Ta Đã Làm Chi Đời Ta - Chương 6 - Phần 1

Đoản đình trường đình

Yên vị trên phi cơ, Hoàng lơ đãng
nhìn xuống cánh đồng mây đang trải rộng, và mênh mông bàng bạc không biết đâu
là tận cùng. Chợt nhớ hai câu thơ thất ngôn nào đó, Hoàng cao hứng ngâm vang:

Làm mây ải Nhạn chiều heo hút

Rồi cũng lang thang kiếp độc hành.

Ngâm xong thơ mới nhớ ra được xuất xứ:
câu dưới của nữ sĩ Ngân Giang và câu trên của chính Hoàng, nguyên là hai câu
liên ngâm ra đời ở Hà Nội, tính đến nay đã vừa đôi-tám-xuân-xanh.

Tuy vậy, bảo là “ngâm vang” thì hơi
quá. Vì nếu có tiếng vang thật sự trên chiếc phi cơ tràn đầy hành khách này, hẳn
người ngồi đối diện với Hoàng kia đã nghe thấy và đã không ngạc nhiên, cái ngạc
nhiên của người tưởng mình đối diện với một gã khùng đầu lắc lư, môi mấp máy chẳng
biết có phải đang tự diễn thuyết để tự làm thính giả chăng.

Người ngồi trước mặt Hoàng? Đến lúc
này Hoàng mới để ý: một thiếu nữ trang điểm kín đáo và nhan sắc chỉ bình thường,
phục sức lại giản dị, quá giản dị là khác. Áo dài màu hồ thủy, chuỗi ngọc trai
và chiếc vòng huyền… Có thế thôi! À quên, còn mớ tóc bới cao, chứ không cắt ngắn
hoặc buông xõa; mặc dầu có thể là tóc mây được lắm, nhưng không cởi mở, không hấp
dẫn bao nhiêu.

“Ông sang Pháp ạ?”

“Thưa cô, tôi đi La Mã; nhưng vì một
lý do nào chả biết, Tân Sơn Nhất cho tôi hay rằng chuyến phi cơ này chỉ có nhiệm
vụ chở tôi đến Vọng Các thôi; tôi phải xuống đó chờ một chuyến khác”.

“May quá, Yến cũng bị đặt vào trường
hợp giống y như trường hợp của ông vậy… À quên, xin lỗi ông, em chưa tự giới
thiệu: Em là Yến, nữ y tá…”

Qua mấy câu trao đổi, Hoàng được cô bạn
đồng hành cho biết rằng đây là lần đầu tiên cô ra khỏi nước, lại đi một mình…
nên lúng túng lắm. Gia tư chỉ bậc trung thôi, và may mắn được học bổng nên mới
có cơ hội sang tận kinh đô Ánh Sáng đấy chứ. Điều may mắn nữa là cô có một người
chị em thúc bá hiện đang ở kinh đô này, và sẵn sàng cung cấp cho cô nơi ăn chốn
ở, chỉ cốt sao đặt được chân xuống đất Pháp là cô yên trí rồi.

“Ông…”

“Cứ gọi tôi là Hoàng cho tiện”.

“Vâng, vâng! Ông Hoàng đã từng xuất
ngoại nhiều lần, có phải thế không ạ?”

“Tôi ngại xê dịch lắm nhưng việc bắt
buộc phải đi thì đành vậy chứ biết sao, thưa cô!”

“Đành thế; ông vẫn có nhiều kinh nghiệm
về xê dịch. Và điều tôi mong mỏi là ông sẽ giúp tôi…”

Giúp Yến? Thì Hoàng đã sẵn sàng. Vả lại,
có gì phiền phức lắm đâu. Một vài thủ tục giấy tờ khi xuống Bangkok, một vài
trao đổi điện thoại với sứ quán… thế là xong. Hoàng và Yến thong dong về khách
sạn bằng xe của hãng hàng không, Hãng A.F. thì phải. Họ có trách nhiệm cung phụng
hai khách hàng đặc biệt này cho đến khi một người lên được chiếc phi cơ đi
Paris và một người tìm ra được chuyến bay thích hợp để trực chỉ La Mã.

