Tên của đóa hồng - Phần II - Chương 2

Chương 2: KINH ĐẦU

Benno thổ lộ một số điều,

Berengar thổ lộ một số điều
khác

và Adso học được ý nghĩa

của việc thực sự sám hối.

Sự kiện rùng rợn vừa rồi làm chấn động cuộc sống của dòng tu. Cảnh hỗn loạn
khi phát hiện xác chết làm gián đoạn buổi thánh lễ. Tu viện trưởng lập tức điều
động các tu sĩ về khu hát kinh để nguyện cầu cho linh hồn người tu sĩ anh em xấu
số. Giọng của các tu sĩ nghẹn ngào. Thầy trò tôi chọn một chỗ ngồi để có thể
quan sát được tất cả gương mặt mọi người khi nghi thức không đòi hỏi phải sụp
mũ xuống. Tức thì, chúng tôi trông thấy gương mặt Berengar. Nó tái xanh, cau có
và đẫm mồ hôi.

Sát bên y, chúng tôi để ý đến Malachi. Gương mặt ông u tối, suy tư, trầm
tĩnh. Kế Malachi, cũng trầm tư như thế là gương mặt của tu sĩ mù Jorge. Mặt
khác, chúng tôi quan sát thấy Benno - học giả hùng biện mà chúng tôi đã gặp hôm
trước tại phòng thư tịch - Huynh ấy có vẻ bồn chồn, liếc vội về phía Malachi.
Thầy William nói: - Benno thì bồn chồn, Berengar thì sợ hãi, phải thẩm vấn họ
ngay.

- Tại sao?

- Việc của chúng ta rất khó khăn. Đó là việc gian nan của một phán quan phải
đánh vào kẻ yếu đuối nhất và vào chính lúc họ cảm thấy yếu đuối nhất.

Ngay khi vừa tan lễ, chúng tôi đuổi theo Benno, lúc y đang trực chỉ thư viện.
Người tu sĩ trẻ này dường như bực mình khi nghe thầy William gọi, nên lẩm bẩm
thoái thác xin cáo phải đi làm việc ngay. Dường như Huynh ấy đang vội đi đến
phòng thư tịch. Thầy tôi lưu ý Huynh ấy rằng, thầy đang tiến hành điều tra theo
mệnh lệnh của Tu viện trưởng, rồi đưa Benno vào nhà dòng. Chúng tôi ngồi lên bức
tường giữa hai cây cột nhìn về phía Đại Dinh. Benno đợi thầy tôi nói trước.

- Này nhé, thế vào ngày Huynh thảo luận các tranh minh họa bên lề Thánh thư
của Adelmo với Berengar, Venantius, Malachi và Jorge, mọi người đã nói gì?

- Hôm qua, Huynh đã nghe rồi đó, Jorge bảo rằng sử dụng các hình ảnh lố bịch
để trang trí những quyển sách chứa đựng sự thực là không đúng đắn. Venantius nhận
xét rằng, chính Aristotle đã nói về những lối nói dí dỏm và những cách chơi chữ
như những công cụ có khả năng bộc lộ sự thực hay hơn; do đó, tiếng cười không
thể là một điều xấu, nếu nó có thể trở thành một phương tiện diễn đạt sự thực.
Jorge bảo rằng Huynh ấy nhớ rằng Aristotle đã viết về điều này trong tác phẩm
“Thi ca”[22] khi bàn luận về phép ẩn dụ. Và chính trong những điều này, có hai
sự kiện rắc rối: thứ nhất, vì tác phẩm “Thi ca” từ lâu vốn đã không được lưu
truyền trong xứ đạo, đã được người Maroc vô thần mang đến cho chúng ta…

[22] “Poetics”

- Nhưng sách đó đã được một người bạn của bác sĩ thánh thiện Aquino dịch ra
tiếng La tinh.

