Mảnh gốm vỡ - Chương 01
Tặng Dinah, bởi vì cô ấy muốn có thêm một cuốn sách!
Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến nhà điêu khắc
kiêm nghệ nhân làm gốm Po-wen Liu, người đã đọc thẩm định bản thảo và đưa ra
những nhận xét quý báu về quy trình làm đồ gốm tráng men ngọc bích. Tôi xin
chịu trách nhiệm về bất cứ thiếu sót nào còn lại trong cuốn sách này. Trong quá
trình viết, tôi đã nhận được sự hỗ trợ đầy nhiệt tình và những lời phê bình quý
giá từ người hợp tác là nhà phê bình nghệ thuật - Marsh Hayles và đại diện của
Ginger Knowlton.
Dinah Stevenson và những người ở Clarion Books đã giúp
cho quá trình xuất bản mỗi cuốn sách của tôi trở thành một niềm vui thực sự.
Mỗi cuốn sách của tôi viết đều dành cho Sean và Anna.
Tôi cũng dành cho họ và gia đình tôi lòng biết ơn vô hạn - đặc biệt và bao giờ
cũng dành cho Ben.
Một ngôi làng nhỏ trên bờ biển phía Tây Triều Tiên,
cuối thế kỉ XII.
Chương 1
“Này, Mộc Nhĩ! Bữa nay
lại đói nữa rồi chứ gì?” - Bác Sếu gọi toáng lên khi thấy chú bé Mộc Nhĩ ló ra
gần cây cầu.
Những người no đủ trong
làng thường lịch thiệp chào hỏi nhau bằng câu chào quen thuộc: “Hôm nay nhà bác
được bữa no chứ ạ?” Riêng Mộc Nhĩ và người bạn già của nó đảo ngược câu chào ấy
để làm trò bông đùa riêng giữa hai người.
Mộc Nhĩ nắm chặt cái bao
nhỏ căng phồng đeo bên hông. Nó muốn giấu cái tin mừng này, nhưng niềm vui cứ
trào ra ngoài: “Bác Sếu ơi! Lời chào của bác chỉ đúng vào lúc này thôi, chiều
nay mọi chuyện sẽ khác!” Mộc Nhĩ giơ cao cái bao lên. Nó khoái chí thấy bác Sếu
tròn mắt ngạc nhiên và biết bác ấy sẽ đoán ra ngay lập tức - chỉ một thứ có thể
làm cái bao tròn trặn và căng phồng như thế. Không phải đầu củ cà rốt hay những
mẩu xương gà nhô ra thụt vào lởm chởm đâu nhé. Không dám đâu, cái bao đựng đầy
gạo.
Bác Sếu giơ cao cây nạng
chào Mộc Nhĩ. “Lại đây! Kể ta nghe thế nào mà con vớ được của quý như thế -
chuyện này lạ lắm đây, chắc vậy!”
Mộc Nhĩ đang nhẩn nha đi
dọc con đường làng trong cữ bới rác vào sáng sớm như thường lệ. Đi trước nó là
một bác nông dân lặc lè địu chiếc jiggeh nặng
trịch, đó là loại gùi thưa đan bằng cành cây. Trong jiggeh là một bao cói lớn, loại người ta thường dùng tải gạo.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Mộc Nhĩ biết gạo trong
bao hẳn phải từ vụ mùa thu năm ngoái; trên những cánh đồng quanh làng, vụ lúa
năm nay mới lún phún mọc lên. Phải mấy tháng nữa mới được gặt, khi ấy những
người nghèo mới được phép mót thóc vương vải trên những cánh đồng chỉ còn trơ
gốc rạ. Bấy giờ người ta mới được thưởng thức hương lúa mới và cảm thấy chắc
bụng. Lúc này, chỉ nhìn bao cói đựng gạo, nước miếng đã ứa ra trong miệng thằng
bé.
Người đàn ông dừng lại
giữa đường, xốc lại chiếc gùi cồng kềnh trên lưng.