Lẽ dĩ nhiên sự cung phụng, dầu khả ái
đến đâu, vẫn chỉ giới hạn ở hai khoản: ăn và ở. Còn như các chuyện lặt vặt
khác, như đi dạo phố mua quà kỷ niệm, đi coi múa hát, xem phong cảnh, v.v. thì
ai nấy phải tự túc, kể cả cô Yến và ông… Hoàng!

Thế gian cứ thế mà trôi. Không ai
nóng lòng sốt ruột, tuy thời tiết ở Bangkok chẳng êm dịu chút nào. Còn nóng hơn
cả Sài Gòn nữa!

Cái phiền là ở chỗ Hoàng phải lên phi
cơ tiếp tục cuộc hành trình ngay nửa đêm hôm đó; mà Yến thì phải lưu lại
Bangkok mãi cho đến năm giờ chiều hôm sau.

Cuộc chia tay nào chẳng buồn? Huống hồ
cuộc chia tay này còn đeo theo nó cả một cuộc bàn giao… bất đắc dĩ.

Nguyên nhân là hồi chiều cùng đi dạo
phố với Yến, Hoàng đã cao hứng nhắc đến chùa Phật Ngọc và hết sức ca tụng vẻ đẹp
huyền bí của nơi này, vẻ đẹp từng gợi cho Hoàng xiết bao thi cảm trong chuyến
du ngoạn tám tháng trước đây:

Ôi! Chùa Phật Ngọc mái long lanh

Đất Phật từng gieo hạt Ngọc Lành.

Du tử dâng hồn lên Vọng Các

Gương soi chẳng chút úa màu xanh…

Thế là Yến nhất định đòi thực hiện
chuyến hành hương tới ngôi chùa vương giả đó. Nhưng thời gian quá gấp, Hoàng
đành phải điện thoại cho một ông bạn tòng sự tại sứ quán để nhờ ông ấy thay thế
Hoàng trong cái sứ mạng làm hướng đạo cho “người đẹp”. Chứ biết sao!

Cuộc bàn giao diễn ra – rất tốt đẹp –
ngay tại phòng khách lớn của khách sạn lúc tám giờ tối. Hoàng chia tay với Yến
lúc mười một giờ, và tới phi trường vào đúng nửa đêm.

Mặc dầu Bangkok là một phi cảng lớn bậc
nhất Đông Nam Á, và lúc này – tháng Bảy dương lịch – đang là mùa phiếm du, hành
khách đợi các chuyến bay đêm cũng chỉ thưa thớt, khiến cho quang cảnh đột nhiên
trở thành hiu hắt tiêu sơ. Gió lạnh như mùa thu Hà Nội. Và tưởng đâu có mưa bụi
lất phất, hay mưa phùn dai dẳng từng đợt ly sầu. Không khí bỗng trầm xuống, màu
sắc Đường thi tỏa ra, mỗi phút một thêm hư ảo. Hoàng thấy mơ hồ như có ai nhắc
khẽ vào tai – hay vào tiềm thức? – mấy câu thơ đời Đường (của ai, không nhớ nữa!):

Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô

Bình minh tống khách Sở cơn cô…

Và, đúng như định luật về phản ứng
dây chuyền, thơ đã gọi ra thơ… Một viên cuội nhỏ vừa ném xuống mặt ao trầm tư;
một vòng tròn nhỏ hiện ra, phút giây sau hàng trăm ngàn chiếc vòng đồng tâm lần
lượt hiện hữu, lớn dần, lớn dần… Mấy câu thơ trên đã tự xóa mờ trên cái dốc êm
đềm của ký ức Hoàng, để được thay thế bằng những câu khác. Cứ thế… cho đến khi
một hình ảnh vút bay ra, tràn ngập cả câu thơ. Và những câu tốt số này ngưng đọng
hẳn lại; như phía trước mặt, con dốc không còn nữa, nhường chỗ cho một âm hưởng
hay một mùi hương man mác nào.

Hoàng nghe thấy chính mình ngâm lên,
sương khói bay theo từng tiếng bằng tiếng trắc; và có lẽ là thơ trong kịch Tây
Sương:

Thi ông lão khứ Oanh Oanh tại,

Công tử quy lai Yến Yến mang.

Và ngay tức khắc, Hoàng ngâm luôn bốn
câu phỏng dịch, tưởng như mình đã dịch sẵn từ bao giờ:

Vương tôn có lúc hồi hương

Thi nhân có lúc điểm sương mái đầu.

