Ta Đã Làm Chi Đời Ta - Chương 2 - Phần 1

Hà, Bắc, Hải, Đông…

Không nhớ rõ năm 1942 ấy đã đi đến
tháng thứ bao nhiêu. Chỉ nhớ chắc rằng chuyện xảy ra khoảng mùa Hạ. Vì, nếu
không phải mùa Hạ, thì sao có mục “dạo mát trên bờ sông Thương” và mục “ngồi quạt
cho người đẹp tỉnh Đông” chứ!

Chiều hôm đó, Hoàng định lên Bắc
Ninh, thăm “Biệt phòng” ở xóm Niềm. Mà đã phải nghĩ tới chuyện này, là trong
túi đã xu hào không còn rủng rỉnh nữa. Cần một chỗ nằm yên, có người cung phụng
đủ thứ, và rủ rỉ đôi lời ân ái suông!

Ai ngờ, cái số thật trớ trêu! Vừa ra
khỏi căn nhà phố hàng Cót, để tiến tới ga Đầu Cầu, thì đụng ngay hai gã: Tô
Hoài, Nguyễn Bính.

Tác giả Lỡ bước sang ngang tự mắc
luôn vào Hoàng, điều này đâu có lạ gì đối với nhà thơ cát bụi ấy. Lạ là lạ ở chỗ
anh chàng học trò mặt trắng, hiền lành như con gái kia, là Tô Hoài, cũng nhất định
xin kết thành bộ ba “Giang hồ vặt”.

Hoàng cảm thấy hơi nguy, cái nguy của
một đầu tàu đang lúc cạn than, củi. Không lẽ chạy toàn bằng nước lã hay sao?

Nhưng, đã đi thì phải đi cho trót. Đến
đâu thì đến đâu. Hãy biết một điều: Không mất tiền mua vé cũng cứ “đi” và cứ “đến”
được. Hoàng quen khắp mặt các “xếp tanh” (Chef de train) trên quãng đường sắt
này mà.

***

Bính và Tô lang thì thích thú lắm, mặc
dầu riêng chàng Tô có hơi run…

Bánh sắt quay thong thả, chừng 30 cây
số một giờ, nhưng rồi thoáng cái đã đến ga Bắc Ninh lúc nào không biết.

Trên sân ga chỉ thưa thớt mấy chục
hành khách; Hoàng nhận ra ngay trong số những tà áo màu tung bay phấp phới một
dáng vẻ quen quen. Thì vừa đúng kịp đôi mắt lá răm nhìn lên, và tiếng reo lứn
được ném ra, át cả tiếng “xình… xịch” của máy hơi nước.

“Anh Hoàng đấy hả? Chị Tuyết vừa xuống
Hà Nội rồi. Em ra đón người quen nhưng chưa thấy bóng vía đâu cả. Anh xuống chứ?”

Hoàng đẩy vội hai ông bạn quý vào
trong toa rồi cũng vào theo; và ló đầu ra ngoài khuôn cửa, nói một cách uể oải
lừng khừng:

“Xuống làm gì bây giờ? Thôi để ít hôm
nữa Tuyết nó về hẵng hay.”

Cô đào rượu ở nhà hát của Tuyết xóm
Niềm nhe răng cười, có vẻ thông cảm lắm.

Cờ lại phất. Còi lại thổi. Và chuyến
xe lại tiếp tục lên đường, đem theo ba gã hành khách bất đắc dĩ…

Nhưng chỉ một giờ đồng hồ sau thì đến
chỗ “sơn cùng thủy tận”. Vì chuyến xe lửa này chỉ đi đến Phủ Lạng Thương là hết
nhiệm vụ. Mà đây, Phủ Lạng Thương rồi. Nguy chưa!...

Đành kéo nhau xuống vậy. Mặt trời
cũng đang xuống. Màu nắng quái lê thê trên tỉnh lỵ Bắc Giang. Ngày mùa Hạ dài
thật. Và như thế, đêm nay sẽ ngắn. Lời tục nói “Tháng năm chưa nằm đã sáng”; âu
cũng là một điều may cho Hoàng.