Mộc Nhĩ trố mắt ra nhìn:
kìa, gạo bắt đầu rơi ra từ một lỗ thủng trên bao cói. Gạo rơi mau hơn rồi tuôn
thành dòng. Hoàn toàn không biết gì, bác nông dân vẫn tiếp tục đi tới.
Trong khoảnh khắc ngắn
ngủi, những ý nghĩ trái ngược như đang đánh nhau trong đầu Mộc Nhĩ: Báo cho ông ấy biết. Nhanh lên, kẻo ông ấy
đánh đổ hết gạo!
Không! Nói làm quái gì. Mày sẽ lượm được chỗ gạo rơi
ra sau khi ông ấy rẽ ở khúc cua... Mộc
Nhĩ quyết định rồi. Khi người đàn ông đi đến chỗ rẽ, nó mới chạy theo và bắt
kịp ông ta.
“Thưa ông,” Mộc Nhĩ khẽ
cúi đầu rồi vừa thở hổn hển vừa nói. “Trong lúc đi đằng sau, con thấy ông đánh
dấu trên đường bằng gạo ạ!”
Bác nông dân quay lại và
nhìn thấy vệt gạo rơi. Đó là một người đàn ông vạm vỡ, gương mặt rám nắng phúc
hậu. Ông hất cái nón rơm ra sau gáy gãi đầu bật cười nhưng đôi mắt lộ vẻ rầu
rĩ.
“Chỉ tại ta nóng vội
quá,” bác nông dân nói. “Nhẽ ra phải để người ta đan cái bao này bằng hai lớp
cói. Nhưng làm thế sẽ phải đợi lâu hơn. Bây giờ ta phải trả giá cho cái thói
vội vàng.” Ông loay hoay xoay trở tháo hai sợi dây quai gùi ra khỏi vai rồi săm
soi bao gạo. Ông thúc vào bao cói để lấp lỗ thủng nhưng chẳng ăn thua gì, bèn
buông thõng hai tay ra dáng vô cùng tuyệt vọng.
Mộc Nhĩ toét miệng cười.
Nó thấy thích tính khí ngồ ngộ của bác nông dân này.
“Này cậu bé, tìm giúp ta
ít lá cây nào,” người đàn ông nói. Mộc Nhĩ làm theo và bác ta nhét lá vào bao
làm một miếng vá tạm.
Xong ông ta ngồi thụp
xuống để đeo gùi. Dợm bước chân đi, ông ngoái lại nói. “Người tốt xứng đáng
được trả công, chú bé ạ. Gạo vãi dưới đất giờ là của cháu nếu cháu chịu khó
nhặt lượm lên.”
“Cảm ơn, ông thật tốt
bụng quá,” Mộc Nhĩ cúi gập người chào, trong lòng sung sướng vô kể. Một lúc
sau, cái túi nhỏ mang bên hông nó đã căng đầy gạo.
Mộc Nhĩ học được nhiều
điều từ bác Sếu. Hái quả dại trong rừng, nhặt nhạnh đồ ăn thừa từ các đống rác,
mót những nhành lúa chín rơi vãi sau mùa gặt là cách thức gom góp nên bữa ăn,
tuy đòi hỏi nhiều thời gian và công sức nhưng chẳng có gì đáng xấu hổ. Trộm cắp
và ngửa tay ăn xin, như bác Sếu nói, khiến con người ta bệ rạc hơn cả con chó.
“Lao động mang lại phẩm
giá cho con người, còn trộm cắp thì tước đoạt nó,” bác thường nói vậy.
Đối với Mộc Nhĩ, làm theo
lời khuyên của bác Sếu không phải lúc nào cũng dễ. Chẳng hạn như chuyện hôm
nay. Chờ gạo vãi ra thật nhiều rồi mới báo cho người ta biết, như vậy chẳng
phải ăn cắp là gì? Việc làm tốt liệu có bù lại được hành vi xấu xa hay không?
Trong lúc tranh luận với bác Sếu hoặc là ngồi một mình, Mộc Nhĩ thường nghĩ
ngợi về những câu hỏi kiểu đó.