Oanh còn tiếng hót giọt châu

Yến còn ngơ ngác vòng sầu nắng mưa?

***

Thế rồi… lại yên vị trên phi cơ. Lại
lơ đãng nhìn xuống… Nhưng chỉ là nhìn xuống cả một rừng đèn sáng rực đủ màu, xa
dần như ảo ảnh, nhường chỗ cho đêm tối mênh mang.

Tiếng hót của Oanh cũng chìm theo,
vòng sầu của Yến cũng liệng sâu mãi vào tiềm thức để cùng nối lại trong đó giấc
trường miên. Vọng Các – một đoản đình bất ngờ – đã chỉ còn là kỷ niệm đối với
Hoàng. Cái bóng lớn của thủ đô La Mã bắt đầu lấp ló rồi kia! La Mã, một trường
đình có ghi sẵn chứ đâu phải bất ngờ như đoản đình Vọng Các. Theo truyền thuyết
Tây phương, thủ đô tráng lệ này phải là điểm tận cùng của mọi con đường; nhưng
theo ý Hoàng lại khác hẳn.

Đó là khởi điểm của nhiều con đường,
mặc dầu đối chiếu vào trường hợp của Hoàng, khởi điểm đó còn mang tính chất tất
yếu và bất khả kháng nữa, chứ có phải Hoàng lựa chọn nó, hoặc tha thiết gì với
nó đâu. Thật vậy, Hoàng không xuống La Mã không xong; nghĩa là không thể nào đến
được nơi mình định đến, nếu chẳng ghé vào La Mã ít nhất ba hôm, ban ngày thì lo
thủ tục nhập cảnh, ban đêm thì ngửa trông vòm sao du mục, tiên đoán một vài
chuyện sắp xảy ra, hoặc tiên liệu một vài thái độ thích nghi nào đó.

Ôi, trường đình La Mã, dầu sao ta
cũng có chút duyên với mi! Sáu năm trước ta cùng mi sơ ngộ đúng nửa đêm; lần
này thì đúng nửa đêm ta dời bỏ Vọng Các, vượt muôn trùng gió mây để cùng mi tái
ngộ. Không duyên mà thế sao?

Bởi vậy, ngay từ khi chưa vào tới
không phận của Âu châu, Hoàng đã viết được trọn vẹn sáu giòng thơ mở đầu cho
bài “Đêm vào La Mã”:

Ai xưa mưa tạnh liền sông,

Ta liền đêm rối phiêu bồng đường bay.

Gió sương đổ hết về đây,

Phi trường La Mã khoác dày áo đêm.

Vòng theo khoảng cách đôi kim

Thời gian buông bắt trái tim giang hồ.

...

Vòng kim thời gian đã vậy; chẳng biết
có còn vòng Yến-bay-hoang nào nữa không, hỡi kẻ độc hành mang nặng Nghiệp?

Sài Gòn, tháng Tám dương lịch 1971

(Ghi lại chuyến đi 1965)

Vớt lại trần ai…

Khó mà quên được Tết năm đó, mỗi khi
ngồi uống trà một mình. Không bắt buộc phải trà ướp sen. Quý hồ đợt khói trên
miệng chén trà có hồn sen là đủ!

Hồn sen thoảng ngát trà dâng đượm

Ai biết mình sen rụng xác xơ… [1]

[1] Trích bài "Qua áng hương
trà" (trong tập Mây, Hà Nội, 1943).

Năm đó, phải chăng năm Quý Mùi, tây lịch
1943? Hoàng ăn Tết dưới mái gia đình, như thường lệ. Nhưng khác thường lệ ở chỗ
ngay từ mồng Hai Tết, Hoàng đã lấy xe lửa di chuyển từ Nam Định lên Hà Nội, và
có mặt giữa đám anh em làng Say ròng rã từ chiều mồng Hai cho đến hết tháng
Giêng mới rã đám.

Chẳng hiểu vì lý do nào mầu nhiệm, mà
Tết năm ấy xem chừng bạn văn của Hoàng, anh nào cũng phong lưu cả. Không dám
nói là tiền bạc như nước, nhưng cái khoản chi phối vào tửu quán ca trường thì
ai cũng đủ sức chu biện cho ba ngày tròn là ít.