- Đó là điều tôi đã nói với Huynh ấy. - Benno phấn khởi thốt lên - Tôi đọc
tiếng Hy Lạp rất tệ, nên chỉ có thể nghiên cứu quyển sách đó qua bản dịch của
William xứ Moerbeke. Vâng chính tôi đã nói thế. Nhưng Jorge nói thêm rằng,
nguyên nhân gây rắc rối thứ hai là do trong quyển sách đó, con người xứ
Stragira[23] đã viết về thi ca, một giáo điều thấp hèn và tồn tại trong những lời
bịa đặt. Venantius bảo các bài thánh ca cũng là những bài thơ sử dụng phép ẩn dụ,
và Jorge bèn nổi giận vì Huynh ấy cho rằng thánh ca là các công trình của Thánh
ý, và phép ẩn dụ được sử dụng để miêu tả sự thực. Trong khi đó, các bài thơ của
các thi sĩ đa thần lại sử dụng phép này để diễn đạt sự giả dối, nhằm mục đích
giải trí thuần túy, một nhận xét hết sức xúc phạm đến tôi…

[23] Quê hương của
Aristotle, ám chỉ ông.

- Tại sao?

- Vì tôi đang nghiên cứu tu từ học, tôi đã đọc nhiều nhà thơ đa thần, và
tôi biết… hay tin rằng lời lẽ của họ cũng miêu tả các sự thật hiển nhiên còn
hơn là người Thiên Chúa. Nói tóm lại, lúc đó, nếu tôi vẫn còn nhớ rõ, Venantius
nói về những quyến sách khác, và Jorge nổi giận đùng đùng.

- Những quyển sách nào?

Benno lưỡng lự. - Tôi không nhớ rõ. Sách nào thì có quan trọng gì?

- Rất quan trọng, vì tại nơi đây, chúng tôi đang cố tìm hiểu chuyện gì đã xảy
ra trong những con người sống giữa sách vở, với sách vở và từ sách vở; do đó,
nhận định của họ về sách vở nhất thiết phải quan trọng.

Lần đầu tiên Benno mỉm cười, khuôn mặt gần như rạng ngời lên. - Đúng đấy,
chúng tôi chỉ sống về sách vở. Một nhiệm vụ đẹp đẽ trong thế giới hỗn loạn và
hư đốn này. Như thế, có thể Huynh sẽ hiểu được những điều đã xảy ra vì lẽ đó.
Venantius, người rất giỏi tiếng Hy Lạp, nói rằng Aristotle đã dành riêng tập thứ
hai của tác phẩm “Thi ca” để viết về tiếng cười. Nếu một triết gia vĩ đại như
thế đã viết cả một quyền sách về tiếng cười, thì tiếng cười hẳn phải quan trọng
chứ. Jorge bảo rằng, nhiều Cha đã dành trọn những quyển sách viết về tội lỗi,
điều đó quan trọng nhưng xấu xa. Venantius bảo, theo Huynh ấy còn nhớ,
Aristotle đã nói về tiếng cười như một điều thiện, một công cụ của sự thật. Thế
rồi, Jorge khinh miệt hỏi xem Huynh ấy từng đọc quyển sách đó của Aristotle
chưa, Venantius đáp rằng chẳng có ai đọc được quyển sách đó cả, vì không ai tìm
ra nó, và có lẽ nó đã thất lạc mất tiêu rồi. Thật vậy, William xứ Moerbeke cũng
chưa hề cầm đến nó. Đoạn Jorge bảo, nếu chưa ai tìm ra quyển sách đó, thì chính
vì nó chưa hề được viết ra, và vì Đức Chúa trời không muốn làm vinh quang những
chuyện phù phiếm. Tôi muốn xoa dịu mọi người, vì tính Jorge rất nóng, còn
Venantius thì cố tình chọc giận Huynh ấy. Tôi bèn nói rằng, trong những đoạn của
tác phẩm “Thi ca” mà chúng tôi có biết, cũng như trong quyển “Tu từ học”[24],
có rất nhiều lời nhận xét khôn ngoan về các câu đố. Venantius nhất trí với tôi.
Bây giờ, Pacificus cũng về phe chúng tôi, Huynh ấy biết rất rõ những nhà thơ đa
thần và bảo rằng, nói về các câu thơ dí dỏm thì không ai có thể giỏi hơn các
thi sĩ Phi Châu. Huynh ấy có dẫn ra một câu đố về cá của Symphosius:

Nhà ở trên trái đất, lời đã
bộc lộ rõ ràng

Chính nhà ấy đã ngân vang,
nhưng khách yên lặng không lên tiếng

Cả hai cùng chạy, khách cùng
lúc với nhà.