May nữa là Tô Hoài chợt nhớ ra một
người, chắc chắn đang có mặt trong dãy phố yên tĩnh của phủ Lạng, sông Thương.
Người ấy là Bàng quân Bá Lân, có nhiều thơ đăng báo và in thành sách, lại có
nhà cửa ruộng nương, đồn điền trang trại, khét tiếng vùng này.

Khốn nỗi cả ba đều chẳng ai từng có dịp
nhất kiến với ông Bá họ Bàng cả. Không biết đến quấy rầy người ta có tiện
chăng?

Nhưng suy đi xét lại, đằng nào cũng
là trong văn giới với nhau. “Tương phùng hà tất tằng tương thức”. Bạch Cư Dị chẳng
đã bảo thế là gì!...

Quả nhiên khi gặp nhau, chẳng một ai
bỡ ngỡ; khách thì rất tự nhiên, mà chủ thì cười nói liên hồi, ra chiều thích
thú, an nhiên tự tại lắm.

Rồi cơm được bưng ra, khả dĩ ăn no bụng.
Câu chuyện thơ văn cũng được đề cập, khả dĩ thêm hương vị cho chén trà mạn đàm…

Và rồi chủ nhân mời khách cùng ra đường:

“Chúng ta đi dạo phố một lát cho tiêu
cơm. Đến cầu sông Thương sẽ quay về ngủ cũng còn sớm chán!”

Câu nói giản dị này đã tác động với
ba chiều hướng khác nhau trong tâm lý rất phức tạp của bộ ba Hoài, Hoàng, Bính.

Chàng Tô thì mãn ý quá. Nhà văn thư
sinh này chỉ phiêu lưu theo kiểu Dế Mèn. Bỗng nhiên được ngao du không mất tiền,
lại được ăn ngon và hứa hẹn một giấc ngủ kỹ; thế là nhất rồi!

Còn Hoàng, chẳng vui chẳng buồn. Công
trình dự định đã sai bét cả, thôi đành lẽ phó cho định mệnh đẩy đưa. Đối với
Hoàng, cái tỉnh lỵ Bắc Giang này quá quen thuộc. Cả đến con sông Thương nước chảy
đôi giòng kia, đục phía nào trong phía nào Hoàng cũng nhắm mắt mà thấy được. Lại
thấy cả trong ký ức những nhà ai nhà ai nơi xóm hát bên kia cầu! Nhưng thôi,
gió chưa lên, hãy dạo mát đôi ba vòng rồi về ngủ cũng tạm ổn. “Đáo giang tùy
khúc, nhập gia tùy tục” mà!

Tuy nhiên, Bình thì hận lắm. Nhà thơ
này cứ tưởng thế nào chủ nhân cũng đãi một chầu hát linh đình, gọi là đánh dấu
cuộc hội ngộ “Tứ bất tử” mới đích đáng chứ! Đi khắp thiên hạ, mòn gót giầy gẫy
bánh xe để tìm “tri kỷ”, mà “tri kỷ” lại bảo dạo phố rồi về ngủ sớm, trước mười
giờ tối; hỏi có ức không?

Thế rồi lỉnh kỉnh suốt đêm hôm ấy,
Bính cứ ngồi dậy hút thuốc lào vặt hoài.

“Lắm muỗi quá, Hoàng nhỉ?”

“Ừ thì lắm muỗi. Ở đây gần rừng rồi mà!
Phủ Lạng còn khá đấy, chứ lên chút nữa, như Bố Hạ, Bắc Lệ thì phải biết, thiếu
màn, không nhắm mắt được yên đâu!”

“Thế mà Tô Hoài nó ngả lưng xuống là
“kéo gỗ” liền. Chịu thật!”

“Thì đang sức ăn sức ngủ của người
ta.”

“Đành rồi! Nhưng chúng mình khác.”

Làm thế nào cho qua được đêm nay
đây?... À, Bính với Hoàng liên ngâm một bài chơi đi. Thử lấy vần điệu làm binh
lực phá cái thành Sầu này xem sao!

“Phá thì phá. Ra quân trước đi! Cho
nó “Lỡ bước…” một thể.”

