Tên của đóa hồng - Phần VII - Chương 1 - Phần 1

PHẦN 7: NGÀY THỨ BẢY

Chương 1: ĐÊM

Nếu đề mục này phải tóm tắt

các tiết lộ phi thường của nội dung,

thì khác với thông lệ,

nó sẽ dài bằng chính chương này.

Chúng tôi đứng trên ngưỡng cửa của
một phòng có hình thể tương tự như ba phòng bảy cạnh không cửa sổ kia, nồng nặc
mùi mốc meo của sách ẩm ướt. Ngọn đèn dầu mà tôi giơ cao soi sáng vòm nhà trước
tiên, và khi tôi đưa đèn từ phải sang trái thì ngọn lửa hắt ánh sáng mờ mờ lên
các kệ sách đằng xa đặt dọc theo tường. Cuối cùng, ngay giữa phòng, chúng tôi
thấy một cái bàn phủ đầy giấy tờ, đằng sau bàn có một người ngồi, nếu người ấy
vẫn còn sống thì dường như đã ngồi bất động trong bóng tối, đợi chờ chúng tôi.
Ngay trước khi ánh đèn soi sáng khuôn mặt người ấy, thầy William đã lên tiếng:

- Huynh Jorge kính mến, chúc
Huynh một đêm vui. Huynh đang đợi chúng tôi à?

Khi chúng tôi tiến thêm vài bước
thì ngọn đèn chiếu lên gương mặt lão già đang nhìn chúng tôi như thể thấy được.
Lão hỏi:

- Sư huynh William xứ Baskerville
đấy hả? Tôi đã đợi Huynh từ trước lúc Kinh Chiều đến nay, từ lúc tôi vào giam
mình ở đây. Tôi biết Huynh sẽ đến.

- Thế còn Tu viện trưởng? Có phải
đó là người đập rầm rầm trong cầu thang bí mật không?

Jorge ngập ngừng một lát, đoạn hỏi:
- Cha vẫn còn sống à? Tôi nghĩ Cha đã chết ngạt rồi.

- Trước khi chúng ta bắt đầu nói
chuyện, tôi muốn cứu Cha. Huynh có thể mở từ máy trên này.

Jorge mệt mỏi nói:

- Không, không kịp nữa. Máy được
điều khiển ở bên dưới, bằng cách nhấn vào tấm bảng; ở trên này, một đòn bẩy bật
lên và mở cánh cửa sau cái kệ đằng kia. – Lão hất hàm về phía sau. – Kế bên cái
kệ Huynh sẽ thấy một bánh xe với vài vật đối trọng để điều khiển bộ máy từ trên
này. Nhưng khi tôi nghe tiếng bánh xe quay, dấu hiệu báo cho biết Cha Bề trên
đã đến bên dưới, tôi giật mạnh sợi dây thừng giữa các vật đối trọng, và thừng
đã đứt. Bây giờ hai đầu lối đi này đã bịt kín, Huynh sẽ chẳng bao giờ sửa được
bộ máy cả. Tu viện trưởng đã chết.

- Tại sao Huynh lại giết Cha?

- Hôm nay, khi y gọi tôi đến, y bảo
nhờ Huynh mà y khám phá mọi việc. Y vẫn chưa biết điều mà tôi hằng cố bảo vệ, y
chẳng bao giờ hiểu chính xác những báu vật và cứu cánh của thư viện. Y bảo tôi
giải thích điều y chưa biết. Y muốn mở cửa “finis Africae”: Các tu sĩ Ý yêu cầu
y chấm dứt cái mà họ gọi là sự bí ẩn do tôi và các bậc tiền bối của tôi nuôi sống.
Lòng họ thôi thúc dục vọng muốn tìm biết những điều mới lạ…

- Huynh hẳn đã hứa với Cha sẽ đến
đây và kết liễu mạng mình, như Huynh đã kết liễu mạng của những người kia một
cách êm thấm để cứu vãn danh dự của tu viện và không ai biết điều gì cả. Rồi
Huynh chỉ cho Cha cách đến đây và kiểm tra sau đó. Nhưng thay vì như vậy, Huynh
đã đợi để giết Cha. Huynh không nghĩ Cha có thể vào bằng đường tấm gương à?