[24] “Rhetoric”

Đến lúc này, Jorge bèn bảo Chúa Kitô đã mong chúng ta chỉ nói hoặc là “có”,
hoặc là “không”, và bất kì kiểu nói nào khác đều xuất phát từ Quỷ dữ, muốn chỉ
“cá” thì chỉ cần nói “cá” là đủ rồi, chớ không cần che giấu khái niệm đó dưới
âm thanh lừa lọc. Đoạn Huynh ấy tiếp rằng Huynh không nghĩ rằng, việc lấy các nhà
thơ Châu Phi làm mẫu mực là khôn ngoan đâu… Và rồi thì…

- Rồi thì sao?

- Rồi có một việc xảy ra mà tôi không hiểu, Berengar phá lên cười. Jorge mắng
Berengar, và Berengar bảo mình cười vì theo Huynh, nếu người ta tìm kiếm kĩ lưỡng
trong số các nhà thơ Châu Phi, thì sẽ tìm thấy các câu đố hoàn toàn khác nhau,
không dễ dàng như câu đố về cá ban nãy đâu. Malachi có mặt lúc đó, bèn nổi giận
nắm lấy mũ của Berengar và tống Huynh ấy về nơi làm việc của mình… Berengar,
Huynh biết đấy, là phụ tá của Malachi…

- Và sau đó?

- Sau đó, Jorge chấm dứt cuộc tranh luận bằng cách bỏ đi. Tất cả chúng tôi
bèn quay về công việc của mình nhưng trong khi tôi đang làm việc, tôi trông thấy,
đầu tiên là Venantius, rồi đến Adelmo, tiến đến chỗ Berengar và hỏi Huynh ấy điều
chi đó. Từ đằng xa, tôi thấy Berengar đang lảng tránh các câu hỏi của họ, nhưng
nội trong ngày đó, cả hai quay lại tìm hắn. Và rồi buổi tối hôm đó, tôi thấy
Berengar và Adelmo nói chuyện với nhau trong nhà dòng, trước khi vào phòng ăn.
Thế đấy, đó là tất cả những gì tôi biết.

Thầy William nói: - Như thế, Huynh có biết rằng hai người vừa chết một cách
bí ẩn đều đã hỏi Berengar một điều chi đó.

Benno bối rối đáp: - Tôi không nói như thế! Tôi kể Huynh nghe những gì đã xảy
ra hôm đó, vì Huynh yêu cầu tôi… - Huynh ấy suy nghĩ một lát và vội tiếp -
Nhưng nếu Huynh muốn biết ý kiến của tôi thì nó như thế này, Berengar nói với họ
về một vật gì đó trong thư viện, và đó là nơi Huynh cần tìm kiếm.

- Tại sao Huynh lại nghĩ đến thư viện? Berengar có ý muốn nói gì về việc
tìm kiếm trong số những nhà thơ Châu Phi? Có phải Huynh ấy muốn nói rằng cần đọc
họ rộng rãi hơn chăng?

- Có thể. Dường như là như vậy. Thế nhưng tại sao Malachi lại nổi giận chứ?
Dẫu sao, chính Huynh ấy là người quyết định xem có nên đưa một tập thơ của các
thi sĩ Châu Phi cho chúng tôi đọc hay không? Nhưng tôi biết một điều: Bất kì ai
giở qua tập danh mục sách sẽ thường thấy, trong số các ký hiệu mà duy chỉ Quản
thư viện mới hiểu được, một ký hiệu đề “Châu Phi”. Tôi thậm chí đã tìm thấy một
ký hiệu đề “Tận cùng Châu Phi” (finis Africae). Có một lần tôi hỏi mượn quyển
sách mang ký hiệu đó, tôi không nhớ quyển nào, dù tựa sách rất khêu gợi óc hiếu
kì của tôi. Và Malachi bảo các sách mang ký hiệu đó đã bị mất! Đó là điều tôi
biết. Vì thế nên tôi bảo Huynh đúng, hãy để ý đến Berengar và kiểm tra khi nào
Huynh ấy lên thư viện, không ai có thể ngờ được đâu.