“Khó gì. Đây câu đầu:

Tô Hoài, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng
Chương.”

“Vần này dễ. Hoàng nối đây này:

Còi thét vào ga Phủ Lạng Thương.”

“Hay! Tiếp câu ba luôn đi; rồi Bính sẽ
đối cho thành câu bốn và ném câu năm ra liền.”

“Thong thả! Ý thì sẵn nhưng vận dụng
chữ nghĩa hơi khó. À, đây rồi: Sở tại bàng quan chầu xuống xóm.”

“Chữ “bàng quan” nhẹ quá, nhưng chữ
“Sở tại” thì hay, hay!... Bính đọc tiếp câu bốn câu năm nhé!”

Nói vậy thôi chứ Bính loay hoay mãi,
hút đến cả chục mồi thuốc lào, và bị Hoàng giục đến lần thứ ba rồi Bính mới cười
vang lên, và lấy giọng đọc:

“Thi nhân bá ngọ chuyến lên đường.

Hai giòng trong đục thêm ngao ngán.”

Hoàng trầm ngâm một phút:

“Dùng chữ “bá ngọ” người ta tưởng
mình là sư thì sao? À mà… ‘Anh hùng mạt lộ án vi tăng’[1]; làm sư một nửa thì
“bá ngọ”được lắm! Nhưng “Hai giòng trong đục”, khó đối cho Hoàng quá! Đề nghị sửa
thế này:

Giòng trong giòng đục thêm ngao ngán,

Và Hoàng sẽ đối:

Chùm chín chùm xanh uổng vấn vương.”

[1]Thơ Khiển sầu tác giả khuyết
danh có hai câu:

Nhi nữ đa tình nguyên thị Phật

Anh hùng mạt lộ bán vi tăng.

Tạm dịch là:

Lẳng tính, cô em nguyên kiếp Phật

Cùng đường, cậu ấm nửa làm sư.

Bính nhảy dựng lên:

“Tài lắm. Gợi cảm đến chết người!
Hoàng làm cho Bính càng hận vô tả. Nghe rõ từng tiếng đàn đáy đang “chùm chín
chùm xanh” ở bên tai…”

Thế rồi cả hai cùng nằm xuống giường
nghĩ nốt hai câu kết. Loanh quanh thế nào ngủ quên mất. Chắc chắn là Bính ngủ
sau Hoàng.

Mãi đến khi cáo biệt Bàng quân ra ga
Phủ Lạng để “hồi đô”, mới hoàn tất được bài Liên ngâm, trước sự ngạc nhiên của
tác giả O Chuột và Dế mèn phiêu lưu ký.

Chép lại toàn bài như sau:

Tô Hoài, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương

Còi thét vào ga Phủ Lạng Thương.

Sở tại bàng quan chầu xuống xóm,

Thi nhân bá ngọ chuyến lên đường,

Giòng trong giòng đục thêm ngao ngán,

Chùm chín chùm xanh uổng vấn vương.

Nằm muỗi qua đêm chờ sáng dậy:

Còn xe Phong hỏa xé màn sương!

***

Cái hận “thiên trường địa cửu” nói
trên, ngay chiều hôm sau là đã rũ được. Thật ra, đó chỉ là hận của Bính. Chứ Tô
Hoài thì khi chia tay ở khởi điểm (ga Đầu Cầu) để lấy xe điện về Bưởi, đã tỏ ra
mười phần thỏa mãn. Còn hẹn với Hoàng lần sau tiện dịp cứ đem theo.

Nhưng về phần Hoàng, chẳng đến nỗi hận
như Bính đã đành; thế mà vẫn cảm thấy nó thế nào ấy, làm Đầu tàu mà đi giang hồ
hão như vậy, cũng đủ mang tiếng “chí lớn tài sơ” rồi còn gì!

May sao cặp Hoàng “Bính vừa đi đến bờ
Hồ thì Chu Ngọc ở đâu hiện ra, đầu chải bóng chứ không bù xù như mọi khi, lại cả
giầy cũng bóng lộn nữa.

“Hai “ông” biến đi đâu mà từ chiều
qua đến giờ tìm đảo thiên đảo địa khắp nơi không thấy?... Đi! Lên xe cho mau.
Anh em đang đợi ở nhà Chu Thị”.