- Không, Tu viện trưởng trí quá hẹp.
Y sẽ chẳng bao giờ tự mình giải được bí mật của câu thơ. Tôi bày cho y một lối
đi khác mà chỉ mình tôi biết. Đó là lối đi tôi đã dùng hàng bao nhiêu năm nay,
vì trong bóng tối nó dễ đi hơn. Tôi chỉ việc đến nhà thờ, rồi theo xương người
chết đến cuối hành lang.

- Như thế Huynh đã dẫn dắt Cha đến
đây, biết rằng mình sẽ giết Cha…

- Tôi không thể tin y nữa. Y đã hoảng loạn. Trước đây y nổi danh ở
Fossanova vì đã xoay xở mang một cái xác xuống cầu thang trôn ốc. Một vinh
quang không xứng đáng. Bây giờ y chết vì không lên nổi cầu thang của chính
mình.

- Huynh đã dùng cầu thang đó bốn mươi năm nay rồi. Khi Huynh biết mình sẽ bị
mù và không còn đủ khả năng điều khiển tu viện nữa, Huynh đã hành động rất khôn
ngoan. Huynh dàn xếp để người ta bầu một người Huynh tin cẩn lên làm Tu viện
trưởng. Thời còn là quản thư viện, Huynh đã đặt tên cho người ấy là Robert xứ
Bobbio, người mà Huynh có thể điều khiển theo ý mình, rồi đến Malachi, người cần
sự giúp đỡ của Huynh và chẳng bao giờ hành động mà không tham khảo ý kiến của
Huynh. Bốn mươi năm nay Huynh là chủ của tu viện này. Nhóm tu sĩ Ý đã nhận thức
được điều này, và Alinardo nhắc đi nhắc lại nó mãi, nhưng không ai chịu nghe
già vì họ cho rằng bây giờ già đã điên rồi. Tôi nói đúng không? Nhưng Huynh vẫn
đợi tôi và không thể bịt tấm cửa gương được vì máy mở đặt bên trong tường. Tại
sao Huynh lại đợi tôi? Sao Huynh biết chắc tôi sẽ đến? – Thầy William hỏi,
nhưng qua giọng nói, ta nhận rõ thầy đã đoán được câu trả lời, và mong nghe nó
như phần thưởng cho tài suy đoán của mình.

- Ngay từ ngày đầu tiên, qua giọng nói của Huynh, qua cách Huynh lôi tôi
vào việc tranh luận một đề tài mà tôi không muốn nhắc đến, tôi biết Huynh sẽ hiểu
ra. Huynh giỏi hơn những người khác: bằng mọi cách Huynh sẽ tìm được giải đáp.
Huynh biết chỉ cần suy nghĩ và hình dung lại suy nghĩ của người khác trong óc
mình là đủ. Rồi tôi nghe Huynh đặt câu hỏi với các tu sĩ khác, tất cả câu Huynh
hỏi đều đúng cả. Nhưng Huynh không bao giờ hỏi về thư viện, tựa như Huynh đã biết
mọi bí mật của nó rồi vậy. Một đêm nọ, tôi đến gõ cửa phòng Huynh, nhưng Huynh
không có bên trong. Huynh phải vào đây thôi. Tôi nghe một tôi tớ nói trong bếp
mất hai cây đèn. Và cuối cùng hôm nọ, trong gian giữa nhà nguyện khi Severinus
đến nói chuyện với Huynh về một quyển sách, tôi biết chắc Huynh đang bám theo dấu
vết của tôi.

