Tên của đóa hồng - Phần III - Chương 1 - 2
PHẦN 3: NGÀY THỨ BA
Chương 1: TỪ KINH NGỢI KHEN ĐẾN KINH ĐẦU
Berengar biến mất,
tìm thấy một mảnh vải vấy
máu trong phòng,
và chỉ có thế.
Khi viết những dòng này, tôi cảm thấy mệt mỏi, giống như cảm giác trong đêm
hôm đó, hay đúng hơn, trong buổi sáng đó. Biết kể gì đây? Sau Kinh Sớm, Tu viện
trưởng phái hầu hết tu sĩ đi tìm kiếm khắp nơi, nhưng không có kết quả. Ai nấy
đều hoảng hốt.
Gần Kinh Ngợi Khen, trong khi đang lục lạo trong phòng Berengar, một tu sĩ
tìm thấy dưới tấm đệm một mảnh vải trắng vấy máu. Huynh trình cho Tu viện trưởng
và Cha cho đó là một điềm gớm ghiếc nhất. Jorge cũng có đó, và khi người ta kể
lại, bèn hỏi: - Máu à? – như thể việc đó hoàn toàn phi lý. Còn Alinardo thì lắc
đầu, nói:
- Không, không, hồi kèn thứ ba báo hiệu cái chết trong nước…
Thầy William xem xét mảnh vải và nói: - Giờ thì mọi việc đã sáng tỏ.
Họ hỏi thầy: - Berengar đâu?
Thầy đáp: - Tôi không biết. –
Aymaro nghe thầy nói bèn ngước mắt lên trời, thầm thì vào tai Peter xứ Sant’
Albano: - Đúng là dân Anh.
Gần Kinh Đầu, khi mặt trời đã lên
cao, Tu viện trưởng phái tôi tớ đi tìm kiếm ở chân vực đá và quanh vòng tường
ngoài. Đến giờ Kinh Xế Sáng, họ đi về mà không tìm thấy gì cả.
Thầy William bảo chúng tôi cũng
chẳng có thể làm gì hơn nên phải chờ dịp. Đoạn thầy đi đến lò rèn, và nói chuyện
thật lâu với Nicholas, thợ cả ngành kính.
Tôi ngồi trong nhà thờ trong giờ
Kinh lễ, gần bên cửa giữa. Tôi thấy buồn ngủ kinh khủng và đánh một giấc dài,
vì người trẻ dường như cần ngủ nhiều hơn người già. Những người già đã ngủ quá
nhiều và đang chuẩn bị giấc ngủ nghìn thu.
Chương 2: KINH XẾ SÁNG
Trong phòng thư tịch,
Adso suy ngẫm về lịch sử dòng tu của mình,
và số phận của sách vở.
Ra khỏi nhà thờ, tôi thấy đỡ mệt
hơn nhưng đầu óc thì rối mù, chỉ vào ban đêm thân xác mới hưởng được sự nghỉ
ngơi thanh thản thực sự. Tôi lên phòng thư tịch và khi được Malachi cho phép,
tôi bắt đầu giở xem quyển Thư mục. Tôi vừa mở, vừa lơ đãng liếc nhìn các trang
sách, nhưng thực tình tôi đang quan sát các tu sĩ.
Thái độ điềm tĩnh, nghiêm trang của
họ khiến tôi cảm phục. Chăm chú vào công việc của mình, họ như quên rằng một
người anh em của họ đang được tích cực lùng kiếm khắp nơi, và hai người khác đã
mất đi trong cảnh hãi hùng. Tôi tự nhủ, đây chính là sự cao cả của dòng tu
chúng tôi: hàng bao thế kỷ nay những con người như họ đã chứng kiến những bọn
dã man tràn vào vơ vét tu viện, ném vương quốc vào vực thẳm của lửa thiêu, thế
mà họ vẫn ấp ủ bản da, màu mực, vẫn mấp máy đôi môi đọc những hàng chữ đã được
lưu truyền qua nhiều thế kỷ và sẽ được lưu truyền qua nhiều thế kỷ và sẽ được
lưu truyền lại nhiều thế kỷ tiếp nữa. Họ đã mải đọc và chép vào thời hoàng kim
đến; thế sao nay họ lại không tiếp tục nữa?