Ngọc còn nói nhiều nữa lúc bộ ba đã
nhảy lên hai chiếc xe kéo, trực chỉ xóm Khâm Thiên.

Tuy vậy, Hoàng đã có nhiều kinh nghiệm
với anh chàng Ngọc này quá rồi. Hắn mời đi nghe hát đừng có vội “tưởng bở”.

Y như rằng! Hắn và Vũ Trọng Can đã
“cháy” ở nhà Chu Thị từ hai hôm, sáng nay ông Can đã lấy được của Bắc kỳ dịch
đoàn (do Claude Bourrin) một số tiền về tác quyền mấy vở thoại kịch mà ban này
đem đi lưu diễn các nơi. Vừa đúng cơ hội người ta quay về Hà Nội nghỉ chân thì
ông Can tìm đến đòi… thanh toán.

Nhưng số tiền cũng chẳng lớn bao
nhiêu. Trang trải hai hôm trước thì còn dư chút ít, mà nằm ỳ lại đêm nay thì nhất
định thiếu mất rồi. Dở dang quá.

Bắt được Hoàng ở bờ hồ, Ngọc như bắt
được của. Lý do là trong số mấy anh em nhà văn lêu têu, chỉ riêng Hoàng có
“công ăn việc làm” đều đặn: mỗi tuần lễ xuống Hải Phòng dạy hai ngày tại một tư
thục lớn; mà hai ngày tức là mười sáu giờ, tính thành tiền được ngót ba chục bạc
rồi. Giá tiền một chầu hát chỉ bảy hay tám đồng thôi, làm gì không trả được!
Không sẵn tiền đem theo cũng không hề chi; nói một câu là “bà chủ” cho khất liền,
nhất là khi “bà chủ” lại nhiều cảm tình với bọn văn nhân như Chu Thị.

Dầu sao, hôm nay đã thứ Bảy. Nội nhật
ngày mai Hoàng phải có mặt ở Cảng để thứ Hai, thứ Ba còn dạy học chứ!

Quả nhiên, mọi việc “đâu vào đấy” cả.
Giữa trưa hôm sau – Chủ nhật – Hoàng từ biệt Dì Năm, đem theo luôn cả Bính và
Ngọc xuống Cảng. Riêng Vũ Trọng Can, còn có hẹn với nhà xuất bản nào ở Hà Nội
không biết, nên đành chia tay.

Xuống đến Cảng là vững. Chỗ “làm ăn đứng
đắn” của Hoàng kia mà! Huống hồ nhà thơ Lan Sơn, bạn thân của Hoàng tại đó, lại
sẵn một Gia ca thất; có túng quá thì “hát nhà” chứ sao! Đủ lệ bộ hết. Trống,
phách, đèn, đóm… tha hồ.

Nguyên ủy cũng ly kỳ lắm, nhà thơ tác
giả “Anh với Em” trẻ tuổi mà tài cao: mới 20 tuổi đầu đã thi đỗ ông phán tòa Đốc
lý. Rồi cưới được người mình yêu. Hạnh phúc nhất thiên hạ. Biết đâu ông Trời
ghen thét: giữa đường đứt gánh phu thê, nhà thơ lãng mạn này bỗng hóa thân một
bông Lan ủ rũ. Mà ủ rũ ghê gớm, một hai những tưởng hương chìm trong cánh rụng
trong… hang. Nhưng rồi Nàng Tiên của Động Nâu mơn trớn thế nào mà Lan dần dần
phục hồi được sinh lực, hay nói cho đúng hơn, lòng yêu đời. Lan đã tục huyền với
một danh ca tỉnh Đông, và tổ uyên ương nơi đồng chua nước mặn, lại có bàn tay
ngà săn sóc.

Hoàng xuống Cảng từ đầu năm 1941, thời
thường vẫn là thực khách của hai vợ chồng rất “nghệ sĩ” này.

Một ngày kia, Lan tâm sự:

“Mình sắp trở thành “bác trai” đây.”

“Hả?”

