Bí mật của Nicholas Flamel bất tử (Phần 3) - Chương 43 - 44
Chương bốn mươi ba
Khiếp đảm, nhức
nhối và mệt rã rời, Sophie cố hết sức từ từ dịch ra xa người lang thang kia.
Ông ta chen vào giữa hai đứa nhỏ song sinh và cô bé có thể cảm thấy sự ẩm ướt lạnh
lẽo thấm từ bộ áo khoác ngoài của ông ta sang chiếc quần jeans của cô bé và lan
lên tận cánh tay trái của cô. Bên phía đối diện cô bé để ý thấy cậu em trai
mình cũng dịch lần lần ra, và từ nơi khóe mắt, cô bé có thể thấy rằng Nicholas
đang nép mình sát vào vùng tối phía sau. Cô bé quan sát thấy ông giơ bàn tay phải
lên và làm như vô tình đặt nó ngang qua miệng, che nửa khuôn mặt dưới của ông,
khiến cô bé có cảm gác là ông đang cố giấu mình khỏi ông già kia.
“Ồ, nhưng điều
này không ổn tí nào.” Gilgamesh rướn người lên và thả mình rơi phịch xuống cái
ghế xếp nhỏ ngay trước mặt hai đứa nhỏ. “Bây giờ tôi có thể nhìn rõ hai bạn rồi.”
Ông vỗ tay nhè nhẹ. “Vậy ở đây chúng ta có gì nào?”
Những ngọn đèn
đường màu da cam sáng trưng và đèn pha của những chiếc xe hơi chạy ngang qua chốc
chốc lại rọi sáng vào bên trong chiếc taxi. Nghiêng đầu qua một bên Sophie tập
trung vào người đàn ông không nhà không cửa này, các giác quan đã được nâng cao
của cô bé bắt được mọi chi tiết. Chắc chắn đây không thể là người đàn ông mà
hai đứa đã phải mất công sức đến London để gặp, một người bất tử có tên là
Gilgamesh, người già nhất hành tinh. Nicholas gọi ông ta là vua, Palamedes nói
ông ta mất trí; trông ông ta không giống gì hai loại người đó cả, chỉ là một
ông lão sống lang thang không làm hại ai đang mặc quá nhiều quần áo và đã đến
lúc cần phải cắt tóc cạo râu cho gọn gàng. Nhưng nếu mấy ngày gần đây đã dạy
cho cô bé mọi chuyện, thì thật là không có ai đúng với vẻ ngoài của họ cả.
“Tốt, chuyện này
thật là vui,” Gilgamesh vừa nói, vừa gập bàn tay vào vạt áo. Ông ta mỉm cười
sung sướng. Ông ta nói tiếng Anh có pha chút trọng âm mơ hồ, ngờ ngợ của vùng
Trung Đông. “Tôi luôn nói rằng khi thức dậy vào buổi sáng bạn không bao giờ biết
ngày hôm ấy sẽ kết thúc như thế nào. Tôi thích như vậy: điều đó cứ giữu cho bạn
trẻ hoài.”
“Vậy ông bao
nhiêu tuổi ạ?” Josh buột miệng hỏi ngay.
“Già rồi,”
Gilgamesh nói đơn giản, và toét miệng cười. “Già hơn vẻ ngoài của tôi, nhưng lại
già không bằng những gì tôi cảm nhận được.”
Những hình ảnh
ngẫu nhiên lung linh trong đầu Sophie. Đây là những ký ức của Bà Phù thủy. Joan
Arc đã dạy cô bé làm thế nào để phớt lờ chúng đi và gạt bỏ những giọng nói và
tiếng ồn kêu vo vo liên miên mà cô bé nghe trong đầu mình, nhưng lần này Sophie
đã cố tình gỡ sự bảo vệ ấy xuống...
Gilgamesh, trẻ mãi không già và không hề
thay đổi.
Gilgamesh, ngoan cường và kiêu hãnh, một nhà
cai trị, trong trang phục của cả chục thời đại và nhiều nền văn minh: của người
Sumer và người sinh sống ở vùng Lưỡng Hà Akkad, của người Babylon, Ai Cập, Hy Lạp
và La Mã, và rồi đến người cổ châu Âu và người Anh chuyên mặc áo da và lông
thú...
