Tên của đóa hồng - Phần I - Chương 5
Chương 5
KINH CHIỀU
Thăm phần còn lại của tu viện.
William đi đến vài kết luận
về cái chết của Adelmo.
Cuộc nói chuyện với Sư huynh ngành kính
về kính đọc sách và những bóng ma
cho những ai tìm đọc quá nhiều
Lúc ấy, chợt nổi lên hồi chuông
báo Kinh Chiều, các tu sĩ bèn sửa soạn rời bàn làm việc. Malachi nói thẳng rằng
chúng tôi cũng phải đi xuống. Ông ta sẽ phải ở lại với viên phụ tá Berengar để
dọn dẹp đồ đạc và sắp xếp lại thư viện. Thầy William hỏi xem ông ta có đóng cửa
không.
- Không có cánh cửa nào từ nhà bếp
và nhà ăn ngăn không cho vào phòng thư tịch, hoặc từ phòng thư tịch ngăn không
cho vào thư viện. Lệnh cấm của Tu viện trưởng phải mạnh hơn bất kì cánh cửa nào.
Các tu sĩ cần dùng cả nhà bếp lẫn nhà ăn cho đến Kinh Tối. Đến khi đó, để ngăn
những người ngoài hay súc vật vào Đại Dinh, tự tay tôi sẽ khóa các cửa phía
ngoài dẫn vào nhà ăn hay nhà bếp, và từ giờ đó trở đi, không ai được léo hánh đến
Đại Dinh nữa.
Chúng tôi xuống lầu, khi các tu
sĩ trực chỉ về phía ca đoàn. Thầy tôi bảo Chúa sẽ tha thứ cho chúng tôi tội
không dự Thánh lễ, và đề nghị tôi đi dạo với thầy một lát trong khuôn viên để
làm quen với địa thế ở đây.
Thời tiết xấu đi. Một cơn gió lạnh
nổi lên, sương mù giăng dày đặc. Thấp thoáng bóng mặt trời lặn bên kia khu vườn
rau. Ở phía đông, trời đã sụp tối. Chúng tôi đi về hướng đó, men theo khu ca
đoàn của nhà thờ đến phía sau khu đất. Hầu như sát với bức tường ngoài, tại nơi
giáp với ngọn tháp phía đông
của Đại Dinh, là chuồng heo. Những người nuôi heo đang đậy cái vại lớn đựng tiết
heo. Chúng tôi để ý thấy phía sau dãy chuồng heo, bức tường được xây thấp hơn.
Do đó, người ta có thể nhìn qua nó được. Bên ngoài bức tường thẳng đứng, mặt đất
lao xuống, được bao phủ bởi lớp cát bụi rời rã mà tuyết không lấp hết được. Tôi
nhận ra đây là đống bụi rơm cũ bị ném ra ngoài tại khúc tường này và cuốn dạt
đi cho đến khúc ngoặt bắt đầu con đường mòn mà chú ngựa Brunellus đã đi. Trong
các chuồng ngựa kế bên, các người chăn ngựa đang dẫn ngựa đến máng ăn. Về phía
trái, quay lưng về khu ca đoàn, là dãy nhà của các tu sĩ, và dãy nhà xí. Tại
nơi bức tường phía đông quay
về hướng bắc, ngay tại góc
vòng đai đá, là lò rèn. Những người thợ rèn cuối cùng đang hạ đồ nghề xuống, dập
lửa, để sửa soạn đi lễ. Thầy William tò mò đi về hướng một góc lò rèn, hầu như
tách biệt hẳn khỏi khu làm việc, nơi một tu sĩ đang cất dọn đồ đạc. Trên mặt
bàn của ông có một bộ sưu tập các mảnh thủy tinh xưa bé tí có nhiều màu sắc rất
đẹp: còn các loại lớn hơn được gắn lên tường. Trước mặt ông là một chiếc hộp
đang làm dở, mới hình thành bộ khung bằng bạc. Nhưng trên đó, ông đang đính vào
các mảnh thủy tinh và đá đã được đẽo gọt thành những viên có hình dạng như ngọc.
