim hề xa Bắc Ninh:
Đại ga sáu tháng hề bao nhiêu tình!
Khói hề thơm...Rượu hề ngọt...
Xóm Niềm ran tiếng trống hề gái Niềm
tươi xinh!...”
Mấy câu trên trong bài trường ca của
Hoàng huynh, nhưng dường như ông chỉ còn nhớ lõm bõm có vài câu này, thỉnh thoảng
ngâm lên nhè nhẹ, để nhớ đến xóm Niềm, nơi có những nhà hát Ả Đào nổi tiếng tỉnh
Bắc Ninh, mà ông đã gửi lại đó nhiều kỷ niệm khó quên với các bằng hữu văn thi
sĩ trong số có cả tác giả ” Vàng và Máu ” họ Nguyễn. Khi cuộc vui thanh nhã, gồm
đủ cả các khoản trợ hứng: giai nhân thanh lịch ” Má hồng không thuốc mà say ”,
tiếng đàn hát véo von, thuốc ngon, rượu nồng, thi sĩ họ Vũ không bao giờ chẳng
lưu lại một vài bài thơ tuyệt tác. Lần này để ghi kỷ niệm xóm Niềm tác giả đã
xuất khẩu thành thi bài Hán Tự như sau:
””Ngẫu ư: Kinh Bắc phiếm du; Niềm
thôn dạ bạc.
Bồ đào mỹ tửu, thắng hữu như vân,
Điểm cổ văn ca, thuần yên diễm sắc.
Hoa gian ty trúc, nguyệt hạ y thường.
Vũ hóa đăng tiên; Xích Bích Tầm Dương
chi túy mộng; tình căn vị liễu, thanh sam hồng phấn chi lưu duyên.”
Dịch nôm:
Chợt nay: Kinh Bắc chơi rông, xóm Niềm
đêm ghé.
Bồ đào rượu ngọt, bạn tốt như mây.
Điểm trống nghe ca, khói thơm người đẹp.
Trong hoa xênh phách, dưới nguyệt
xiêm hài.
Chắp cánh lên tiên. Xích Bích, Tầm
Dương say mộng cũ; nợ tình chưa dứt, áo xanh má phấn còn duyên ghi.”
Ngoài ra, Hoàng huynh còn SAY cả những
khi gặp bạn tri kỷ trong giới văn chương, như tác giả “Vàng và Máu”, tác giả “Lỡ
Bước Sang Ngang”, như Tô hoài, Chu Ngọc... Khi tác giả “lỡ bước sang ngang”,
Nguyễn Bính phải rời cố đô vào Sài Gòn làm việc, bộ ba Vũ Hoàng Chương, Đinh
Hùng và Nguyễn Bính đã thức thâu đêm, để cùng nhau thả hồn theo mây khói trước
giờ “Kinh Kha vào Tần” (chữ của VH Chương). Dịp này thi sĩ họ Vũ đã sáng tác
bài “Tận Túy” độc đáo để tặng Nguyễn Bính trước khi chia tay. Bài này đã đăng
trong thi tập “Rừng Phong” (Sài Gòn, 54).
Trong thời gian vào Nam, thi sĩ Nguyễn
Bính đã làm việc dưới Rạch Giá (Kiên Giang). Đến khoảng năm 1952, nếu tôi nhớ
không lầm, ông đã lên Sài Gòn, thỉnh thoảng có tạt đến nhà trọ của Lý Văn Sâm
chơi, ở xóm trước nhà thương Thuốc Chó. Nơi đây còn có Ngọc Giao, Thẩm Thệ Hà,
Vũ Anh Khanh, Nguyễn Văn Lộc (lúc này anh Lộc còn đang đi học, về sau đã có thời
làm thủ tướng thời Thiệu–Kỳ) trước khi ông về Bắc với Ngọc Giao và Lý Văn Sâm.
Những dịp ấy tôi đều có mặt.