Thoạt tiên chỉ có bốn người, Hoàng
cũng ở trong số ấy. Rồi sau bốn ngày, mỗi người lại tìm được ba người khác để
tách rời ra khỏi nhóm nguyên thủy. Rồi cứ thế… cứ thế! Mấy chốc mà chẳng bay
vèo hết sạch cái “tháng ăn chơi”.

Tuổi Hoàng chưa đến ba mươi; chẳng cần
mang kính màu hồng màu biếc, Hoàng cũng thấy cảnh trước mắt toàn hoa nở lá
tươi, vừa đẹp vừa say như chén rượu Đào-viên-kết-nghĩa.

Huống hồ từ lâu nay Hoàng đã quyết
mang vào thân cái nghiệp của một kẻ làm thơ viết kịch! Nên càng tin rằng cảnh
trước mắt kia đang là “cảnh khói”, đúng như câu văn bất hủ của Lý Bạch: “Dương
xuân triệu ngã dĩ yên cảnh, Đại khối giả ngã dĩ văn chương”.

Cảnh xuân tại Hà đô mướt dịu như
khói, mình được triệu thỉnh đến thưởng thức, không lẽ mình chối từ! Lại được trời
đất kia cho vay tạm cái hồn văn trong một kiếp người, đâu lẽ mình để cho khối
ngọc bị hoen mờ nơi bùn bụi trên các nẻo lợi danh! Có ngọc quý – dầu chỉ vay tạm
trong thời hạn một trăm năm – tất phải đưa nó lên những đỉnh cao nhất của tình
cảm để nó có dịp hội tụ được tối đa những tia sáng vạn năng từ đó bùng cháy lên
ngọn lửa sáng tạo.

Các bạn văn bạn chơi của Hoàng dĩ
nhiên cũng chung một ý nghĩ. Mà không thể sao được, khi bốn chung quanh, thời
tiết đang mê hoặc mọi cảm quan, và miền ngoại ô Hà Nội đang biến dần thành giấc
mơ những sự thật phũ phàng nhỏ mọn nhất.

Ôi, mùa rét ngọt mưa bay rượu,

Thành gấm thôn hoa mộng nở bừng!...

Hoa thôn với Cẩm thành nào đây mà
nghe như trong kịch Tây sương hoặc truyện Liêu trai chí dị? Không! Nơi đây chỉ
là một ngã tư, trông lên phía Bắc là đô thành Hà Nội, nhìn xuống phía Nam là nối
tiếp nhau từng thôn xóm có lũy tre xanh bao bọc. Còn hai ngả kia thì một dẫn tới
ngoại ô Bạch Mai và một đưa bước kẻ du hành qua vùng Láng, vòng sang Cầu Giấy,
hồ Lãng Bạc, đường Cổ Ngư. Giống như hai cánh tay mở rộng ôm lấy cố đô Thăng
Long. Ngã tư đó, nơi Hoàng họp bạn lúc bấy giờ – tháng Giêng năm Quý Mùi –
chính là Ngã tư Sở.

Và câu chuyện phải bắt đầu từ nhà văn
họ Lê, tác giả cuốn tiểu thuyết “Cánh sen trong bùn”. Người đã từng nổi danh
trên văn đàn cũng như trong cái thế giới đặc biệt của khói men, của xênh phách.
Người giữ được tiếng tăm rất lâu, chứng minh được rằng ba chữ “sống để viết” có
thể kéo theo chúng cả một định lý đảo: “viết để sống”; và chứng minh rất hùng hồn
nữa kia! Người mà tuần báo Phong hóa đã giễu cợt bằng cách gọi đích danh để mắc
theo vào một biệt hiệu dễ gây ngộ nhận: “Lê Văn Trương, huênh-hoang-tôn-ông”.

Phải! Cái dáng điệu hùng dũng như sắp
“thanh gươm yên ngựa” đến nơi, cái giọng điệu “đao to búa lớn” vang dậy trong
câu hỏi ngắn và sắc đi liền theo tiếng gọi như sấm nổ:

“Hoàng Say đại huynh, vi hành đâu đấy?
Chẳng phải Lê Văn Trương thì còn ai!”

“Lê tôn ông đó ư? Tiểu đệ đang “lêu
têu”, và sẵn sàng nghe lệnh”.