Chiến binh Gilgamesh, lãnh đạo người Celt và
Viking, người Nga thời Trung cổ và rợ Hung trong trận chiến chống con người và
bọn yêu quái.
Bậc thầy Gilgamesh, trong chiếc áo thụng màu
trắng trơn của một tu sĩ, gậy sồi và tầm gửi cầm trong tay.
Đôi mắt Sophie lấp
loáng ánh bạc và cô bé thì thầm bằng giọng khàn khàn. “Ông là Thời Thượng cổ.”
Gilgamesh hít thở
sâu. “Lâu lắm rồi không còn ai gọi tôi như vậy,” ông ta nói rất chậm rãi. “Ai bảo
cô thế?” Hầu như nghe trong giọng ông thoáng một chút sợ hãi.
Cô con gái lắc đầu.
“Tôi mới vừa biết thôi.”
Josh mỉm cười.
“Ông có sống lâu bằng các kim tự tháp không?”
“Lâu hơn chứ, lâu
hơn nhiều, rất nhiều,” Gilgamesh hớn hở nói.
“Tuổi của vị vua
này đo bằng thiên niên kỷ chứ không phải bằng thế kỷ thì phải,” từ băng ghế trước,
Palamedes nói ướm chừng.
Sophie cho rằng
Gilgamesh không cao hơn Josh mấy, nhưng lớp quần áo bao bọc dày cộp của ông ta
- áo khoác mặc chồng lên áo khoác, mấy lớp lông cừu, mấy lớp áo thun và mấy lớp
áo tấm dài tay có nón trùm đầu - khiến ông trông có vẻ to lớn, và cả đống tóc
tai bù xù râu ria lởm xởm của ông làm cho ông trông như một ông già. Quan sát gần
ông ta, cố nhìn xuyên qua bên kia lớp râu tóc, Sophie phát hiện rằng ông ta gợi
cho cô bé nhớ đến ba mình, với vầng trán cao, chiếc mũi dài và đôi mắt sáng màu
xanh lơ trên một gương mặt rám nắng. Cô bé nghĩ trông ông ta cũng trạc tuổi ba:
đâu đó khoảng bốn mươi bốn mươi sáu.
Họ chạy ngang
qua một cửa tiệm đèn đuốc sáng trưng. Ánh đèn ở cửa tiệm chiếu vào bên trong
chiếc taxi một thứ ánh sáng trắng ngả sang vàng nhạt, và Sophie cũng nhận ra rằng
những gì mà thoạt tiên cô bé tưởng là những miếng vá dơ bẩn và bạc màu trên mớ
quần áo của vị vua này chính là những biểu tượng kỳ quặc và đường nét của những
chữ viết được viết lên lớp vải bằng một loại bút dạ màu đen. Liến nhìn, cô bé
nhận ra mấy chữ ấy trông như những chữ hình nêm* và những chữ tượng hình của Ai
Cập, và những gì mới trông cô bé cho là những vết rách hoặc đường chỉ xước
trong vải lại là những mũi khâu lởm chởm vừa dày vừa dài trông gần giống như chữ
viết sơ khai. Cô bé chắc chắn những bảng đất sét cổ mình đã nhìn thấy trong
công trình nghiên cứu của ba mẹ hoàn toàn giống với những vết xước trên lớp quần
áo này.
* Loại chữ giống như chữ Ba Tư xưa.
Sophie ý thức rằng
ông lão đang nhìn cô bé và cậu em trai, đôi mắt sáng quắc màu xanh lơ đưa từ mặt
cô bé sang mặt Josh rồi quay trở lại, khi ông ta tập trung, những đường nhăn
trên trán và hai bên cánh mũi ông ta hằn xuống sâu hơn. Và thậm chí ông ta chưa
nói ra, cô bé đã biết ông ta sắp nói gì.
“Tôi biết các bạn.”
Sophie liếc nhìn
sang cậu em. Thần Sừng cũng đã nói chính xác những lời ấy. Josh bắt gặp ánh
nhìn, liền mím chặt môi và lắc đầu nhè nhẹ, đó là dấu hiệu hai đứa đã dùng rất
nhiều lần khi chúng cùng lớn lên bên nhau. Cậu đang bảo cô bé đừng nói gì hết.
“Ông đã gặp chúng tôi ở đâu?” Cậu hỏi.