- Không ai có thể ngờ được. - Thầy William kết luận và cho phép Huynh ấy
lui. Đoạn thầy bắt đầu đi dạo với tôi trong nhà dòng và nhận xét: trước tiên,
Berengar là đề tài cho các tu sĩ anh em xầm xì; kế đến; Benno có vẻ nôn nóng muốn
hướng chúng tôi về phía thư viện. Tôi thấy rằng có lẽ Huynh ấy muốn chúng tôi
khám phá những điều mà Huynh ấy cũng muốn biết. Thầy tôi bảo có thể là như vậy,
nhưng cũng có thể trong khi hướng chúng tôi về phía thư viện, Huynh ấy muốn
chúng tôi đừng để ý đến một nơi nào khác. Tôi hỏi nơi nào, thầy bảo không biết,
có lẽ là trong phòng thư tịch, có lẽ là nhà bếp, khu hát kinh, nhà nghỉ hay bệnh
xá. Tôi thưa rằng, hôm trước, chính thầy đã bị thư viện quyến rũ, và thầy nói rằng
thầy muốn được quyến rũ bởi những nơi thầy đã chọn, chớ không phải bởi những
nơi mà các người khác đã khuyên thầy. Nhưng cần phải quan sát thư viện, và ngay
lúc này, việc đột nhập vào đó cũng là một ý hay. Hoàn cảnh hiện tại đã cho phép
thầy tò mò, trong khuôn khổ tôn trọng các tập tục và luật lệ của tu viện. Chúng
tôi rời nhà dòng. Các tu sinh và những người giúp việc đang từ nhà thờ đi ra
sau khi tan lễ. Khi chúng tôi men theo mạn Tây của nhà thờ, chúng tôi chợt thấy
Berengar đang từ trong cánh cửa ngang bước ra, rồi băng qua nghĩa trang. Thầy
William gọi. Huynh ấy dừng lại, nên chúng tôi bắt kịp. Thậm chí Huynh ấy trông
còn thê thảm hơn khi chúng tôi thấy trong khu hát kinh, và thầy William hiển
nhiên quyết khai thác tình trạng tinh thần này như thầy đã từng làm với Benno.
Thầy nói:

- Dường như Huynh là người cuối cùng gặp Adelmo còn sống.

Berengar lảo đảo, dường như muốn ngất đi:

- Tôi ư? - Huynh ấy yếu ớt hỏi, vì thầy tôi đặt câu hỏi đó như thể tình cờ,
có lẽ vì Benno đã kể thầy nghe việc hai người nói chuyện với nhau trong nhà
dòng sau Kinh chiều. Câu hỏi hẳn đã bắn trúng đích, và Berengar rõ ràng đang
nghĩ đến một buổi gặp gỡ khác, chắc là buổi gặp gỡ cuối cùng, vì thế Huynh ngập
ngừng cất giọng:

- Sao Huynh lại nói thế? Tôi không hề trông thấy Huynh ấy trước khi đi ngủ,
cũng như tất cả mọi người khác.

Thầy William bèn gây sức ép ngay, quyết không buông tha. - Không. Huynh còn
gặp Huynh ấy sau đó nữa và Huynh biết rõ nhiều điều mà không muốn thú nhận. Ở
đây đã xảy ra hai cái chết rồi, nên Huynh không thể yên lặng được nữa. Huynh thừa
hiểu rằng, có nhiều cách để buộc người ta nói chứ.

Thầy William thường bảo tôi rằng, ngay khi thầy còn là phán quan, thầy đều
tránh sử dụng hình thức tra tấn: nhưng Berengar đã hiểu nhầm ý thầy. Dẫu sao,
đó là một phương thức hữu hiệu. Berengar nói, rồi bật khóc thổn thức. - Vâng,
vâng, tôi đã gặp Adelmo đêm đó, nhưng tôi đã thấy khi Huynh ấy đã chết rồi…

- Thế nào? Tại chân đồi à?