“Những câu hỏi như vậy
lợi cả đôi đàng,” bác Sếu từng giải thích. “Chúng giúp cho trí óc người ta thêm
sắc bén và vì thế mà không nghĩ nhiều đến cái dạ dày lép kẹp nữa.”
Lần này, cũng như mọi
khi, bác Sếu đọc được ý nghĩ của Mộc Nhĩ mà không cần nó nói ra. “Kể cho bác
nghe về người nông dân ấy đi,” bác Sếu giục.
“Ông ấy là người như thế
nào?”
Mộc Nhĩ phải mất một lúc
để suy nghĩ và cố nhớ lại. Cuối cùng, nó đáp:
“Một người vội vàng hấp
tấp. Chính ông ấy nói là mình đã không thể chờ để có một cái bao chắc chắn hơn.
Cũng chẳng buồn nhặt chỗ gạo rơi vãi nữa!” Mộc Nhĩ ngừng một chút, rồi tiếp.
“Nhưng ông ấy thật dễ cười, kể cả việc cười giễu chính mình.”
“Thử nghĩ xem ông ấy sẽ nói
hoặc làm gì nếu biết con đã chờ một lúc rồi mới báo chuyện bao thủng?”
“Có lẽ ông ấy sẽ cười xòa,”
Mộc Nhĩ đáp và lấy làm ngạc nhiên là mình có thể mau mồm mau miệng đến thế.
Đoạn, từ tốn hơn, nó nói: “Con nghĩ... có lẽ ông ấy cũng chẳng bận tâm về chuyện
ấy đâu.”
Bác Sếu gật gù, vẻ hài
lòng. Mộc Nhĩ nghĩ đến câu mà người bạn già của mình thường nói: Kẻ thức giả
nghĩ về những điều to tát về thế gian. Còn ta và con phải học cách đọc chính
cái thế gian này.
Mộc Nhĩ là tên của loài
nấm mọc trên những thân cây chết; chẳng hề nhờ và vào nguồn dinh dưỡng chất từ
cha mẹ. Một cái tên hay đối với đứa trẻ mồ côi, bác Sếu bảo thế. Nếu Mộc Nhĩ
từng có một cái tên khác thì giờ đây nó cũng không còn nhớ nữa, và cũng chẳng
biết ai đã đặt cho nó cái tên ấy.
Mộc Nhĩ sống chung với
bác Sếu trong khoảng trống dưới gầm cầu - nói đúng hơn, bác nhường một phần cho
nó. Bác đã sống ở đây từ trước và không thể một sớm một chiều dời đi. Một cái
chân bị tật - bắp và bàn chân teo tóp, vặn vẹo từ bé - khiến bác còn biết đi
đâu khác tìm chỗ sống?
Về nguồn gốc cái tên của
mình, người bạn già kể: “Nhìn chân ta lúc mới sinh, ai cũng nghĩ ta ta không
sống nổi. Nhưng rồi khi thấy ta đi suốt cuộc đời này với cái chân lành, mọi
người bảo ta giống con sếu. Mà này, ngoài chuyện đứng trên một chân, sếu còn là
biểu tượng trường thọ cơ đấy. Quả thật thế!” bác khẳng định. Bác Sếu sống lâu
hơn tất cả những người trong gia đình và khi không còn sức làm việc, bác buộc
phải bán đi từng món một, cuối cùng bán nốt cả nóc nhà che mưa che nắng trên
đầu. Vì thế bác đành phải sống dưới gầm cầu.
Có lần, khoảng một năm về
trước, Mộc Nhĩ hỏi bác Sếu đã sống ở gầm cầu bao lâu rồi. Bác lắc đầu, chính
bác cũng không nhớ. Nhưng ngay sau đó, bác tươi tỉnh hẳn, tâp tễnh bước về một
bên thành cầu, vẫy tay gọi Mộc Nhĩ đi theo.