Câu trả lời của Hoàng – có vẻ phường
chèo đối với người khác – đã được Trương đón nhận như những lời nghiêm chỉnh nhất
của một kẻ đồng điệu, một bạn tri âm. Và Trương quay về phía sau nói như quát:

“Anh em, sửa soạn nghênh tiếp Hoàng đại
huynh nghe! Nói với chị Ba rằng chuyện gì cũng phải dẹp đi hết. Nếu cần, đuổi bọn
tục khách ra đường! Khách quen cũng đuổi. Nhớ nhé! Bảo rằng lệnh của ‘anh’.”

Lúc này Hoàng mới kịp nhận diện hai
người bạn tháp tùng họ Lê. Tưởng ai xa lạ, chẳng hóa ra vẫn Hồng với Hiến, tả hữu
mà cũng đồng thời là tâm phúc, là “anh em kết nghĩa vườn đào” với Trương. Nhưng
Hoàng chưa kịp chào hỏi thì họ đã quay gót chạy vụt đi như một cơn gió.

Mà… mà… gió lên thật, mới thú chứ! Vì
chỉ năm phút sau, hai người “anh em” đã hoàn tất sứ mạng, trở về phụng chỉ rất
đàng hoàng.

“Nào, xin mời đại huynh!”

Trương vừa nói vừa kéo mạnh tay Hoàng
dắt đi, lại còn ngoái cổ dặn tả hữu:

“Hiến, về báo cho cả bọn nó biết rồi
ra ngay. Còn Hồng, đi chu biện gấp. Hôm nay đại yến, phải một “quả cà” mới đủ
được, nghe! Thêm một cóng “ngoại thủy” nữa cho đậm. Nhớ chứ?”

Rồi chẳng cần “hướng đạo quan”, Hoàng
và Trương – oai vệ như hai bậc đế vương – từ xóm Vĩnh Hồ đổ xuống ngã tư, rồi rẽ
tay trái. Lầu hao của Bạch Liên thư thư.

Đêm ấy họ Lê “hùng” lắm. Ăn nhiều,
nói lớn, uống cũng khỏe và… mây khói đi về cũng tan tác Vu Sơn…

“Quả cà” do Hồng đem tới mới lợi hại
làm sao! Ít khi Hoàng say đến thế. Tự hỏi: Không biết có phải là “cà độc dược”
chăng?

Cơn say “lơ mơ” kéo dài qua những
cung bậc quen thuộc, đến độ rơi hẳn vào cõi “vô cùng thiên địa” lúc nào chẳng
hay…

Kịp đến khi phân biệt nổi nhịp phách
“Dựng” líu ríu đổ theo cung đàn tuôn thác lũ xuống ghềnh, và phảng phất nghe
như rơi rụng từng hạt châu hiện thành tiếng:

Xa… từ xa kinh khuyết bấy lâu

Tầm dương đất trích ư… ư… gối sầu hôm
mai.

Thì mở mắt nhìn ra đã… “đông tây lặng
ngắt”. Lê Tôn Ông, nhị vị Hồng, Hiến và cả bọn đã rút lui từ bao giờ.

Hoàng định thần một phút, toan ngồi dậy.
Nhưng Bạch Liên đã dồn phách dứt câu, rồi đặt phách xuống, khoát tay cho nghỉ
đàn, và thong thả tiến lại, nơi Hoàng cao ngọa…

Khoảng cách giữa hai cái sập gụ trải
chiếu hoa chỉ vào khoảng ba thước rưỡi Tây, thế mà Hoàng có cảm giác nó dài như
dãy núi nào ở miền Trung nước ta, hay con sông nào ở miền Nam nước Tàu. Mới lạ
chứ!

Hẳn là vì Hoàng nằm đối diện với chiếc
gương lớn chạy dọc theo bức tường phía bên này. Trong khi, chênh chếch về phía
bên kia, Bạch Liên đang hài tơ nhẹ chuyển.