- Không, không. Tôi gặp Huynh ấy tại nghĩa trang này. Huynh ấy đang đi giữa
những nấm mồ, một hồn ma giữa những hồn ma. Tôi nhận ra Huynh ấy và biết ngay rằng,
trước mắt tôi không phải là một người sống nữa; Huynh ấy mang bộ mặt của một
xác chết, đôi mắt lắng đọng một sự trừng phạt vĩnh cửu. Dĩ nhiên, mãi đến sáng
hôm sau, khi hay tin Huynh ấy đã chết, tôi mới hiểu ra rằng tôi đã gặp một hồn
ma; nhưng ngay lúc ấy, tôi biết tôi đang trông thấy ảo ảnh và trước mắt tôi là
một linh hồn bị đọa đày. Chúa ơi, giọng Huynh ấy nói với tôi lạnh lẽo, âm u làm
sao!

- Và Huynh ấy đã nói gì?

- “Tôi bị đọa đày”. Huynh
ấy đã nói với tôi như thế, “như
Huynh thấy đây, tôi là một kẻ trở về từ địa ngục, rồi tôi sẽ phải trở lại địa
ngục.”
Huynh ấy nói với tôi như thế, và tôi la lên: “Adelmo, Huynh thực trở về từ địa ngục sao?
Nỗi thống khổ ở địa ngục như thế nào?”
Tôi run bần bật, vì vừa tan
Kinh Tối, trong buổi lễ đó tôi vừa nghe những trang kinh khủng khiếp về cơn thịnh
nộ của Thượng đế, thế rồi Huynh ấy lại nói với tôi: “Nỗi thống khổ muôn vàn to tát hơn chúng ta có thể diễn tả. Huynh có thấy
bộ lốt giả dối mà tôi vẫn mặc cho đến nay chứ? Nó siết chặt tôi, đè nặng trĩu
trên người tôi, như thể ngọn tháp cao nhất ở Paris hay ngọn núi cao nhất thế giới
đang đè trên lưng tôi, mà tôi không bao giờ có thể đặt nó xuống được nữa. Công
lý thiêng liêng biết tôi đang chịu nỗi khổ này để trừng phạt tính kiêu hãnh của
tôi, vì tôi tin thân thể mình là nơi đón nhận lạc thú, vì tôi nghĩ mình biết
nhiều hơn người khác, vì tôi đã khoái trá những thứ quái đản, đó là những thứ bấy
lâu được ấp ủ trong trí tưởng tượng của tôi, làm sinh ra trong tâm hồn tôi nhiều
thứ còn quái đản hơn nữa. Thế nhưng, giờ đây tôi phải cùng sống với chúng nơi
vĩnh cửu. Huynh nhìn thấy lớp vải lót của chiếc áo dòng này chứ? Nó như thể
toàn bằng than hồng và lửa đỏ rực, và chính lửa này đang đốt cháy thân thể tôi,
và tôi phải chịu sự trừng phạt này, bởi tội lỗi xấu xa của xác thịt tôi hằng
nuôi dưỡng. Ngọn lửa này không ngừng thiêu đốt tôi! Xin đưa tay cho tôi, hỡi
người thầy đẹp trai.”
Huynh ấy lại còn nói thêm: “Cuộc gặp gỡ này có thể là một bài học hữu ích để đổi lại nhiều bài học
mà thầy dạy tôi. Hãy đưa tay đây, hỡi người thầy đẹp trai của tôi.”
Huynh ấy
lắc lư ngón tay trong bàn tay nóng bỏng của mình và giọt mồ hôi nhỏ bé của
Huynh ấy rơi xuống bàn tay tôi, như thể đâm suốt qua tay tôi. Tôi mang dấu vết
đó nhiều ngày, nhưng có điều tôi giấu hết thảy mọi người. Rồi Huynh ấy biến mất
vào các nấm mồ. Sáng hôm sau, tôi được biết rằng con người đêm trước đã khiến
tôi vô cùng kinh hãi, giờ đây đã chết ở chân vực đá.

Berengar nghẹn ngào khóc. Thầy
William hỏi:

- Thế tại sao Huynh ấy lại gọi
Huynh là “người thầy đẹp trai của
tôi”
? Cả hai Huynh đều đồng tuổi nhau, Huynh đã dạy Huynh ấy điều gì vậy?