Mới hôm trước đây, Benno đã nói sẽ
sẵn sàng phạm tội để lấy một quyển sách quý. Huynh ấy không nói dối và cũng chẳng
đùa. Một tu sĩ ắt hẳn yêu sách với lòng khiêm cung, khao khát muốn học được điều
hay, lẽ phải trong sách, chớ không nhằm thỏa mãn lòng hiếu kì của mình. Đối với
người phàm tục, ngoại tình là điều quyến rũ; đối với giới tăng lữ, của cải là
điều họ khao khát, thì đối với các thầy dòng, kiến thức mới chính là điều mê hoặc
họ.
Tôi giở qua những trang Thư mục,
và một rừng tựa sách bí ẩn nhảy múa trước mắt tôi: “Quinti Sereni luận về y học”, “Hiện
tượng”, “Sổ tay của Q. Iulii
Hilarionis về nguồn gốc thế gian”, “Sách
của Aesopi luận về động vật tự nhiên”,…[1]. Thảo nào các án mạng bí ẩn lại
liên quan đến thư viện. Đối với những con người tận tụy sách đèn này, thư viện
vừa là thiên đàng Jerusalem vừa là địa giới nằm trên biên cương giữa Terra
incognita[2] và nấm mồ Hades[3]. Họ bị chế ngự bởi những lời hứa hẹn và cấm
đoán của thư viện. Đời họ gắn với nó, vì nó và có lẽ chống lại nó, âm thầm hi vọng
một ngày nào đó sẽ phá vỡ được các bí mật của nó. Chẳng lạ gì nếu họ đã liều mạng
để thỏa mãn óc hiếu kì, hay đã sát nhân để ngăn không cho ai chiếm được điều
tuyệt mật của chính họ.
[1] ”Quiniti Serini de
medicaments”, “Phaenomena”, “Libellus Q. Iulii Hilarionis de origine mundi”,
“Liber Aesopi de natura animalium”;
[2] Vùng đất hoang hay lãnh
vực chưa được nghiên cứu.
[3] Theo Thánh kinh, đây là
nơi an nghỉ của người chết.
Sự cám dỗ ắt hẳn phải phát sinh từ lòng kiêu hãnh của giới trí thức. Chính
những kiến thức mà các tu viện đã tích lũy này được sử dụng như một thứ hàng
hóa để trao đổi, là lý do phát sinh lòng kiêu hãnh, là cái cớ để khoe khoang và
gây uy tín. Các hiệp sĩ thì phô trương binh giáp cờ xí, còn các Tu viện trưởng
thì phô trương các bản viết ngời sáng. Giờ đây, khi các chủng viện đã mất đi
cái thế lãnh đạo trong ngành học thì tình trạng còn điên rồ hơn thế nữa. Các
trường dòng, phường hội, thành thị, đại học sao chép sách còn giỏi hơn chúng
tôi, họ còn làm ra sách mới, và đây có lẽ là nguyên nhân của nhiều nỗi bất hạnh.