Gilgamesh chống
cùi chõ lên đầu gối và chồm người ra phía trước. Áp hai lòng bàn tay vào nhau,
ngón tay duỗi thẳng, ông ta ấn hai ngón trỏ vào nhân trung và chăm chăm nhìn
hai đứa. “Chúng ta đã gặp nhau lâu lắm rồi,” cuối cùng ông nói, “khi chúng ta
còn trẻ, rất trẻ, còn rất trẻ.” Rồi đôi mắt màu xanh lơ của ông ta tối sầm.
“Không, không đúng. Tôi đã trông thấy hai người chiến đấu và ngã xuống...” Giọng
ông ta nghẹn lại và bất chợt đôi mắt long lanh ngấn nước. Giọng ông ta thô ráp
vì đau đớn. “Tôi thấy cả hai đều đã chết rồi.”
Sophie và Josh
nhìn nhau, giật mình hoảng hốt, nhưng Flamel động đậy trong bóng tối, chặn trước
câu nói của hai đứa. “Ký ức của vị vua này thường không chính xác,” ông nói
nhanh. “Đừng tin mọi lời ông ấy nói.” Ông nói nghe có vẻ như một lời cảnh báo.
“Ông nhìn thấy
chúng tôi chết à?” Sophie hỏi, không quan tâm đến Flamel. Những lời của
Gilgamesh đã đánh thức những sợi tơ ký ức, nhưng ngay khi cô bé cố tập trung
vào chúng, chúng lại trôi tuột và nhạt nhòa đi.
“Bầu trời rỉ ra
những giọt lửa. Đại dương sôi sục và mặt đất bị xé ra thành từng mảnh...,”
Gilgamesh nói bằng một tiếng thì thào mất hút.
“Chuyện này xảy
ra khi nào?” Josh hỏi ngay, cố lấy được nhiều thông tin hơn.
“Vào thời trước
khi có thời gian, thời trước khi có lịch sử.”
“Mọi chuyện vị
vua này nói không thể có chuyện nào chính xác được,” Flamel lạnh lùng nói, giọng
nói chợt nghe thật lớn trong bầu không khí im lặng trong chiếc taxi. Giọng Pháp
của ông đầy trọng âm, như thể ông cố nén xuống. “Chú không chắc bộ não con người
của ông ấy được thiết kế để chứa và cất giữ nổi những thứ tương đương với mười
thiên niên kỷ kiến thức. Hoàng đế thường lẫn lộn lung tung.”
Sophie chìa tay
qua chỗ bên kia và siết tay cậu em trai. Khi cậu nhìn cô bé, lần này đến lượt cô bé bặm môi và lắc đầu, bảo cậu đừng
nói gì hết. Cô bé muốn có thời gian thăm dò ký ức và ý nghĩ của Bà Phù thủy. Có
gì đó ngay nơi bờ rìa tâm thức của cô bé, một thứ gì tối tăm và xấu xa, một thứ
liên quan đến Gilgamesh và cặp song sinh. Cô bé thấy cậu em gật đầu, một chút động
đậy nơi đầu cậu, và rồi cậu nhìn ngược trở lại người lang thang. “Vậy... ông đã
mười ngàn tuổi rồi sao?” Cậu nói với vẻ thận trọng.
“Hầu hết mọi người
đều cười khi họ nghe nói như vậy,” Gilgamesh nói. “Nhưng các người thì không.
Sao vậy?”
Josh cười toe.
“Trong một hai ngày gần đây, tôi đã được một huyền thoại bị chôn vùi Đánh thức,
đã bị giũ khỏi lưng một con rồng và đã chiến đấu với Thần Sừng. Tôi đã đến một
Vương quốc Bóng tối và trông thấy một cái cây to lớn như thế giới này. Tôi đã
quan sát con người ta biến thành sói và chó, đã thấy mọt người phụ nữ có cái đầu
mèo... hoặc có lẽ đó là một con mèo có thân hình của một người phụ nữ. Vì thế,
thật tình, một người đàn ông mười ngàn năm tuổi thật ra cũng phải là quá kỳ lạ.
Và quả thật, có lẽ ông là người trông có vẻ bình thường nhất trong tất cả những
người chúng tôi từng gặp. Không có ý làm mất lòng ông đâu ạ,” cậu nói thêm rất
nhanh.
“Không hề gì.”