Berengar cúi đầu, kéo mũ trùm mặt
và quỳ xuống ôm lấy chân thầy William… - Tôi không biết tại sao Huynh ấy lại gọi
tôi như thế? Tôi chẳng hề dạy Huynh ấy điều chi cả. - Rồi Berengar thổn thức –
Con sợ quá, Cha ơi! Con muốn xưng tội với Cha. Xin Cha hãy khoan dung, quỷ đang
nuốt sống lòng ruột con!

Thầy William đẩy Berengar ra, đưa
tay kéo Huynh ấy đứng dậy và bảo: - Không, Berengar ạ! Chớ yêu cầu tôi nghe lời
xưng tội. Đừng mở miệng Huynh để khóa miệng tôi. Điều tôi muốn nghe, Huynh sẽ kể
cho tôi nghe bằng cách khác, chớ không phải qua lời xưng tội. Nếu Huynh không kể,
tôi sẽ tự tìm hiểu lấy. Yêu cầu tôi khoan dung, nếu Huynh thích, nhưng chớ yêu
cầu tôi im lặng. Vì trong tu viện này có quá nhiều người im lặng rồi. Tốt hơn,
hãy nói cho tôi biết bằng cách nào Huynh thấy được gương mặt xanh xao của Huynh
ấy, nếu đó là một đêm tối như mực? Làm thế nào Huynh ấy đốt cháy tay Huynh, nếu
đó làm một đêm tuyết rơi? Và lúc đó Huynh đang làm gì trong nghĩa trang? Nói
đi! Ít nhất Huynh hãy nói cho tôi biết điều này! – Thầy William nắm vai
Berengar lắc một cách tàn nhẫn.

Toàn thân Berengar run lẩy bẩy. –
Tôi không biết lúc ấy tôi đang làm gì ở trong nghĩa trang. Tôi không nhớ, tôi
không biết tôi trông thấy gương mặt Huynh ấy bằng cách nào? Có lẽ tôi có một ngọn
đèn. Không… đúng hơn, Huynh ấy có một ngọn đèn và có lẽ tôi trông thấy bộ mặt
nhờ ánh lửa…

- Làm thế nào Huynh ấy có thể
mang đèn được nếu lúc ấy tuyết đang rơi?

- Lúc ấy là sau Kinh Tối. Ngay sau Kinh Tối, trời chưa đổ tuyết, mãi về sau
tuyết mới rơi… Tôi nhớ những bông tuyết đầu tiên rơi xuống, khi tôi chạy về
phía nhà nghỉ. Tôi chạy về phía nhà nghỉ thì bóng ma chạy ngược lại… và sau đó
tôi không biết gì thêm nữa. Xin đừng hỏi tôi nữa, nếu Huynh không cho tôi xưng
tội.

- Rất tốt, đi đi, vào khu hát kinh đi. Hãy xưng tội với Thượng đế, vì Huynh
sẽ không nói với người phàm tục hay đi tìm một tu sĩ chịu nghe Huynh xưng tội.
Nếu từ lúc đó đến nay Huynh chưa xưng tội thì Huynh đã phạm thánh rồi đó. Đi
đi, sẽ gặp lại nhau sau.

Berengar chạy mất dạng. Thầy William chà xát hai bàn tay vào nhau – một cử
chỉ tôi thường thấy trong những dịp thầy hài lòng điều gì.

- Tốt! Bây giờ nhiều điều đã bắt đầu sáng tỏ.

- Sáng tỏ ư, thưa thầy? Sáng tỏ vì giờ đây chúng ta lại có thêm hồn ma
Adelmo chăng?