Tu viện này có lẽ không bao giờ huênh hoang về sự ưu việt trong việc tạo ra
các nền học thuật. Nhưng có lẽ vì lý do đó mà các tu sĩ không còn hài lòng với
việc sao chép thiêng liêng nữa. Bị thôi thúc bởi khát vọng về điều tân kì, họ
cũng muốn viết lên những lời ngợi khen mới lạ về tạo hóa. Nhưng họ không nhận
thức rằng, làm như vậy, họ đang khuyến khích sự hủy diệt tính ưu việt của mình
vì nếu nền học thuật mới mà họ muốn gây dựng được luân lưu tự do bên ngoài những
vòng tường này, thì khi đó sẽ chẳng còn sự phân biệt giữa nơi thiêng liêng này
với một trường dòng hay một đại học ở đô thị. Ngược lại, nếu vẫn cô lập thì tu
viện sẽ duy trì được uy tín và uy lực toàn vẹn của nó, nó sẽ không bị đồi bại
hóa bởi các cuộc tranh cãi và lòng kiêu ngạo - lòng kiêu ngạo này sẽ khiến thói
đời soi mói mọi điều huyền bí và cao cả của tu viện. Tôi tự nhủ nguyên nhân của
sự yên lặng và bóng tối bao trùm thư viện chính là việc gìn giữ nền học thuật
này. Nền học thuật này chỉ có thể được duy trì không hề suy suyển, nếu người ta
ngăn không cho mọi người tiếp cận nó, ngay cả các tu sĩ. Học vấn không phải là
đồng bạc cứ mãi nguyên vẹn dù qua bao cuộc bán buôn ô trọc, thực ra nó giống
như một cái áo đẹp, khi mặc hay phô diễn sẽ mòn dần. Một quyển sách không tương
tự như thế sao? Nếu qua nhiều bàn tay, các trang giấy sẽ nhàu nát, mực nhũ sẽ
phai mờ. Tôi thấy Pacificus xứ Tivoli giở một quyển sách xưa, có những trang
dính cứng với nhau vì ẩm ướt. Huynh ấy liếm ngón tay để lật trang, mỗi khi
trang giấy thấm nước bọt, nó trở nên mềm nhũn. Mở sách ra có nghĩa là xếp sách
lại: để cho khí và bụi tha hồ bào mòn các nếp nhuyễn trong bản da và làm mốc
meo những góc trang đã thấm nước miếng. Cũng như sự ngọt ngào thái quá khiến
chiến sĩ yếu mềm và bất lực, óc hiếu kì và sự thích thú chiếm hữu sẽ mở đường
cho bệnh tật tấn công và tiêu diệt cuốn sách.
Thế thì phải làm gì? Thôi đọc sách và chỉ bảo quản nó? Tôi e ngại có đúng
không? Thầy tôi sẽ nói gì?
Cạnh bên, tôi trông thấy Sư huynh viết đề mục, Magnus xứ Iona, vừa mới dùng
đá mài cạo xong một mảnh da bê và đang lấy phấn nhồi nó cho mềm, để rồi sẽ dùng
thước vuốt thẳng nó. Bên cạnh Huynh ấy là Rabano xứ Toledo, sau khi gắn bản da
lên bàn, giờ đang đục những lỗ li ti hai bên lề để dùng bút sắt kẻ những đường
ngang mảnh da. Tôi thầm nghĩ: hai Sư huynh đang trải qua những giờ phút trên
thiên đàng hạ giới, họ làm ra những quyển sách mới giống như những quyển sách
khác mà nhiên hậu sẽ bị thời gian tàn phá... Do đó, thư viện không thể bị một
thế lực trần gian nào đe dọa nó, vì nó là một sinh linh. Nhưng nếu nó đang sống,
tại sao người ta không rộng mở nó để mạo hiểm đón nhận kiến thức? Có phải đó là
điều Benno muốn và có lẽ Venantius cũng đã muốn?
Tôi cảm thấy hoang mang và sợ hãi chính suy nghĩ của mình. Có lẽ tư duy này
không thích hợp với một tu sinh, một người phải mãi mãi nghiêm túc và khiêm tốn
theo Giáo Luật. Về sau, tôi thực hiện điều đó trong khi quanh tôi thế gian chìm
đắm ngày càng sâu hơn vào cơn bão máu và cuồng loạn.
Đã đến giờ ăn trưa. Tôi vào bếp và được cho những miếng ngon nhất, vì bây
giờ tôi đã trở thành bạn của những người nấu nướng.