“Ta không nhớ mình đã
sống ở đây bao lâu,” bác Sếu nói, “nhưng ta biết con đã ở đây từ khi nào.” Ðoạn
bác chỉ tay lên phía trên, hướng vào mặt dưới cầu. “Không hiểu sao ta lại chưa
cho con thấy cái này nhỉ?”
Trên một trong những
phiến đá là một dãy những nét vạch sâu, hình như được khắc bằng đá nhọn. Mộc
Nhĩ chăm chú nhìn, rồi lắc đầu hỏi bác Sếu:
“Thế là sao ạ?”
“Mỗi vạch là một năm kể
từ khi con đến đây,” bác Sếu giảng giải. “Ta tính thời gian cho con, bởi ta
nghĩ sẽ đến lúc con muốn biết mình bao nhiêu tuổi.”
Mộc Nhĩ nhìn lại những
nét vạch, niềm vui thích lộ rõ trên nét mặt. Số vạch đúng bằng số ngón trên hai
bàn tay - như vậy là mười vạch cả thảy.
Ðoán được ý nó, bác Sếu
nói ngay: “Không đâu, con đã hơn mười tuổi rồi. Lúc con mới đến đây và khi ta
khắc những vạch này, có lẽ con đã được hơn một tuổi, biết đi khá vững và bập bẹ
nói rồi.”
Mộc Nhĩ gật đầu. Nó biết
phần còn lại của câu chuyện. Bác Sếu đã dò hỏi được đôi điều về Mộc Nhĩ từ
người đàn ông mang nó đến cây cầu này. Ông ta được một nhà sư nhân từ ở kinh
thành Songdo trả công để đưa thằng bé đến ngôi làng nhỏ Chulpo nằm bên bờ biển.
Cha mẹ nó chết vì dịch sốt và nhà sư biết thằng bé có người cậu ở Chulpo.
Ðến nơi, người đàn ông
mới hay rằng cậu của Mộc Nhĩ không sống ở đó nữa, ngôi nhà bị bỏ hoang từ lâu.
Ông bèn mang Mộc Nhĩ tới ngôi chùa nằm trên sườn núi, nhưng nhà chùa cũng không
dám nhận thằng bé vào chùa vì ở đây dịch sốt cũng đang hoành hành. Dân làng
khuyên ông ta đem đứa trẻ đến chỗ cây cầu, ở đó bác Sếu sẽ chăm sóc nó cho tới
khi nhà chùa qua cơn dịch bệnh.
“Thế rồi, ít tháng sau,
khi một nhà sư đến đón con đi, con lại nhất quyết không chịu rời ta,” lần nào
bác Sếu cũng kể như thế. “Con bám chặt cái giò còn lành lặn của ta như khi bám
vào thân cây, không khóc lóc, nhưng nhất quyết không chịu buông! Nhà sư nọ đành
bỏ đi, để con ở lại.”
Hồi còn bé, Mộc Nhĩ
thường nài nỉ để được nghe chuyện này, làm như nghe đi nghe lại sẽ hé lộ thêm
điều gì đó. Chẳng hạn, cha nó làm nghề gì, mẹ nó trông như thế nào, ông cậu nó
bỏ đi đâu... Nhưng Mộc Nhĩ không biết thêm được chút nào. Giờ thì chuyện này
không còn quan trọng nữa. Nếu Mộc Nhĩ từng có người thân và một mái nhà nào
khác ngoài bác Sếu cùng cái gầm cầu này thì nó cũng không biết mà chẳng cần
biết đến.
Bữa ăn hôm đó chẳng khác
gì bữa tiệc - nắm gạo nấu nhừ thành cháo trong cái nồi đất nung sứt mẻ được múc
ra cái bát làm bằng quả bầu khô. Bác Sếu còn có món đặc biệt là hai khúc xương
đùi gà. Làm gì còn chút thịt nào dính trên mấy khúc xương khô, nhưng hai người
bạn kì cạch đập xương ra để mót lấy mấy miếng tủy.
Sau đó, Mộc Nhĩ ra sông
rửa ráy và múc về một bầu nước cho bác Sếu.