- Adso thân yêu của thầy. Hồn ma
đối với thầy chẳng có gì ma quái lắm. Dẫu sao đi nữa, Huynh ấy đã đọc một trang
sách mà ta từng đọc trong một quyển sách nào đó, viết cho các nhà thuyết giáo sử
dụng. Có lẽ những tu sĩ đó đọc quá nhiều nên khi đầu óc họ bị kích động, các
hình ảnh họ đã đọc được trong sách vở hiện ra. Thầy không biết Adelmo có thực sự
nói những lời đó không, hay Berengar đã nghe thấy những lời đó, vì Huynh ấy muốn
nghe chúng. Điều cốt yếu là câu chuyện này đã khẳng định một loạt các giả thuyết
của thầy. Chẳng hạn, Adelmo tự tử chết, và câu chuyện Berengar cho thầy biết rằng
trước khi chết, Huynh ấy đã đi lòng vòng, loanh quanh vì hoảng loạn, và vì ăn
năn đã trót phạm một tội lỗi nào đó. Huynh ấy hoảng loạn về một tội lỗi của
mình, vì có ai đó đã đe dọa Huynh, và có lẽ đã kể cho Huynh ấy nghe chính câu
chuyện về những bóng ma quỷ quái mà Huynh ấy đã đọc cho Berengar nghe với giọng
sành sỏi, đầy ảo giác như vậy. Và Huynh ấy đi qua nghĩa trang khi vừa rời khu
hát kinh, nơi mà Huynh ấy đã xưng tội với một người nào đó; người đó đã khiến
Huynh ấy tràn đầy kinh sợ và ăn năn. Từ nghĩa trang, Huynh ấy trực chỉ về hướng
đối diện nhà nghỉ, đúng như Berengar đã báo cho chúng ta biết. Thế thì về hướng
Đại Dinh nhưng cũng có thể về phía bức tường, ngoài dãy chuồng ngựa, nơi thầy
đã suy đoán rằng Huynh ấy lao mình xuống vực. Huynh ấy đã lao mình xuống trước
khi cơn bão nổi lên, rồi chết dưới chân tường, và sau đó đất mới bị lở, cuốn
theo xác Huynh ấy đến khoảng giữa ngọn tháp phía bắc và ngọn tháp phía tây.

- Nhưng còn giọt mồ hôi nóng bỏng
thì sao?

- Đó là một phần câu chuyện
Berengar đã nghe lặp lại, hay Huynh ấy đã tưởng tượng ra điều đó trong cơn hoảng
loạn. Vì, như một điệp khúc lặp lại, sự ăn năn của Adelmo là sự ăn năn của
Berengar, con đã nghe rồi đấy. Nếu Adelmo từ khu hát kinh đến, Huynh ấy có thể
mang theo một ngọn nến nhỏ, và giọt mồ hôi trên bàn tay Huynh ấy chỉ là một giọt
sáp. Nhưng Berengar cảm thấy giọt sáp cháy sâu hơn vì Adelmo đã gọi Huynh ấy là
thầy. Đó là một dấu hiệu cho thấy Adelmo đang trách móc Berengar, đã dạy cho
Huynh ấy một điều gì đó, đẩy Huynh ấy đến chỗ tuyệt vọng muốn chết. Và Berengar
biết điều đó, nên Huynh ấy đau khổ vì biết đã đẩy Adelmo đến cái chết, bằng
cách khiến Adelmo làm một việc gì đó đáng lý ra không được làm… và tưởng tượng
ra điều đó, cũng không khó khăn gì Adso ơi, sau khi chúng ta đã nghe những điều
về viên phụ tá quản thư viện của chúng ta.

- Con tin mình đã hiểu điều đã xảy
ra giữa hai người, – tôi nói, bối rối vì chính điều mình biết – Nhưng chẳng lẽ
tất cả chúng ta lại không tin vào Chúa khoan dung sao? Thầy bảo có lẽ Adelmo đã
xưng tội, tại sao Huynh ấy lại tìm cách trừng phạt tội lỗi của mình bằng một tội
nặng hơn, hay ít ra cũng nghiêm trọng tương đương?

- Vì có ai đó đã nói với Huynh ấy
những lời tuyệt vọng. Như thầy đã nói, một trang sách của một nhà thuyết giáo
hiện đại nào đó hẳn đã thúc đẩy ai đó lặp lại những lời đã khiến Adelmo kinh sợ
và Adelmo lại dùng những lời đó để khiến Berengar kinh sợ theo. Trong vài năm gần
đây, khác hẳn trước kia, để khơi dậy lòng kính đạo, nhiệt tâm và sự kinh hoàng,
sự tuân thủ luật đạo và luật đời trong quần chúng, các nhà thuyết giáo đã dùng
những lời buồn thảm và đe dọa khủng khiếp.