Thế là tôi đã gặp Nicholas xứ Morimondo,
người thợ cả của ngành Thủy tinh ở tu viện. Ông giải thích với chúng tôi rằng
phía sau khu lò rèn, họ cũng có thổi thủy tinh; trong khi đó, ở khu trước dành
cho thợ rèn, người ta gắn kính để làm cửa sổ. Ông còn nói tiếp rằng, những công
trình vĩ đại bằng kính màu dùng để trang trí nhà thờ và Đại Dinh đã được hoàn tất
cách đây hai thế kỷ. Hiện nay, công việc của ông và các cộng sự khác chỉ thu hẹp
trong những thứ lặt vặt và sửa chữa các chỗ bị thời gian tàn phá. Ông giải
thích tiếp:
- Và hết sức khó khăn, vì không
thể tìm được những kính màu ngày xưa, đặc biệt là kính màu xanh tuyệt diệu mà
Huynh thấy trong khu ca đoàn. Nó trong đến nỗi khi mặt trời lên cao, nó đổ xuống
một luồng sáng từ thiên đàng vào gian giữa nhà thờ. Ở phía tây của gian giữa
kính mới được tu bổ đây, nhưng không được làm cùng một phẩm chất, và vào những
ngày hè, Huynh sẽ nhận ra ngay. Thật là tuyệt vọng. Chúng tôi không còn nắm giữ
kiến thức của bậc tiền bối nữa, thời đại của các vĩ nhân đã qua rồi!
- Chúng ta là những người lùn, -
thầy William công nhận – nhưng là những người lùn đứng trên vai các người khổng
lồ đó, và mặc dầu chúng ta bé nhỏ thật, đôi khi chúng ta vẫn có cách nhìn vào
chân trời xa hơn họ.
- Xin hãy cho tôi biết chúng ta
đã làm tốt hơn các vị tiền bối cái gì khác nào? – Nicholas thốt lên. – Nếu
Huynh đi xuống hầm của nhà thờ, nơi tồn trữ kho tàng của tu viện, Huynh sẽ nhận
thấy những hộp đựng thánh tích được chạm trổ cực kì tinh xảo, đến nỗi cái hộp
quái dị tôi đang vá víu đây, - ông gật đầu chỉ về phía tác phẩm làm dở trên
bàn, - sẽ trông như một thứ trò hề!
- Đâu có quy định thợ cả ngành
kính phải làm cửa sổ, thợ rèn phải làm hộp đâu; và các bậc thợ cả ngày xưa đã
làm ra những vật tuyệt đẹp như thế rồi, những vật được làm với dụng ý sẽ tồn tại
hàng nhiều thế kỷ. Nếu không, thế gian hẳn sẽ tràn ngập những rương, những hộp
trong khi thánh tích thì quý hiếm, - thầy William nói đùa – và cửa sổ thì có phải
cứ cần hàn mãi đâu. Nhưng tôi đã được thấy ở nhiều nước những vật bằng thủy
tinh mới, cho thấy một thế giới tương lai, trong đó thủy tinh sẽ không chỉ phục
vụ những mục tiêu tôn giáo, mà sẽ giúp con người bớt yếu đuối. Tôi muốn Huynh
xem một thành quả sáng tạo của thời đại chúng ta, mà tôi được hân hạnh sở hữu,
một thí dụ vô cùng hữu ích.
Ông thò tay vào áo và lôi ra cặp
mắt kính, làm sững sờ người đang nói chuyện.
Vô cùng chú ý, Nicholas cầm lấy vật
dụng uốn cong mà thầy William đưa cho ông, rồi thốt lên: - Những con mắt bằng
đá cùng với cái hộp nhỏ! Tôi được nghe một tu sĩ xứ Jordan mà tôi hội ngộ ở
Pisa kể về những vật này. Huynh ấy nói, chúng mới được phát minh cách đây gần
hai mươi năm. Nhưng chúng tôi đã nói chuyện với nhau cũng đã cách đây hơn hai
mươi năm rồi.
