Tên của đóa hồng - Phần cuối (Hết)
Chương cuối: Trang cuối cùng
Tu viện cháy trong ba ngày ba
đêm, và các nỗ lực cứu chữa cuối cùng đều vô ích. Vào sáng ngày thứ bảy chúng
tôi lưu lại đó, khi những người sống sót hiểu rõ rằng chẳng còn giữ nổi tòa nhà
nào nữa, khi những kiến trúc đẹp nhất chỉ còn trơ lại bức tường ngoài, và giáo
đường nuốt dần các ngọn tháp của nó như tự thu mình vào – ngay đến giây phút
đó, ý chí chiến đấu của mọi người nhằm chống lại sự trừng phạt của Chúa đã thất
bại. Nhà nguyện và các căn phòng tuyệt đẹp của Tu viện trưởng vẫn đang bốc
cháy, mà việc chạy đi lấy những thùng nước cuối cùng đã chán nản rã rời. Lúc
này ngọn lửa đã lan đến tận các xưởng làm việc, tôi tớ từ lâu đã cố chạy đồ đạc
của họ và phóng ra làng quê để bắt lại vài súc vật đã trốn khỏi tu viện trong
đêm hoảng loạn.
Tôi thấy vài tôi tớ liều lao vào
phần còn lại của giáo đường, tôi chắc họ định xuống hầm kho tàng để chộp lấy
vài món quý giá trước khi bỏ chạy. Tôi không biết họ có thành công không, hay hầm
đã sụp xuống rồi, hay họ đã bị vùi vào lòng đất khi cố đến được kho tàng.
Trong khi đó, dân quê trong làng
đã chạy đến cứu viện hay để hôi của. Các người chết phần lớn vẫn ở trong đống
tàn tích còn nóng đỏ. Vào ngày thứ ba, sau khi băng bó cho các người bị thương
và chôn cất những xác chết tìm thấy bên ngoài, các tu sĩ và mọi người khác thu
nhặt đồ đạc của mình và rời bỏ tu viện còn ngút khói như một nơi bị nguyền rủa.
Họ tản đi đến phương trời nào tôi chẳng biết.
Thầy trò tôi lên đường trên hai
con ngựa chạy lạc trong rừng, trực chỉ hướng đông. Khi đến Bobbio, chúng tôi bắt
đầu nghe những tin xấu về hoàng đế. Khi đến Pomposa, chúng tôi nghe La Mã đã nổi
dậy chống vua Louis khiến Ngài lui trở lại Pisa, trong khi đó các giáo sĩ đại
diện John đắc thắng tiến vào thành phố Thánh.
Trong khi đó, Michael xứ Cesena
biết rằng sự có mặt của mình tại Avignon sẽ chẳng mang lại kết quả nào – thực
ra, Cha sợ mất mạng – nên đã bỏ trốn về Pisa với vua Louis.
Chẳng bao lâu sau, tiên đoán thời
cuộc và biết vua sẽ tiến về Munich, chúng tôi đổi hướng và quyết định sẽ đến đó
trước, vì thầy William linh cảm thầy sẽ không an toàn ở Ý. Trong những năm
tháng kế tiếp, các lãnh chúa Ghibelline thôi không ủng hộ vua Louis nữa.
Khi chúng tôi đến Munich, tôi nức
nở tiễn biệt thầy William. Số mạng của thầy bấp bênh quá, nên gia đình muốn tôi
phải quay về Melk. Sau cái đêm đau thương tại tu viện, chúng tôi như ngầm thỏa
thuận với nhau không nhắc đến câu chuyện ấy nữa. Chúng tôi cũng chẳng đề cập gì
đến nó khi buồn bã chia tay nhau.
Thầy ban cho tôi nhiều lời khuyên
quý giá về đường học vấn tương lai, và tặng tôi cặp kính Nicholas đã làm, vì thầy
đã lấy lại cặp kính cũ. Thầy bảo tôi còn trẻ, nhưng một ngày kia, nó sẽ trở nên
hữu dụng (và quả thực khi viết những dòng này, tôi đang đeo kính). Rồi thầy âu
yếm ôm tôi như một người cha thương yêu và bảo tôi lên đường.
Tôi chẳng bao giờ gặp lại thầy nữa.
Rất lâu sau, tôi nghe nói thầy đã chết trong trận dịch lớn hoành hành khắp Âu
châu khoảng giữa thế kỷ này. Tôi luôn cầu nguyện Chúa sẽ đón nhận linh hồn thầy
và tha thứ cho thầy nhiều hành động kiêu hãnh mà tính cao ngạo trí thức của thầy
đã gây ra.
*
* *
Nhiều năm sau, khi đã trưởng
thành, tôi có dịp được Tu viện trưởng của mình phái về Ý công cán. Tôi không cưỡng
nổi cơ may này, và trên đường về tôi rẽ về thăm lại tàn tích của tu viện.