“Đừng ngạc nhiên…! Cô nàng cứ đòi ra
mở nhà hát. Lý luận rằng: Trước kia ở đây chỉ có xóm Quán Bà Mau độc chiếm thị
trường, mặc dầu khá xa trung tâm thành phố; bây giờ xóm Quần Ngựa lác đác có mấy
nhà mở, đông khách vô cùng, vì lẽ nó gần, lại khang trang hơn. Cô nàng bảo đó
là dịp tốt. Sẵn vốn liếng, tiền bạc, giọng ca, xuân sắc và cả đàn em nữa, tội
gì không ra thi thố với đời?”

“Thế cái nhà dột trong ngõ hẹp này
anh trả lại à?”

“Không, chỉ cô nàng phải lên trên xóm
Quần Ngựa trông nom thôi chứ. Còn mình thì đi đi về về…”

“Một chốn đôi quê, mệt nhỉ?”

Nói thế thì nói, chứ Hoàng cũng không
chính thức góp ý kiến gì cả. Lan trở thành “bác giai” càng vui chứ có sao đâu.

Còn Nguyễn Bính và Chu Ngọc thì đích
thực là số đỏ. “Nhà hát” của Lan Sơn vừa khai trương được hai tuần xong, đang hồi
thịnh đạt. Ban ngài làng văn từ Hà Nội xuống, cứ việc thiết lập “Hành đô”, gió
nổi lớn càng hay; bằng không, Hoàng và Lan sẽ chia nhau gánh chịu phí tổn, mỗi
người một nửa; “bà chủ nhà hát”, không phiền hà gì. Còn làm mối cho bạn cô này
cô kia là khác ấy chứ!

Dầu sao, Hoàng cũng phải lo chu tất mọi
chuyện. Hiện kim chưa có được ngay; phải khất lại đến giữa tháng mới ký “bông” ở
trường học được, thì cũng là hát “cháy” rồi còn gì?

Huống hồ Bính lại bảo: “Cây nhà lá vườn
mãi, chán chết. Phải xuống Quán Bà Mau một phen mới vơi nổi cái sầu vạn cổ
này.”

Thế là đám “cháy” lan rộng ra mãi, dập
tắt sao cho hết được bây giờ?

Bởi thế, Hoàng mới hạ bút một bài
"Mưỡu nói", tạm lấy chữ “cháy” làm nhan đề:

Từ đêm Chu Thị cháy nhà,

Cháy vào Hà Nội cháy ra Hải tần.

Cháy xa thôi lại cháy gần,

Một phen dung hỏa, mấy lần cầu phong!

Cháy hoài cháy hủy

Gió không nhiều, âm ỉ cháy lan man.

Dụng hỏa công tài nghệ lấn Chu Lang,

Trí dũng vượt Trương Lương cầu Sạn đạo.

Tam nguyệt Hàm Dương tro lạnh lẽo,

Tứ vi Bàn Cốc khói lưa thưa.

Thuyền, cầu, hang, cung điện hỡi mấy
ngàn xưa!

Đây cuộc cháy hãy còn to thập bội!

Ấy ba gã tuềnh toàng cùng một hội.

Chẳng đường hẻm lau khô, cũng không cần
gió nổi,

Cháy từ đêm Hà Nội cháy loang ra…

Lửa chơi ai dập cho bà?

***

Hoàng xuống Hải Phòng đã được bốn
hôm. Đám “cháy” lan rộng có nguy cơ khốn, thì may quá – một cái may bất ngờ –
Chu Ngọc đi lêu têu thế nào lại vào đúng đường dây của một ông chủ rạp hát đang
muốn làm việc nghĩa. Việc nghĩa theo nghĩa đúng. Nghĩa là: Trình diễn một buổi
kịch long trọng, lấy tiền giúp vào việc chẩn tế các nạn nhân bị thiên tai,
quanh vùng Hải Kiến thì phải. Tuy tham dự vào nghĩa cửa cao đẹp này, Ban Kịch của
bộ ba Ngọc – Hoàng – Bính vẫn được hưởng thù lao tương xứng. Và nhất là được
người tổ chức đưa trước một số tiền để sửa soạn các thứ: diễn viên, y phục, bài
trí v.v…