Gilgamesh gật đầu. “Có lẽ tôi hơn mười ngàn tuổi rồi.” Rồi giọng ông thay đổi,
chợt nghe có vẻ mệt mỏi. “Hay có thể tôi chỉ là một lão già điên khùng lú lẫn.
Nhiều người gọi tôi như thế. Dù tất cả họ đều chết cả rồi.” Ông ta toét miệng
cười, rồi uốn éo trong chỗ ngồi và gõ vào tấm kính ngăn trong chiếc taxi.
“Chúng ta đi đâu thế này Pally?”
Hiệp sĩ Saracen
giờ là một hình dáng lờ mờ trong bóng tối u ám. “Ừ thì, trước hết chúng tôi muốn
gặp ông...”
Gilgamesh mỉm cười
vui vẻ.
“... và rồi tôi
muốn đưa mấy người này ra khỏi quần đảo. Tôi đang đưa họ đến Henge đây.”
“Henge?” Người
lang thang vừa hỏi, vừa cau mày. “Tôi có biết chỗ đó không?”
“Stonehenge đó,”
từ trong bóng tối Flamel nói vọng ra. “Ông biết chứ sao không; ông đã giúp xây
dựng nó cơ mà.”
Đôi mắt sáng màu
xanh lơ của Gilgamesh tối sầm. Ông ta liếc nhìn về phía Nhà Giả kim, nhìn săm
soi vào bóng tối. “Tôi sao? Tôi không nhớ.”
“Cách đây đã lâu
lắm rồi,” Flamel lẩm bẩm. “Tôi nghĩ ông đã bắt đầu dựng đứng mấy phiến đá ấy
lên chắc phải đến hơn bốn ngàn năm trước.”
“Ồ không, phải
lâu hơn thế,” Gilgamesh chợt nói, tươi tỉnh hẳn ra. “Tôi bắt đầu thực hiện việc
đó ít nhất trước đó một ngàn năm nữa. Và nơi chốn ấy thật cổ xưa thế mà...” Giọng
ông kéo dài rồi bỏ lửng và ông nhìn Sophie rồi nhìn Josh. Sau đó ông lại quay
sang Palamedes. “Mà tại sao chúng ta lại đến đó?”
“Chúng tôi đang
cố kích hoạt một trong những đường tuyến và mấy người kia ra khỏi đất nước
này.”
Gilgamesh gật đầu.
“Đường tuyến. Đúng, có nhiều đường tuyến ở Salisbury lắm. Một trong những lý do
tôi đã dựng những cổng tuyến ở đó là như vậy. Mà tại sao chúng ta lại muốn đưa
họ ra khỏi đất nước này?”
“Bởi vì hai đứa
trẻ này là mặt trời và mặt trăng,” Flamel nói, “với luồng điện tinh khiết vàng
và bạc. Và các Elder Đen tối săn lùng bọn trẻ ráo riết quá, mới ngay nửa đêm
nay họ đã mang Quan chấp chính trở lại trái đất này. Hai ngày trước Nidhogg đã
tung hoành khắp Paris. Ông biết điều đó có nghĩa là gì rồi.”
Có gì đó thay đổi
trong giọng nói của nhà vua. Nghe bỗng lạnh lùng và thiết thực. “Họ đã không
còn thận trọng. Điều đó có nghĩa là đã đến hồi kết. Và chăng bao lâu nữa.”
“Lại đến một lần nữa,” Nicholas Flamel nói. Ông
chồm người ra phía trước, và ánh sáng màu hổ phách lan khắp khuôn mặt ông, biến
khuôn mặt ấy thành màu sắc của những tấm giấy da cũ kỹ; vùng bóng tối làm nổi bật
lên những nếp nhăn vắt ngang trán ông và nhấn mạnh rõ hai túi mắt ông. “Ông có
thể giúp ngăn chặn chuyện này.”
“Nhà Giả kim!”
Đôi mắt Gilgamesh mở lớn và ông ta rít lên đầy vẻ hoảng hốt. “Palamedes! Các
người làm cái gì vậy?” Ông ta hét to, tiếng cao éo và sắc lẹm. “Cacsnf đã lừa dối
ta!”
Và bất thình
lình, một con dao dài lưỡi đen nhánh hiện ra trong bàn tay người lang thang.
Con dao lóa sáng dưới ánh đèn khi Gilgamesh vung tay đâm thẳng về phía ngực Nhà
Giả kim.