Bác không thích xuống
sông, vì không muốn bị ướt chân. Rồi Mộc Nhĩ bắt tay vào dọn dẹp “căn nhà” cho
ngăn nắp. Nó quen giữ chỗ ở gọn gàng để tối đến, sau một ngày mệt nhọc là có
thể ngả lưng ngủ ngon lành.
Làm xong những việc linh
tinh, Mộc Nhĩ lại ra đường. Lần này nó không lượn lờ những đống rác mà xăm xăm
sải bước đến thẳng một căn nhà nhỏ nằm gần khúc cua, tách biệt với những căn
nhà khác.
Đến gần nếp nhà nhỏ cột
gỗ vách đất, Mộc Nhĩ bước chậm lại. Nó nghiêng đầu lắng nghe và toét miệng cười
khi âm điệu đều đều của một bài hát vọng tới tai nó. Bác thợ cả Min đang hát,
vậy hôm nay là ngày nắn xương gốm.
Nhà bác Min quay lưng lại
dải đồi với những bụi cây rậm kéo dài tới tận rừng thông trên những ngọn núi xa
xa. Mộc Nhĩ vòng ra sau nhà. Bàn xoay gốm đặt dưới mái hiên sau. Bác thợ đang
ngồi đó, mái đầu hoa râm cúi xuống bàn xoay, miệng ư ử một bài ca không lời của
riêng mình.
Mộc Nhĩ rón rén bước tới
cái góc quen thuộc của nó sau cây bào đồng[1], những cành cây sà thấp che kín nó.
Cu cậu nhòm trộm qua kẽ lá và nín thở vì thích thú. Bác Min vừa bắt tay nặn một
chiếc bình mới.
[1] Cây bào đồng (Paulownia): một loài cây lá to, có
lông măng, có thể làm cây kiểng hoặc đóng đồ đạc, tủ giường, là loại gỗ quý bền
chắc - ND.
Ông ném tảng đất sét to
cỡ cái bắp cải vào giữa bàn xoay, nhặt lên rồi lại ném xuống lần nữa, cứ như
thế mấy lần liền. Sau cú ném cuối cùng, ông ngồi xuống, nhìn chằm chặp vào tảng
đất sét một lúc. Dùng chân để quay đế bàn xoay, ông đặt hai bàn tay ướt nước
lên cục đất và ịn nó xuống mặt bàn. Có lẽ đây là lần thứ một trăm Mộc Nhĩ chứng
kiến một phép màu.
Tảng đất sét trồi lên
thụt xuống một lúc, vươn lên cao hơn, rồi xòe rộng ra theo hình tròn, cho đến
khi khum thành một khối vô cùng cân đối. Bàn xoay quay chậm lại. Tiếng hát cũng
tắt dần, chỉ còn lại những tiếng ậm ừ mà Mộc Nhĩ không nghe được.
Bác Min ngồi thẳng người,
khoanh hai tay trước ngực và hơi ngả người ra sau, như muốn ngắm chiếc bình từ
xa. Dùng đầu gối đẩy bàn xoay quay chầm chậm, ông săm soi vóc dáng thanh nhã
của chiếc bình, cố tìm ra những khiếm khuyết vô hình. Và rồi, “Phừ!” một cái,
ông lắc đầu, bằng một cử chỉ phẫn nộ hốt gọn chiếc bình giơ cao lên và nện mạnh
nó xuống mặt bàn xoay. Chiếc bình sụp xuống thành cục đất sét đần độn như đang
xấu hổ.
Mộc Nhĩ há miệng khẽ thở
ra một hơi dài và đến lúc đó mới nhận ra rằng nó nín thở nãy giờ. Trong mắt nó
chiếc bình đã hoàn hảo, bề rộng bằng phân nửa chiều cao, với những đường cong
tựa như nét lượn duyên dáng của một cánh hoa. Vậy mà bác Min lại cho là chiếc
bình vô giá trị! Điều gì đã khiến ông bực mình đến thế?