- Có lẽ đó là điều cần thiết cho
sự ăn năn.

- Adso ạ, xưa nay thầy chưa hề
nghe nhiều lời kêu gọi ăn năn như hiện giờ. Trong một thời đại mà các nhà thuyết
giáo, lẫn giám mục, thậm chí các tu sĩ dòng Thánh thần anh em của ta, đều không
có khả năng khơi dậy sự ăn năn chân thực nữa…

- Nhưng còn thời đại thứ ba, Đức
Thánh Cha và Đại hội xứ Perugia… - tôi hoang mang nói.

- Lại hoài niệm. Thời hoàng kim của
sự ăn năn đã qua rồi. Đừng tin vào công cuộc đổi mới của nhân loại khi bọn lãnh
đạo Giáo hội và triều đình nói về sự đổi mới đó.

Tôi đánh bạo nói, tò mò muốn biết
thêm về cái tên hôm qua tôi nghe nhắc đến nhiều lần. – Thế còn Fra Dolcino…

- Ông ta chết, và chết thảm
thương như khi còn sinh thời, vì ông ta cũng đã đến quá trễ. Thế con biết gì về
ông ấy?

- Con chả biết gì cả nên con mới
hỏi thầy…

- Thầy chả bao giờ muốn nói về
ông ấy. Đó là một câu chuyện buồn về một kẻ làm những điều điên rồ, vì đã thực
hành những gì mà rất nhiều vị thánh đã thuyết giảng. Điều thầy thật sự muốn nói
đến là: Khi thời đại của sự ăn năn đã qua, đối với người ăn năn, nỗi tha thiết
hối lỗi trở thành nỗi tha thiết được chết. Những kẻ giết người, ăn năn điên loạn,
lấy mạng đổi mạng, nhằm đánh bại sự ăn năn chân thực mà hậu quả sẽ sản sinh
thêm chết chóc, thay thế sự ăn năn tâm hồn bằng sự ăn năn tưởng tượng, cùng những
lời lẽ gợi lên ảo ảnh siêu nhiên đầy máu me thống khổ.

Họ gọi chúng là “tấm gương” của sự
ăn năn chân thật, một tấm gương mà đối với trí tưởng tượng của người thường, và
thậm chí đôi khi của các bậc học giả nữa, mang đến cho cuộc sống nỗi đau của địa
ngục. Do đó, người ta nói, sẽ không có ai phạm tội nữa. Họ hi vọng dùng nỗi sợ
hãi để giữ linh hồn khỏi phạm tội và tin rằng sẽ dùng nỗi sợ hãi để thay thế sự
nổi loạn.

- Thế nhưng, họ thực sự sẽ không
phạm tội à?

- Điều đó tùy thuộc quan niệm của
con về sự phạm tội, Adso ạ. Thầy không muốn có định kiến đối với những người
dân xứ này, cái xứ mà thầy đã trải qua vài năm sinh sống. Nhưng theo thầy, đạo
đức khiêm tốn của dân Ý có đặc tính tiêu biểu là kiêng phạm tội vì sợ hãi một
thần tượng nào đó, mặc dầu họ có thể đặt cho thần tượng đó một tên thánh. Họ sợ
Thánh Sebastian hay Thánh Antoine hơn Chúa.

Tôi nêu rõ: - Nhưng Berengar
không phải người Ý!

- Thì có khác gì đâu? Thầy đang
nói đến cái bầu không khí mà Giáo hội và các luật lệ thuyết giảng đã tỏa tràn
trên bán đảo này, và từ đây tràn đến khắp nơi. Thậm chí nó đã tràn đến một tu
viện đáng kính của các tu sĩ thông thái như ở dây.

Tôi nhấn mạnh, vì duy nhất điều
này mới thỏa mãn được tôi. – Giá như họ đừng phạm tội nhỉ! - Giả sử tu viện này
là một thế giới đặc biệt, hẳn con đã có câu trả lời.

- Nhưng phải chăng nó là một thế
giới đặc biệt?

- Để có một tấm gương cho thế
gian, thế gian cần có một hình thể, - thầy William kết luận.

Thầy là một người quá triết lý đối
với tâm trí còn non trẻ của tôi.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3