Chương bốn mươi bốn
Bẩn thỉu và xốc
xếch, quần áo rách thủng và lấm lem, đàu tóc rối bù, Tiến sĩ John Dee đâm đầu
xuống con phố trống hoác, nép mình vào bóng tối khi mấy chiếc xe cứu hỏa, xe cảnh
sát và xe cứu thương phóng vụt qua, còi báo động gào rú. Một loạt các vụ nổ ầm ầm
thắp sáng khoảng trời đêm tối đen ngay phía sau hắn khi những hộp gas nhỏ bắt lửa
bốc cháy. Bầu không khí đêm tháng Sáu mát lạnh tràn ngập mùi cao-su và dầu máy
cháy khét lẹt, mùi kim loại bị nung đốt, và kính bị nấu chảy.
Khi Flamel và mấy
người kia đã trốn thoát trong chiếc xe chạy mất hút, Dee liền lao đến đường
hào, đầm mình trong lớp bùn ngập đến bụng và chồm người thọc cánh tay trái vào
thức nước đặc quánh đầy dầu nơi thanh Excalibur đã chìm xuống. Đường hào sâu
hơn hắn tưởng và đã nuốt cánh tay hắn ngập gần đến vai. Chất lỏng bên trong
sóng sánh và vẫn còn ấm ở những chỗ bị đốt cháy, những bong bóng đầy chất độc nổ
ra ngay dưới mũi hắn, khiến hắn phát buồn nôn và thấy hơi nhức đầu. Đôi mắt hắn
ngứa dữ dội. Hắn dò dẫm khắp chung quanh, điên cuồng tìm kiếm, nhưng không chạm
được cái gì cả. Hắn có thể nghe thấy tiếng còi báo động xa xa; chắc hẳn khắp
vùng Bắc London đều có thể nhìn thấy đường hào đang bốc lửa, và chắc chắn đã có
rất nhiều cuộc gọi điện thoại cho các dịch vụ khẩn cấp. Thọc sâu các ngón tay
phải vào lớp đất bùn mềm xọp, hắn giữ thật chặt trong lúc từ trên bờ nhoài người
cúi xuống sâu hơn nữa, một bên mặt hắn thật sự đã chạm dính vào thứ chất lỏng
kia. Nó ở đâu nhỉ? Hắn sẽ không rời khỏi đây mà không có thanh kiếm. Cuối cùng,
các ngón tay hắn khép lại trên một thanh đá trơn nhẵn lành lạnh. Phải nỗ lực
ghê gớm mới có thể rút thanh Excalibur ra khỏi thứ chất lỏng đặc quánh ấy.
Thanh kiếm rút lên khỏi bùn phát ra một tiếng bụp. Lăn tròn qua lưng mình, hắn
ôm sát thanh kiếm vào ngực. Dù mệt đến kiệt sức, Dee vẫn nạp luồng điện vào
lòng bàn tay và cọ xát luồng năng lượng màu vàng khắp mặt đá, lau sạch đi những
thứ bẩn thỉu kinh tởm.
Lồm cồm đứng dậy,
hắn nhìn quanh. Nhưng không thấy bóng dáng của Thần Sừng, hoặc bọn Wild Hunt
đâu cả. Số còn lại trong bầy thú mà Shakespeare đã tạo ra - rắn, nhím, và sa
giông - đang từ từ nhấp nháy tan ra, hệt như bong bóng nổ, để lại những đường
viền như muội bồ hóng trong không khí. Bãi để xe giờ là một đống đổ nát, đầy những
đám lửa nho nhỏ đang cháy dở khắp nơi, và từ bên dưới căn nhà chòi khói đen
dâng lên cuồn cuộn. Đám cháy bùng lên bên trong nhà. Đâu đó bên phải bức tường
làm bằng những chiếc xe chồng chất lên có tiếng cót két kẽo kẹt đầy đe dọa, rồi
tất cả lắc lư và đồng loạt đổ sầm xuống đất thành một vụ nổ kim loại khổng lồ.
Tiếng kim loại và mảnh kiếng vỡ vang rền trong không trung.
Dee quay người
lao vọt ra đường phố. Hắn vô cùng ngạc nhiên khi thấy Bastet cùng với chiếc xe
chở hắn và mụ ta đên đây giờ đã biến mất.
Hắn đã bị bỏ
rơi. Hơn thế nữa, hắn thật sự chỉ có một mình.