Chu Ngọc vui như trẻ con được cho kẹo,
nói cười huyên thuyên:

“Kịch thì sẵn rồi. Một kịch xuôi – Thế
Chiến Quốc – của Trần Tử Anh [2] ; và một kịch thơ – Bóng giai nhân [3] – của
Nguyễn Bính. Chỉ còn lo mấy chuyện lặt vặt. Nhưng có hai việc phải làm ngay. Việc
thứ nhất: chọn một danh xưng cho Ban Kịch mới, chẳng lẽ gọi là Ban Kịch Bộ Ba,
hay Ban Kịch Ngọc Hoàng Bính!”

[2] Trần Tử Anh, tác giả vở kịch xuôi
Thế chiến quốc, là một sinh viên con nhà giàu, chứ không phải trong nhóm “thơ
văn lêu têu”. Chỉ có Chu Ngọc quen mà thôi. Mãi sau Hoàng mới gặp mặt tại Hà Nội.

[3] Vở kịch thơ này Nguyễn Bính lúc bấy
giờ cho biết là đã hợp soạn với thi sĩ Yến Lan; nhưng Yến Lan ở miền Trung,
Hoàng chưa hề gặp.

“Khó gì!” – Hoàng góp ý kiến – “Chúng
ta đã nổi gió từ Hà Nội bốc xuống đây, thì cứ đặt phăng là Ban Kịch Hà Nội và lấy
Tháp Rùa làm huy hiệu ấn tín, cho nó hách một thể.”

“Đúng! Còn việc thứ hai là… dời khỏi
nơi này gấp. Nằm lâu quá, ê ẩm cả xương cốt; chúng ta phải ra Đồ Sơn tắm biển mấy
hôm cho sạch sẽ mát mẻ đôi chút, rồi mới bắt tay vào việc được”.

Bính không phản đối nhưng xem ra muốn
nằm lỳ ở Quán Bà Mau hơn là đi tắm biển. “Trưởng giả quá!”… Bính vừa nói vừa
bĩu môi.

Tuy nhiên, người cầm tiền bây giờ là
Chu Ngọc. Hoàng tạm thời nhường lại cái chức Đầu tàu cho y. Bính có nhõng nhẽo
với Hoàng cũng vô ích. Huống chi Hoàng đã lưu lại nhiều cảm tình, vô số người
đang muốn gặp để kéo đi ngồi nghe sóng biển mơ dựng những lâu đài bằng cát cho
tương lai …

Thế là bộ ba tạm sống được 48 giờ
lành mạnh ở bãi biển, ra cái điều cũng “vui vẻ trẻ trung”, không thua gì thiên
hạ đâu!

Nhưng đến giờ thứ 49 thì… đành… hàng.
Chịu không nổi nữa cái vẻ mặt đưa đám và cái giọng ngâm thơ đứt ruột của Bính.
Chừng như suốt bao đêm hát “cháy”, Bính chẳng tìm được cặp mắt nào gọi là hơi xanh
xanh một chút cả. Cô nào cũng nông cạn, vô duyên đến phát khóc lên. Cặp mắt đã
vậy, tấm lòng thì:

Lòng em
như chiếc lá khoai

Đổ bao
nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu [4]

[4] Thơ của Nguyễn Bính, đã đăng báo,
và đã in, trong tập nào không nhớ rõ.

“Bính nó khổ quá” - lời Chu Ngọc –
“thôi bọn mình “bốc” về Hà Nội đi. Cho nó nằm một chỗ nào thật vững; rồi chúng
mình còn lo công việc chứ.”

“Được lắm!” Bính cướp lời – “nhưng
không về Hà Nội, mà ghé Hải Dương kia!”

“Sao lại Hải Dương?” – Cả Ngọc cả
Hoàng cùng hỏi dồn dập – “Hải Dương thì khác gì Hải Phòng?”

Bính nháy mắt:

“Bí mật chưa thể tiết lộ. Hai ông hẵng
cứ biết là đưa Bính xuống tỉnh Đông cái đã. Tới nơi rồi khắc biết lý do.”

***

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3