- Nhưng Huynh đã tìm cách tước quyển sách đó khỏi tay tôi. Huynh đến nói với
Malachi, người chẳng hiểu gì về tình hình. Trong cơn ghen tức, tên ngốc ấy vẫn
còn ám ảnh bởi ý nghĩ Adelmo đã cướp mất Berengar thân yêu của hắn vì Berengar
khao khát xác thịt non trẻ hơn. Malachi không hiểu Severinus có liên quan gì đến
việc này, và Huynh còn làm rối loạn suy nghĩ của hắn hơn nữa. Có lẽ Huynh bảo
Malachi rằng Berengar đã thân mật với Severinus, và Berengar đã thưởng cho
Severinus một quyển sách trong “finis Africae”. Tôi không biết chính xác Huynh
đã nói với Malachi những gì. Điên lên vì ghen, Malachi đã giết Severinus, nhưng
hắn không kịp săn tìm quyển sách Huynh đã miêu tả với hắn, vì quản hầm bước
vào. Có phải mọi việc xảy ra như vậy không?

- Gần như vậy.

- Nhưng Huynh không muốn Malachi chết. Có lẽ hắn chưa bao giờ nhìn đến các
quyển sách trong “finis Africae” vì hắn tin Huynh và tôn trọng lệnh cấm của
Huynh. Hắn tự giới hạn trong nhiệm vụ mỗi đêm bỏ cây thuốc để đe dọa những kẻ lạ
xâm nhập. Severinus cung cấp cho Malachi các loại cây thuốc này. Thế nên, hôm nọ
Severinus mới để Malachi vào bệnh xá, đó là cuộc viếng thăm thường lệ của
Malachi để thu các cây thuốc mới mà Severinus chuẩn bị hằng ngày theo lệnh của
Tu viện trưởng. Tôi đoán đúng chăng?

- Huynh đã đoán đúng. Tôi không muốn Malachi chết. Tôi bảo hắn bằng mọi
cách phải tìm lại quyển sách và mang nó đến đây, nhưng không được mở ra. Tôi bảo
nó có sức mạnh bằng cả ngàn con bò cạp. Nhưng lần đầu tiên tên điên ấy làm theo
ý mình. Tôi không muốn hắn chết vì hắn là kẻ trung thành. Nhưng chớ nhắc lại điều
Huynh biết: tôi biết Huynh biết mà. Tôi không muốn Huynh thêm tự mãn, tự Huynh
đã thế rồi. Sáng nay trong phòng thư tịch, tôi nghe Huynh hỏi Benno về “Bữa tiệc của Cyprian”. Huynh đã đến gần
sự thật lắm. Tôi không biết bằng cách nào Huynh khám phá được bí mật của tấm
gương, nhưng khi Tu viện trưởng bảo Huynh đã đề cập đến “finis Africae”, thì
tôi biết chắc chẳng bao lâu nữa Huynh sẽ đến đây. Do đó, tôi ngồi đây đợi. Bây
giờ, Huynh muốn gì nào?

- Tôi muốn xem bản viết cuối cùng trong quyển sách bốn bản, gồm một bản tiếng
Ả-rập, một bản tiếng Xy-ri cổ, và một bản bình giảng hay bản sao “Bữa tiệc Cyprian”. Tôi muốn xem bản viết
bằng tiếng Hy Lạp mà có lẽ do một người Ả-rập, hay một người Tây Ban Nha sao lại.
Huynh đã tìm thấy bản này thời còn là phụ tá cho Paul xứ Rimini, Huynh đã dàn xếp
để được phái về nước mình thu thập các bản hay nhất về sách Mặc Khải ở Léon và
Castille. Số sách kiếm được này đã khiến Huynh nổi danh và cả tu viện kính trọng,
giúp Huynh đoạt chức quản thư viện mà đáng lý thuộc về Alinardo, người lớn hơn
Huynh mười tuổi. Tôi muốn xem bản sao bằng tiếng Hy Lạp viết trên giấy lụa, loại
giấy thời đó rất hiếm, được sản xuất tại Silos, gần Burgos quê của Huynh. Tôi
muốn xem quyển sách mà Huynh đã trộm ở đó. Sau khi đọc nó xong, để không ai được
đọc nó nữa, Huynh đã giấu nó ở đây, bảo vệ nó rất khôn khéo mà không thủ tiêu
nó, vì một người như Huynh không hủy sách mà chỉ canh giữ không để ai chạm vào
nó. Tôi muốn xem tập hai tác phẩm “Thi ca
của Aristotle, quyển sách mà mọi người vẫn tin đã bị thất lạc, hay chưa bao giờ
được viết ra, quyển sách mà có lẽ Huynh đang giữ độc bản.