Dee cay đắng ý
thức rằng hắn lại làm các chủ nhân Elder Đen tối của hắn thất vọng nữa rồi. Và
hắn rất rõ những gì sẽ xảy đến với hắn. Chắc chắn Bastet đã báo cáo lần thất bại
này của hắn. Đôi môi hắn xoắn vặn thành một nụ cười đáng sợ. Rồi sẽ sớm đến
ngày hắn phải làm gì đó với sinh vật đầu mèo kia. Nhưng không phải bây giờ,
đúng ra là chưa. Hắn đã thất bại, nhưng tất cả chưa mất hết, chưa mất cho tới khi
chủ nhân của hắn lấy lại món quà bất tử, và trước khi chủ nhân của hắn có thể
khiến hắn trở lại bình thường, chắc hẳn ông ta sẽ phải chạm đến người hắn, đặt
cả hai bàn tay ông ta trên người hắn. Điều đó có nghĩa hoặc là chủ nhân của hắn
sẽ phải ra khỏi Vương quốc Bóng tối, hoặc là có ai đó - hay thứ gì đó - sẽ được
phái đến để bắt Dee và lôi hắn về để chịu xét xử.
Nhưng chuyện đó
sẽ không xảy ra ngay tức khắc được. Các Elder nhận thức về thời gian rất khác với
nòi giống người; sẽ phải mất một ngày, có thể là hai, để tổ chức việc bắt bớ.
Và vẫn còn có nhiều việc có thể xảy ra trong thời gian ít ỏi hiếm hoi ấy.
Thậm chí trong
giờ đen tối u ám nhất cuộc đời, Tiến sĩ John Dee không bao giờ chịu chấp nhận bị
đánh bại, và hắn luôn luôn chiến thắng trong giây phút cuối cùng. Nếu hắn bắt
được cặp song sinh và tìm được những trang sách bị mất, thì hắn tự tin là hắn
có thể tự cứu mạng mình.
London vẫn là
thành phố của hắn. Công ty hắn, Enoch Enterprise, có văn phòng ở Canary Wharf.
Hắn có một mái nhà ở đây - thật ra là hơn một cái - và hắn có một nguồn nhân lực
mà hắn có thể triệu hồi được: những tay đầy tớ, những tên nô lệ, những bạn đồng
minh và bọn lính đánh thuê.
Sự ngu dại luôn
kiến Dee giận dữ; đặc biệt là sự ngu dại của chính hắn. Hắn đã quá sợ, quá kính
nể sự hiện diện của Bastet và vẻ ngoài của Quan chấp chính cùng bọn Wild Hunt;
hắn đã thiếu phòng bị chính đáng. Trong các cơ hội trước đây, nhà Flamel thoát
thân được là nhờ kết hợp giữa yếu tố may mắn, hoàn cảnh hoặc là kỹ năng cũng
như sức mạnh của họ. Nhưng Dee không bao giờ tự xét quy trách nhiệm về chính
mình. Lần này lại khác. Đây hoàn toàn là do lỗi của hắn. Hắn đã đánh giá thấp cặp
song sinh.
Ánh đèn màu xanh
lơ và màu trăng quét lấp loáng trên những ngôi nhà đã đóng kín hết các cửa, và
tay Pháp sư hụp người cúi xuống thật nhanh sau một bức tường khi một loạt ba
chiếc xe cảnh sát hú hét chạy ngang qua.
Hắn biết đứa con
gái đã được huấn luyện ít nhất là hai ma thuật - Không khí và Lửa - và con bé
đã trình diễn kỹ năng và dũng khí phi thường trong lúc đương đầu với Quan chấp
chính. Nhưng nếu đứa con gái nguy hiểm, vậy thì thằng con trai... đúng, thằng
con trai ấy còn gấp đôi thế. Thằng bé là một điều bí ẩn. Mới vừa được Đánh thức,
không được huấn luyện bất kỳ một ma thuật cơ bản nào, vậy mà thằng bé sử dụng
thanh Clarent như thể nó sinh ra để làm việc đó, và chiến đấu với một kỹ năng
vượt xa hắn. Và lẽ ra đó phải là điều không thể xảy ra được.