Hai ngôi làng trên sườn núi đã
hoang vắng, đất bỏ hoang không ai cày cấy. Khi tôi leo lên đỉnh núi, cảnh hoang
tàn chết chóc hiện ra khiến mắt tôi mờ lệ.
Những cấu trúc vĩ đại tráng lệ
xưa kia mọc sừng sững nơi đây, giờ chỉ trơ lại những mảnh đổ nát, như trước đây
đã xảy ra với các tượng đài của những người đa thần cổ đại ở La Mã. Dây leo quấn
chằng chịt lên các mảng tường, cột còn nguyên. Cỏ dại mọc tràn lan muôn phía,
chẳng còn biết vườn rau, vườn hoa xưa đâu nữa. Chỉ có nghĩa trang là còn nhận
ra được, vì vài nấm mồ vẫn còn nhô cao khỏi mặt đất. Dấu hiệu duy nhất của sự sống
là vài con chim ăn thịt đang săn thằn lằn và rắn, những con vật giống rắn thần
đang trườn đi giữa những khe đá hay bò trên tường. Cánh cửa giáo đường chỉ còn
lại vài mẩu mốc meo. Phân nửa vòm mạng trung tâm vẫn còn, và tôi liếc thấy
trong đó con mắt trái của Chúa ngồi trên ngai và vài nét trên bộ mặt sư tử,
chúng đã bị các yếu tố thiên nhiên làm giãn nở ra và bị địa y bao phủ.
Đại Dinh, trừ tường phía nam bị
tàn phá, dường như vẫn đứng vững với thời gian. Hai ngọn tháp trên vực đá trông
như không hề suy suyển, chỉ trừ các cửa sổ bây giờ là những hố mắt trống hốc
đang chảy những hàng lệ là các dây leo mục rữa. Bên trong, công trình nghệ thuật
bị tàn phá nhào trộn với công trình thiên nhiên, và qua khoảng diện tích bao la
của nhà bếp, mắt tôi nhìn suốt lên tận trời xanh qua vùng trống của các tầng
trên và mái nhà, đã sụp xuống như các thiên thần giáng thế. Những thứ chưa xanh
rêu thì vẫn ám khói đen của nhiều thập niên về trước.
Lang thang trong đống gạch vụn,
tôi thỉnh thoảng lại thấy những mảnh giấy da đã bay từ phòng thư tịch và thư viện
xuống, và tồn tại như những châu ngọc chôn dưới đất. Tôi nhặt nhạnh chúng, tựa
như sắp khâu lại các trang giấy bị bứt rời trong một quyển sách. Rồi tôi để ý
thấy trong một ngọn tháp có một cầu thang trôn ốc dẫn lên phòng thư tịch, tuy
rung rinh nhưng vẫn nguyên vẹn, từ đây, leo lên một núi đá vụn, tôi đến được tầng
thư viện, thế nhưng nó chỉ còn một hành lang sát với tường ngoài, nhìn xuống cảnh
tan hoang khắp phía.
Dọc theo một bức tường, tôi bắt gặp
một kệ sách bị nước và mối ăn mòn mà không hiểu sao đã thắng được lửa để đứng
thẳng thật diệu kì. Trong kệ vẫn còn vài trang sách. Các trang sống sót khác
tôi nhặt được nhờ lục lọi khắp trong đống đổ nát bên dưới. Tôi đã bỏ cả ngày để
gặt, tuy chẳng thu được bao nhiêu, tựa như từ những hạt ký ức về thư viện sẽ nảy
lên cho tôi một thông điệp nào đó. Vài mẩu giấy da đã phai mờ, vài mảnh khác
cho ta cái bóng của một hình ảnh nào đó, hay tinh anh của một hai chữ. Đôi khi
tôi nhặt được những trang giấy còn nguyên cả câu, còn thường thì nhặt được các
bìa còn nguyên, xưa kia được bảo vệ nhờ các đinh kim loại đầu lớn… Những quyển
sách ma, xác còn nhưng hồn đã tiêu tán, tuy nhiên thỉnh thoảng tôi lại vớt được
nửa trang giấy, trong đó nhận ra được tựa sách, hay chữ đầu tựa.
Tôi thu góp mọi thánh tích nhặt
được, xếp chúng đầy hai bọc hành lý và vất bỏ các dụng cụ khác để cứu lấy kho
tàng bất hạnh này.