- William, Huynh có thể trở thành một quản thư viện tuyệt vời biết bao! –
Jorge nói, giọng vừa thán phục vừa tiếc nuối. – Thế là Huynh đã biết tất cả. Đến
đây, tôi nghĩ có một cái ghế ở cạnh bàn, phía bên Huynh đó. Ngồi đi, phần thưởng
của Huynh đấy.

Thầy William ngồi và đặt chiếc đèn tôi đã đưa cho thầy xuống, nó soi sáng
khuôn mặt của Jorge từ dưới lên. Lão già cầm lấy quyển sách nằm trước mặt, đưa
cho thầy William. Tôi nhận ra cái bìa của nó chính là quyển sách tôi đã mở ra
xem trong bệnh xá mà lại ngỡ là một bản tiếng Ả-rập. Jorge bảo:

- Này William, đọc đi, giở nó xem đi. Huynh thắng rồi.

Thầy William nhìn quyển sách, nhưng không chạm vào nó. Thầy lôi trong áo
dòng ra một đôi găng tay, không phải là đôi găng hở ngón thường dùng, mà là đôi
Severinus đang đeo khi chết. Thầy chậm rãi mở cái bìa cũ mòn mỏng manh ra. Tôi
đến sát hơn, chồm qua vai thầy để xem. Đôi tai thính của Jorge bắt được tiếng động
do tôi gây ra, bèn nói: - Cậu bé cũng ở đây hả? Tôi cũng sẽ cho cậu xem… sau.

Thầy William liếc nhanh qua những trang đầu: - Theo thư mục thì đây là bản Ả-rập
nói về lời nói của một kẻ ngu ngốc nào đó. Nó là gì vậy?

- Ồ, những truyền thuyết ngớ ngẩn của bọn vô thần, cho rằng bọn ngốc phát
ra những nhận xét khôn ngoan khiến ngay cả các linh mục của họ cũng phải kinh
ngạc, các vua Hồi phải khoái chí…

- Bản thứ hai bằng tiếng Xy-ri cổ, nhưng theo thư mục thì nó là bản dịch của
một quyển sách nhỏ tiếng Ai Cập về nghệ thuật giả kim, sao nó lại ở trong bộ
này?

- Đó là một tác phẩm Ai Cập từ thế kỷ thứ ba, trong thời đại chúng ta. Nó
liên hệ với các tác phẩm theo sau, nhưng ít nguy hiểm hơn, không ai để tai nghe
những lời lảm nhảm của một tên giả kim châu Phi. Hắn quy việc tạo ra thế gian
này cho tiếng cười thiêng liêng… - Lão ngước mặt lên đọc, với trí nhớ phi thường
của một độc giả mà bốn mươi năm nay vẫn tự nhắc mình những điều đã đọc được khi
còn sáng mắt: - Khi Chúa cười thì bảy vị thần cai quản thế gian được sinh ra.
Khi Ngài bật cười thì ánh sáng hiện ra, Ngài cười tiếng thứ hai thì nước tuôn,
Ngài cười đến ngày thứ bảy thì linh hồn xuất hiện… Điên rồ. Tác phẩm theo sau
cũng vậy, nó do một trong vô số gã ngốc đặt cho mình nhiệm vụ trau chuốt “Bữa tiệc” viết… Nhưng chúng không phải
là thứ Huynh chú ý đâu.

Thầy William thực ra đã giở nhanh các trang sách và lần đến bản tiếng Hy Lạp.
Tôi thấy ngay rằng các trang này làm bằng một loại giấy khác, mềm hơn, những
trang đầu gần như cũ mèm, một phần lề đã bị hư hại, vấy những vết dơ mờ mà thời
gian và ẩm mốc thường cũng gây cho các quyển sách khác. Thầy William đọc những
dòng mở đầu, thoạt tiên bằng tiếng Hy Lạp, rồi thầy dịch ra tiếng La-tinh để
tôi cũng có thể biết quyển sách tai hại ấy bắt đầu như thế nào.