Tay Pháp sư lắc
đầu. Hắn biết bí mật cơ bản của bốn Thanh kiếm Quyền lực; hắn biết chúng ta làm
gì đối với những con người bình thường. Những thanh kiếm quỷ quyệt và ra đòn
chí tử, gần như là kẻ khát máu tự bản chất. Chúng xôn xao thì thầm về những chiến
thắng phải đến, chúng ám chỉ những bí mật vượt xa khả năng tưởng tượng và ước hẹn
những quyền lực tối thượng. Tất cả những gì con người phải làm là cứ sử dụng thứ
vũ khí ấy... và cùng lúc đó, thanh kiếm uống lấy ký ức của con người, tiêu thụ
mọi cảm xúc cả họ trước khi cuối cùng nó ngốn ngấu đến luồng điện của họ. Vào
giai đoạn đó con người quên ăn uống. Người mạnh nhất sống được trong vòng một
tháng; hầu hết đều không kéo dài nổi mười ngày. Những pháp sư như hắn phải mất
hàng bao nhiêu thập kỷ chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi họ đi đến quyết định chạm tới
những thứ vũ khí bằng đá lạnh lẽo ấy; phải mất hàng bao nhiêu tháng trời ăn
kiêng và tập luyện trước khi họ học kỹ thuật rèn các luồng điện của mình thành
những găng tay bảo vệ. Thế mà, những thanh kiếm ấy vẫn còn quá mạnh đến nỗi nhiều
pháp sư và phù thủy đã không chống chọi nổi với chúng.
Vậy làm sao mà
thằng bé lại có thể sử dụng thanh Clarent được kia chứ?
Và làm thế nào
thằng bé biết rằng Dee có ý định giết chết Quan chấp chính?
Tay Pháp sư cắt
ngang một con hẻm hẹp đầy rác rưởi và lần xuống một con phố vắng vẻ. Hắn ấn bàn
tay vào bên hông mình, cảm nhận được hơi ấm của thanh Excalibur bên dưới lớp áo
khoác dơ bẩn của hắn. Cả bốn thanh kiếm đều rất giống nhau, dù mỗi cái là độc
nhất vô nhị trong những tính cách thậm chí hắn không tài nào hiểu kịp.
Excalibur nổi tiếng nhất trong hết thảy mấy thanh kiếm, tuy nó không phải là
thanh kiếm mạnh mẽ nhất, nhưng nó lại có những thuộc tính mà các thanh kiếm kia
không có. Chúi đầu vào một con hẻm vắng ngắt khác, John Dee rút thanh kiếm ra từ
bên dưới làn áo khoác và đặt nó trên đất ngay nơi bàn chân hắn. Móng ngón tay
út của hắn lóe lên màu vàng, và mùi lưu huỳnh mất hút giữa những rác rưởi hôi
thối khi hắn lấy ngón tay chạm nhẹ vào lưỡi kiếm và thì thầm, “Clarent.”
Thanh kiếm đá
rung lên bần bật, rồi âm ỉ rung lên và từ từ xoay xoay, lưỡi kiếm chỉ hướng
nam. Excalibur luôn luôn chỉ về phía người anh em sinh đôi của nó. Dee chộp lấy
món vũ khi và vội vã lên đường.
Tay Pháp sư trải
qua nhiều thế kỷ sưu tập những Thanh kiếm Quyền lực. Hắn đã có ba trong bốn rồi,
và hắn vừa tiến đến vô cùng gần cơ hội bổ sung thanh Clarent vào bộ sưu tập của
hắn. Không một Elder nào mà cũng không một Thế hệ Kế tiếp nào được miễn trừ khỏi
sức quyến rũ của các Thanh kiếm ấy cả. Người ta nói rằng Mars Ultor đã mang cả
hai thanh Excalibur lẫn Clarent trong những vỏ bao đồng bộ đeo chéo sau lưng
ông ta. Trước khi mang hai thanh kiếm song sinh ấy, ông ta đã là một nhà vô địch
của loài người; sau đó, ông ta trở thành một tên quỷ dữ. Và nếu hai thanh kiếm này
đã làm suy đồi một Elder như vậy, thế thì số phận nào dành cho một thằng bé
loài người chưa được huấn luyện này? Mỗi lần thằng con trai sử dụng thanh kiếm ấy,
là mỗi lần thanh kiếm dìm thằng bé sâu hơn dưới tầm kiểm soát của nó. Và Dee sẽ
luôn có thể tìm thấy thằng bé, miễn là thằng bé còn mang thanh kiếm bên mình.