Mắt Hoàng dán vào gương. Như muốn giữ
chặt lấy màu da vẻ tóc… Như muốn giữ luôn cả hơi hướng tiết ra từ đàng sau nét
son, cả những rung động truyền đi từ chiều sâu khóe hạnh của người đẹp… Con người
bao năm trước, tháng trước, tuần trước, Hoàng chỉ thấy đẹp có một vài phần,
đáng tin cũng chỉ một vài phần hay ít hơn nữa. Thế mà lúc này, giây phút này,
Hoàng bỗng thấy đẹp cả mười, và đáng tin cả trăm ngàn ức triệu…

Giây phút quý báu thật. Lẽ nào không
bắt nó ngưng lại, đứng hẳn lại! Nếu dòng thời gian chẳng thuận tình, thì tách
nó ra khỏi thời gian. Bằng đủ mọi cách. Đủ mọi cách… Đủ mọi cách…

Và lần này, Hoàng mê đi khá lâu.

Trong cơn mê, hồn Thơ tỉnh táo hơn
lúc nào hết. Vì khi thức giấc, đêm đã quá khuya, Hoàng phải khêu lại bấc để ghi
vội tám câu lục bát vừa lẻn vào tâm trí như một mùi hương nhẹ thoáng mà lấn át
cả “hương nâu”. Ghi vội kẻo sáng mai quên hết mất. Lấy gì tạ lòng ai cho xứng
đáng bằng?

Nhưng sáng hôm sau, chờ mãi chẳng thấy
Bạch Liên xuất hiện. Các em trong “Lầu hoa” đều không biết rõ “mợ” đi đâu và đến
bao giờ mới về. Hoàng đành gửi lại tám câu đó:

Gót sen vừa nở đã tàn

Bóng gương chết lặn âm đàn phai theo

Mùi hương sứ giả bay vèo

Dễ đâu tâm ý cùng gieo ngắn dài

Chông chênh vần lạc phách sai

Lỡ nhau Bông trắng lầm ai Thơ vàng

Ôi, nàng… sen dời lầu trang

Đường tơ ai nối cho chàng say đây.

***

Bẵng đi đến cả tháng. Một hôm bất ngờ
dậy sớm, Hoàng ra đứng ngoài bao lơn nhìn xuống lòng đường. Con đường nhỏ hẹp của
phố Hàng Đàn, chỗ sắp rẽ ra Hàng Quạt. Chừng chín giờ thì phải. Đường vắng hoe.
Chợt thấy một chiếc xe nhà từ miệt Cửa Nam đi tới. Người kéo xe thả chậm bước,
chừng như người ngồi xe đang muốn tìm nhà ai. Cứ thế, chiếc xe tiến dần về ngã
ba Hàng Quạt. Rồi… xe quay trở lại. Vừa lúc Hoàng nhận ra được Bạch Liên, bệ vệ
như một “bà lớn”.

Tiếng Chu Ngọc vang lên sau lưng
Hoàng:

“Chết cha! Cậu còn “kẻ râu” ở dưới ấy
hả?”

Hoàng chột dạ, toan quay vào. Nhưng
không kịp nữa. Bạch Liên đã nhanh mắt trông lên và nhận diện được cả hai gã rồi.

Tuy nhiên, căn gác này Hoàng và Ngọc
bày ra bề bộn quá; chỗ thuê để tập kịch ấy mà! Đồ đạc có thứ nào vào với thứ
nào đâu! Mời người đẹp lên thì bất tiện quá. Ấm chén cọc cạch, lại chẳng có gói
trà nào ra hồn; chẳng lẽ mời khách lầu hoa uống nước theo kiểu dân lao động?

May sao lúc đó Hoàng đã đóng bộ được
một nửa [2]. Nghĩa là chỉ cần xỏ giày, thắt cờ-ra-vát nữa là xong. Liền vội vã
xuống đường. Ngọc còn dặn với theo:

“Chớ có mời lên đấy!”

[2] Trích "Bài hát cuồng" (cũng
trong tập Mây).

Rõ khéo anh chàng Ngọc vô duyên! Đã dễ
“người ta” lên cái ổ chuột này đâu mà mời với chẳng mời!

Hoàng nghĩ thế mà đúng. Vì xe dừng
phía bên kia đường. Hoàng vượt sang hội diện.

Câu chuyện trao đổi rất nhanh. Vì Bạch
Liên vẫn ngồi trên xe chứ không xuống…

Thế rồi xe lại “như bay trong cõi hồng
trần” đưa nàng “trở gót trướng hoa”… Phố xá lại vắng ngắt. Hoàng lại vượt qua
đường, vào nhà, lên gác. Như không có chuyện gì xảy ra.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3