Trong tập một, chúng tôi đã bàn về bi kịch và chứng minh bằng cách nào, nhờ
khơi dậy sự thương hại và nỗi sợ hãi, nó phát sinh sự hồi hộp phấn chấn, sự
thanh lọc các xúc cảm này. Như đã hứa, giờ đây chúng tôi sẽ bàn về hài kịch
(cũng như về trào phúng và kịch câm), và chứng minh bằng cách nào, nhờ khơi dậy
thú vui cười cợt, nó đạt đến được sự thanh lọc đam mê đó. Một đam mê như vậy
đáng cho chúng ta quan tâm hàng đầu, chúng tôi đã nói như thế trong quyển sách
về linh hồn, vì con người là sinh vật duy nhất có khả năng cười. Chúng tôi sẽ định
nghĩa các loại hành động, trong đó hài kịch đóng vai trò ngụy trang, rồi chúng
tôi sẽ xem xét các phương tiện mà hài kịch đã sử dụng để gây cười, và các
phương tiện này là hành động và lời nói. Chúng tôi sẽ trình bày các hành động nực
cười được phát sinh như thế nào từ việc so sánh cái tốt nhất với cái xấu nhất,
hay ngược lại, từ việc gây ngạc nhiên như đánh lừa, từ điều không thể xảy ra, từ
sự đảo lộn các quy luật tự nhiên, từ các lộn xộn, vẩn vơ, bất hợp lý, từ việc
dung tục hóa các nhân vật, từ cách sử dụng các động tác câm hài hước và thô tục,
từ sự bất hài hòa, từ việc chọn lựa những điều hèn kém nhất. Chúng tôi sẽ trình
bày các lời nói nực cười được phát sinh như thế nào từ việc hiểu lầm các từ
tương tự với các điều khác nhau, và các từ khác nhau với những điều tương tự, từ
sự ba hoa và lập đi lập lại, từ cách chơi chữ, từ cách phát âm sai, và từ cách
nói thô tục.

Thầy William dịch nó một cách khó khăn, vì phải chọn cho đúng chữ, và chốc
chốc phải ngừng lại. Vừa dịch thầy vừa mỉm cười, tựa như tìm ra được điều mình
mong đợi. Thầy đọc lớn trang đầu tiên, rồi ngưng lại, như thể không muốn biết
thêm nữa, và lật nhanh qua các trang kế. Nhưng sau vài trang thầy khựng lại, vì
có vài trang bị dính lại với nhau, ở rìa góc trên và phía đầu sách, như thường
thấy khi các loại giấy ẩm mục hóa thành một thứ keo dinh dính. Jorge nghe tiếng
giở sách rào rào đã ngưng lại, bèn giục thầy William:

- Tiếp chứ, đọc đi, giở sách đi. Sách của Huynh mà. Huynh đã đoạt được nó rồi.

Thầy William bật cười, nghe dường như thích thú. – Huynh nghĩ tôi khôn
ngoan là không đúng đâu, Jorge ạ! Huynh không thấy được tôi đang đeo găng. Với
những ngón tay cục mịch vụng về như thế này, tôi không thể tách từng trang giấy
ra được. Tôi phải để tay trần, thấm nước miếng, như tôi đã tình cờ làm sáng nay
khi đọc sách trong phòng thư tịch, thế nên điều bí ẩn đó đột nhiên cũng trở nên
dễ hiểu. Và tôi sẽ phải tiếp tục giở như thế cho đến khi một lượng lớn thuốc độc
ngấm vào miệng. Tôi đang nói đến lượng thuốc độc mà một ngày xa xưa nọ, Huynh
đã trộm trong phòng thí nghiệm của Severinus. Có lẽ lúc ấy Huynh đã thấy lo lắng,
vì nghe ai đó trong phòng thư tịch tỏ ý tò mò, hoặc về “finis Africae”, hoặc về
quyển sách thất lạc của Aristotle, hoặc là cả hai. Tôi tin Huynh đã cất ống thuốc
độc đó một thời gian dài, định sử dụng nó vào lúc thấy nguy hiểm. Và Huynh đã
thấy hiểm nguy đến vài ngày trước đây. Khi Venantius bàn quá gần đến đề tài của
quyển sách, cùng lúc đó Berengar vô tâm, huênh hoang cố lòe Adelmo, tỏ ra không
kín đáo như Huynh hằng hi vọng. Thế là Huynh đã giăng bẫy ra. Quả là kịp lúc,
vì chỉ vài đêm sau đó, Venantius đã đột nhập vào trộm quyển sách, và gần như ngấu
nghiến giở ra xem. Chẳng bao lâu sau, Huynh ấy thấy mệt bèn chạy xuống nhà bếp
cầu cứu, và chết tại đó. Tôi có lầm không nhỉ?