Bác thợ Min không bao giờ
chấp nhận lần nặn đầu tiên. Ông sẽ lặp lại toàn bộ công đoạn. Ngày hôm ấy, Mộc
Nhĩ thấy tảng đất sét nhô lên, sụp xuống bốn lần trước khi bác Min hài lòng.
Với Mộc Nhĩ, cả bốn chiếc bình trông hệt như nhau, nhưng xem ta chiếc thứ tư có
gì đó vừa ý bác thợ hơn cả. Ông lấy một đoạn dây mảnh, khéo léo luồn xuống dưới
đáy bình để gỡ nó khỏi bàn xoay, đoạn đặt chiếc bình lên khay đem hong khô.
Trong lúc rón rén bỏ đi,
Mộc Nhĩ bấm ngón tay tính ngày. Nó biết rõ thói quen của ông thợ gốm - phải
nhiều ngày nữa mới tới lần nắn xương gốm tiếp theo.
Làng Chulpo hướng ra mặt
biển, dựa lưng vào những ngọn núi. Dòng sông chạy quanh làng giống như một
đường viền tinh xảo. Thợ gốm làng Chulpo làm ra đồ sứ men màu ngọc bích tinh
tế, không chỉ nổi tiếng ở Triều Tiên mà còn được các vua chúa Trung Hoa ưa
chuộng.
Chulpo từ lâu đã trở
thành một làng gốm quan trọng nhờ cả địa thế lẫn chất đất của nó. Làng nằm trên
dải bờ biển phía tây, thông ra tuyến hàng hải thuận tiện nhất lên phía Bắc và
tuyến giao thương nhộn nhịp với Trung Hoa.
Đất sét được đào lên ở
đây có hàm lượng sắt vừa đủ tạo nên nước men ngọc bích có sắc độ xanh phơn phớt
xám hết sức tinh tế, được những người chơi đồ gốm vô cùng ưa thích.
Tuy biết mặt hết thảy thợ
gốm trong làng, nhưng trước Mộc Nhĩ chỉ hiểu họ qua những đống rác. Nó chưa bao
giờ bỏ thời gian xem họ làm việc. Những năm gần đây, đồ gốm làng Chulpo được
lớp người giàu có ưa chuộng, mua rất nhiều để làm lễ vật dâng triều đình và
cúng chùa. Nhờ thế những người thợ gốm làm ăn ngày một khấm khá hơn. Đồ lượm
mót được từ đống rác trước nhà họ cũng theo đó mà nhiều hơn, và dần dần cũng
đến lúc cái dạ dày hay lên tiếng của Mộc Nhĩ chịu để yên cho nó vài giờ mỗi
ngày.
Những khi đã tạm vỗ yên
cái dạ dày, Mộc Nhĩ thường lén đến xem bác thợ Min làm việc. Những người thợ
gốm thường đặt bàn xoay trong những cái lán nhỏ không có cửa sổ. Nhưng vào
những tháng ấm áp, bác Min thích làm việc dưới hiên nhà sau nhà mình hơn, để
đón luồng gió nồm và thỉnh thoảng ngắm những ngọn núi xa xa.
Làm việc bên ngoài phòng
kín chứng tỏ ông thợ Min có tay nghề cứng và lòng tự tin rất cao. Những người
thợ gốm thường giữ kín những bí mật của mình. Một vóc dáng cho chiếc bình trà,
một mẫu hoa văn mới là những thứ mà dân thợ gốm tuyệt đối không tiết lộ ra
ngoài cho đến khi món đồ được làm xong và trưng ra cho người mua lựa chọn.
Bác Min không hề lo giữ
bí quyết nhà nghề. Dường như bác muốn nói với mọi người: Cứ lại đây mà xem ta
làm. Không việc gì ta phải lo - các người không học mót được kĩ xảo của ta đâu.
Mà đúng thế thật, đó cũng
chính là lý do tại sao Mộc Nhĩ thích xem bác Min làm việc. Tác phẩm của bác đẹp
nhất vùng, cũng có thể là đẹp nhất Triều Tiên.