Trên đường về, và sau này tại
Melk, tôi bỏ ra nhiều giờ cố đọc những mẩu giấy sót lại này. Từ một chữ hay
hình ảnh, tôi thường nhận ra được nó thuộc tác phẩm nào. Về sau, khi tôi tìm được
các bản sao khác của những tác phẩm đó, tôi âu yếm nghiên cứu chúng, như thể số
mệnh đã để lại cho tôi di sản này. Cuối thời gian tái tạo kiên nhẫn của tôi,
tôi có trước mặt một thư viện nhỏ, biểu tượng của một thư viện lớn hơn đã tan
biến, một thư viện bằng các mảnh giấy, trích dẫn, câu viết dang dở và các thân
thể sách què cụt.
o0o
Tôi càng đọc đi đọc lại các danh
mục này thì càng tin rằng nó chỉ là một kết quả ngẫu nhiên và chẳng chứa đựng một
thông điệp nào cả. Nhưng những trang sách không toàn vẹn đó đã theo tôi suốt
quãng đời còn lại. Tôi thường giở chúng ra xem như một lời sấm truyền, và gần
như tin rằng những gì tôi viết trên những trang giấy này mà quý vị độc giả chưa
quen nào đó đang đọc, chỉ là một bài thơ chắp vá, một bài thánh ca tưởng tượng,
một bài acrostic[1] bao la, mà chẳng nói lên hay nhắc lại điều gì ngoài những ý
các mẩu sách đó đã gợi cho tôi. Tôi cũng không biết mình đã nói về chúng hay
chúng nói qua miệng mình bao xa. Nhưng dù bất kì một trong hai khả năng này
đúng đi nữa, tôi càng nhủ lòng câu chuyện này phát sinh từ chúng bao nhiêu, thì
tôi càng không hiểu phải chăng có một mưu định vượt ra ngoài diễn biến tự nhiên
của các sự kiện và các thời gian đan nối chúng với nhau hay không. Một tu sĩ
già, trên ngưỡng cửa của cái chết mà không biết dòng chữ mình viết có ẩn chứa một
ý nghĩa, hay hơn, hay nhiều, hay chẳng có ý nghĩa nào hết, thì quả là một điều
đau lòng.
[1] Một loại bài thơ nếu ghép các mẫu tự đầu hay cuối của các dòng thơ
lại sẽ có một từ hay một danh ngôn.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu
sách.]
Nhưng việc tôi không có khả năng
để nhận biết này có lẽ là do tác dụng của cái bóng, mà màn đen vĩ đại khi đến gần,
đang phủ lên thế gian già nua.
Vinh quang của Thành Babylon nay
đâu rồi? Tuyết trắng năm xưa đâu? Thế giới đang quay cuồng điệu múa của
Macabré, có lúc tôi nghĩ sông Danube đang đầy nghẹt tàu bè chở đầy những kẻ ngốc
đi về một miền tối tăm.
Bây giờ tôi chỉ còn biết yên lặng.
Thật lành mạnh biết bao, thật vui thú và ngọt ngào biết bao được ngồi trong cô
tịch và nói chuyện cùng Thiên Chúa[2].
[2] O quam salubre, quam
iucundum et suave est sedere in solitudine et tacere et loquy cum Deo.
Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ quay về căn nguyên của mình, và tôi không còn tin
đó là Chúa vinh quang mà các tu viện trường dòng tôi đã nói đến, hay là nơi hân
hoan như dòng Khất thực ngày đó vẫn tin tưởng, mà có lẽ cũng chẳng phải nơi
thành kính nữa… Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ đi vào sa mạc mênh mông, bằng phẳng và
vô tận, nơi trái tim thành tâm kính đạo hưởng hạnh phúc. Tôi sẽ rơi vào bóng tối
thánh thiện, vào cõi thinh lặng và hợp nhất khôn tả, khi rơi xuống mọi điều
bình đẳng, bất công sẽ mất hết và trong vực sâu ấy linh hồn tôi sẽ tự biến đi
chẳng còn biết điều bình đẳng, bất công hay thứ gì khác nữa, và sẽ lãng quên đi
mọi sự phân biệt. Tôi sẽ ngự trong một miền đơn giản, trong một hoang mạc yên lặng,
không tìm thấy sự phân biệt, trong cõi riêng tư nơi không ai tìm cho mình một
chỗ biệt lập. Tôi sẽ về nước Chúa thanh tịnh, yên vắng, thư nhàn, và vô ảnh.
*
* *
Phòng thư tịch lạnh quá, ngón tay tôi nhức buốt. Tôi để lại bản viết này,
chẳng biết cho ai. Tôi chẳng còn biết nó viết về điều gì nữa: stat rosa
pristina nomina, nomina nuda tenemus, bông hồng xa xưa còn tồn tại nhờ cái tên,
và chúng tôi chỉ giữ lại mỗi một cái tên thôi.
HẾT
Lời cuối: Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.
Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác Sách:
Chim Cụt – Du Ca – trangchic
(Tìm – Chỉnh sửa – Đăng)