Dưới đây là nguyên văn “Bài Ca Tận Túy”
của Vũ Hoàng Chương gửi Nguyễn Bính. Bài này Nguyễn Bính thích lắm, đặc biệt nhất
là câu “Con chim”:
Bằng vỗ cánh hề dời sang Nam Minh
Mặt khói chơi vơi hề ngọn đèn chênh
vênh
Kìa núi tà dương đảo dậy
Lam mờ bể nguyệt lung linh.
Đã mở cánh huyền vi hề sau rèm hiển
hiện
Còn nguyên khối hỗn mang hề vũ trụ sơ
sinh.
Hồn mê loạn áo trần ai vụt biến
Lộ Đài thiêng trong một phút hoa Quỳnh...
***
Chiếc bướm phân thân hề ba nghìn thế
giới
Đầu cuối thời gian hề chợp mắt Trang
Sinh.
Bắc Hải muôn trùng thăm thẳm
Sóng cao dâng vạn trượng hề quẫy đuôi
Kình
Đám mây, đám mây hề chín dặm
Con chim bằng vỗ cánh hề dời sang Nam
Minh.
Ta thấy trước đời ta rồi đêm nào tận
túy
Thanh sắc chiêm bao về một hội phù
sinh.
Bào ảnh vọng lên từng dị điệu
Khuê Ngưu tỏa xuống khúc ân tình.
Hán Nguyễn hưng suy hề màu trôi hoạt
họa.
Gió ngủ trăng bay hề nét đứng u minh!...
***
Thúy kiều ơi! đêm giác ngộ tương lai
vào mộng huyễn
Nẻo hồi dương vang ngợp tiếng thần
linh!
***
Đèn hôm nay ngọc đỏ
Khói nơi này tơ xanh.
Ta ơi hề ta ơi!
Kìa thoáng chân
thân vừa hiện đó
Nụ cười SAY hoan lạc đến vô tình!
Như vậy, ta thấy mỗi lần trong cơn SAY,
thi sĩ họ Vũ lại xuất khẩu thành thi. Hoàng huynh làm thơ, đọc lên lời thơ lưu
loát, niêm luật gắn bó nhịp nhàng tưởng chừng như đã xếp sẵn, ý thơ dồi dào,
tình thơ lai láng, tưởng chừng nếu không như Đỗ Phủ cũng phải tày Tử Kiến, thất
bộ thành thi! (Tử Kiến tên thật là Tào Thực, đời Ngụy Văn Đế, con thứ hai của
Tào Tháo, có biệt tài bước bảy bước làm được một bài thơ. Nhờ tài đó mà thoát
chết).
Mặt khác, tôi có thể so sánh các chất
liệu đã khiến thi sĩ họ Vũ say như: bạch thủy Con Hươu (hay Mai Quế Lộ là những
loại rượu thi sĩ ưa chuộng, mỗi khi “dĩ văn hội hữu”), chất nhựa Phù Dung, những
áng đào kiểm, hay những âm thanh sênh, phách rộn ràng chẳng khác chi chất lá
dâu ngon đã giúp kiếp tằm nhả ra những sợi tơ óng mượt cho đời. Cũng trong cái
SAY của Hoàng huynh, tôi còn có thể hình dung như một thứ PHƯƠNG TIỆN để đạt đến
CỨU CÁNH, như một ngón tay chỏ mặt trăng, như một con thuyền đưa người trần tục
đến bờ “đáo bỉ ngạn” (Paramita)!
“Say gắng say lên hề lên tận độ
Gắng say hề cho tỉnh nhé ta ơi
Điên đảo thời gian hề linh đài vụt
sáng
Lẫn lộn không gian hề trần tâm sẽ vơi...”
Dĩ nhiên, Hoàng huynh còn tập thơ MÂY,
và nhiều thi phẩm khác cũng rất nổi tiếng tuyệt tác.