- Không, tiếp đi.

- Phần còn lại rất đơn giản. Berengar tìm thấy xác của Venantius trong nhà
bếp, sợ người ta sẽ điều tra lôi thôi, vì nói cho cùng, Venantius ban đêm đột
nhập vào Đại Dinh là do nhờ Berengar trước đây đã tiết lộ bí mật cho Adelmo. Hắn
không biết phải làm gì, bèn vác xác lên vai và ném nó vào vại máu, nghĩ rằng mọi
người sẽ tin Venantius bị chết đuối.

- Thế Huynh làm cách nào biết được những sự việc xảy ra đó?

- Chính Huynh cũng biết rõ như tôi. Tôi nhận thấy phản ứng của Huynh, khi
người ta tìm thấy mảnh vải vấy máu của Berengar. Tên ngốc đó đã dùng mảnh vải
này để lau tay sau khi bỏ Venantius vào vại. Nhưng vì Berengar đã mất dạng, nên
hắn chỉ có thể biến đi với quyển sách mà lúc đó đã khêu gợi óc tò mò của hắn.
Huynh đợi người ta tìm ra xác Berengar ở đâu đó, không bị nhuốm máu mà là ngấm
thuốc độc. Phần còn lại đã rõ ràng, vì Berengar đầu tiên đến bệnh xá để đọc
sách, tránh xa các cặp mắt cú vọ. Malachi, bị Huynh xúi giục, vào giết
Severinus, rồi quay lại đây và chết vì muốn khám phá điều cấm gì trong quyển
sách đã khiến hắn thành một kẻ sát nhân. Như thế, chúng ta đã giải thích được tất
cả mọi cái chết… Thật ngu quá…

- Ai ngu?

- Tôi. Vì nghe theo lời nhận xét của Alinardo nên tôi đã tin rằng loạt án mạng
này là theo thứ tự của bảy hồi kèn trong sách Mặc Khải. Mưa đá cho Adelmo, và
Huynh ấy đã tự tử chết. Máu cho Venantius, và do thế người ta đã có những ý tưởng
kì quặc về cái chết của Berengar. Nước cho Berengar, thực ra đó chỉ là một hành
động ngẫu nhiên. Phần thứ ba của trời xanh cho Severinus, và Malachi đã dùng lồng
cầu để đập Huynh ấy, vì đó là một vật duy nhất tiện tay Malachi lúc đó. Và cuối
cùng là bọ cạp cho Malachi… tại sao Huynh lại bảo hắn là quyển sách có sức mạnh
của ngàn con bọ cạp?

- Chính vì Huynh. Alinardo đã kể cho tôi ý tưởng về bảy hồi kèn, và tôi
nghe ai đó bảo cả Huynh cũng thấy ý đó hữu lý… Tôi đâm tin rằng những cái chết
này là do thiên định, và tôi không có trách nhiệm gì hết. Tôi đã bảo Malachi nếu
hắn tò mò thì hắn sẽ bị tiêu diệt theo thiên mệnh, và hắn đã chết như thế.

- Như thế, thì… Tôi đã hình dung sai cách lý giải các bước hành động của
tên tội phạm và hóa ra hắn đã làm trùng với cách đó. Cũng chính nhờ cách hình
dung sai này mà tôi đã theo được dấu vết của Huynh. Thời nay ai cũng bị ám ảnh
bởi quyển sách của Thánh John, nhưng dường như Huynh là người nghiên cứu nó kĩ
nhất, nhưng điều đó không phải vì Huynh ngẫm nghĩ mãi về tên Phản Chúa, mà vì
Huynh xuất xứ từ một đất nước sản sinh ra những quyển sách Mặc Khải đẹp nhất.
Hôm nọ có người bảo tôi chính Huynh đã đem đến thư viện những bản viết tay sách
Mặc khải đẹp nhất. Rồi một hôm khác, Alinardo nói lảm nhảm về một kẻ thù bí ẩn
đã được phái đến Silos tìm sách, lòng hiếu kì của tôi nổi lên khi lão bảo kẻ
thù này đã sớm quay về thế giới tối tăm: thoạt tiên có thể tưởng lão nói về một
kẻ đã chết yểu, nhưng thực ra lão đang nói đến sự mù lòa của Huynh. Silos ở gần
Burgos, và sáng hôm nay, tôi thấy trong thư mục một loạt các sách nhận được đều
là sách Mặc khải Tây Ban Nha, trong thời gian Huynh đã hay sắp kế vị Paul xứ
Rimini. Trong nhóm sách nhận được đó cũng có quyển sách này. Nhưng mãi đến khi
tôi biết quyển sách này làm bằng giấy lụa thì tôi mới dám khẳng định lời giải
thích của mình. Rồi tôi nhớ đến Silos, và biết chắc mình đúng. Dĩ nhiên, khi ý
tưởng về quyển sách và độc chất giết người của nó dần dần hình thành thì cách
suy diễn theo bảy hồi kèn Mặc khải bắt đầu sụp đổ, mặc dù tôi không hiểu tại
sao cả hai đều hướng về Huynh. Nhưng tôi hiểu rõ câu chuyện về sách hơn, vì
theo hướng của hồi kèn Mặc khải, tôi buộc phải nghĩ đến Huynh và cuộc tranh luận
của Huynh về tiếng cười nhiều hơn. Do đó buổi tối nay, khi tôi không còn tin
vào kèn Mặc khải nữa thì tôi vẫn quyết canh chừng chuồng ngựa, và trong chính
nơi đó, hoàn toàn tình cờ, Adso đã trao cho tôi chìa khóa vào “finis Africae”.

Jorge bảo: - Tôi không hiểu được ý Huynh. Huynh hãnh diện trình bày cái
cách Huynh đã suy luận để nắm được tôi, thế rồi Huynh lại bảo Huynh đến đây vì
suy luận sai. Thế Huynh muốn nói gì với tôi?

- Không nói gì với Huynh cả. Tôi hơi bị hẫng, thế thôi. Nhưng điều đó chẳng
quan trọng gì. Dẫu sao tôi đã đến đây.

- Chúa đang thổi bảy hồi kèn và Huynh, dù trong khi sai lầm, cũng đã nghe
tiếng vọng rối loạn của âm ba đó.

- Huynh đã nói đến điều này trong bài giảng tối qua. Huynh cố thuyết phục
mình rằng toàn bộ sự việc là do thiên định để che giấu sự kiện Huynh là kẻ sát
nhân.

- Tôi chẳng giết ai cả. Mỗi người chết theo số phận tội lỗi của họ. Tôi chỉ
là một công cụ.

- Hôm qua Huynh bảo Judas cũng là một công cụ. Điều đó không ngăn hắn khỏi
bị đọa đày.

- Tôi chấp nhận nguy cơ bị đọa đày. Chúa sẽ giải tội cho tôi, vì Ngài biết
tôi hành động vì danh Ngài. Nhiệm vụ của tôi là bảo vệ thư viện.

- Mới cách đây vài phút, Huynh đã sẵn sàng giết cả tôi và thằng bé này nữa…

- Huynh khôn ngoan hơn, nhưng chẳng giỏi hơn những kẻ khác đâu.

- Và bây giờ chuyện gì sẽ xảy ra, khi tôi tránh được cái bẫy đó?

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3