- Tôi tin chúng được phát minh
trước đó rất lâu, nhưng chúng rất khó làm, và đòi hỏi phải có những bậc thầy của
ngành kính vô cùng tinh xảo. Tốn rất nhiều thời gian và công sức. Cách đây mười
năm, một cặp kính này được bán với giá sáu quan Ý. Một người thợ cả vĩ đại,
Sanvinus, ở Armati đã cho tôi cặp kính này cách đây hơn chục năm, và tôi vẫn hằng
nâng niu nó, xem nó như một phần thân thể tôi vậy.
- Hi vọng hôm nay Huynh sẽ cho
phép tôi được xem xét kĩ nó. Tôi sẽ rất vui được chế ra vài cặp tương tự. -
Nicholas nói đầy xúc động.
- Rất sẵn lòng – thầy William nhất
trí – nhưng hãy chú ý độ dày của kính, phải thay đổi tùy theo mắt người đeo, và
Huynh lại phải cho người đeo thử nhiều cặp kính cho đến khi tìm thấy độ dày
thích hợp.
- Kì diệu thay! Thế nhưng nhiều kẻ
sẽ bảo đây là phép phù thủy, hay máy móc ma quỷ…
- Huynh chắc chắn có thể sẽ nói đến
phép lạ trong vật dụng này. Nhưng có hai loại phép lạ: một loại phép lạ là công
cụ của quỷ, dùng những mưu chước đen tối, gian xảo để làm con người sa đọa, và
cũng có một phép lạ cao quý: đó là trí tuệ của Thượng đế được tỏa rạng thông
qua trí tuệ của con người; nó phục vụ việc cải tạo tự nhiên, và một trong những
mục tiêu của nó là kéo dài tuổi thọ con người. Đây chính là phép thiêng đáng để
các bậc học giả tận tâm cống hiến ngày càng nhiều hơn nữa, không chỉ nhằm phát
hiện những điều mới mẻ, mà còn nhằm tái phát hiện lắm điều bí ẩn trong tự nhiên
mà Chúa tinh thông đã tiết lộ cho những người cổ Do Thái, Hy Lạp, những tiền
nhân xa xưa, và thậm chí cho những kẻ vô thần ngày nay. Tôi không thể kể hết
cho Huynh nghe những điều tuyệt vời về ngành mắt tôi đã học được trong các sách
của các tác giả vô thần. Và những người trí thức đạo Ki-tô phải nắm được tất cả
những nền học vấn của những người đa thần cũng như vô thần.
- Nhưng tại sao những người nắm
được tri thức đó không giao lưu với tất cả thần dân của Chúa?
- Vì không phải tất cả thần dân của
Chúa sẵn lòng đón nhận nhiều điều bí ẩn như thế, và những người sở hữu kiến thức
đó vẫn thường bị lầm lẫn với bọn thầy đồng cốt, thông đồng với ác quỷ, và họ đã
mất mạng vì mong muốn san sẻ cho người khác kho tàng kiến thức của mình. Riêng
tôi, khi ngồi xử những vụ án mà kẻ tình nghi có liên quan với quỷ sứ, tôi đã phải
thận trọng không dám dùng cặp kính này, mà phải nhờ đến các lục sự đọc giùm các
văn kiện cần thiết. Nếu không cẩn thận, vào thời điểm quỷ sứ đang hoành hành
tràn lan khiến mọi người đều có thể ngửi thấy mùi diêm sinh nồng nặc, thì chính
tôi cũng có thể bị xem là bạn với bị cáo. Cuối cùng, như thầy Roger Bacon vĩ đại
đã cảnh giác, các bí mật của khoa học không được lọt vào tay tất cả mọi người,
vì vài kẻ có thể sử dụng chúng vào những mục tiêu tội lỗi. Một học giả thường
phải viết những quyển sách có vẻ phù phép, nhưng không phải là phù phép; các
sách đó chỉ đơn thuần là sách khoa học tốt nhằm bảo vệ họ khỏi những đôi mắt
thiếu thận trọng.
- Thế Huynh sợ rằng thường dân sẽ
dùng các bí mật này vào mục tiêu tội lỗi à?
- Đối với thường dân, tôi chỉ sợ
rằng các bí mật đó khiến họ kinh hãi và lẫn lộn với những trò ma quỷ mà các tu
sĩ giảng đạo cứ lải nhải mãi. Huynh biết không, tôi quen biết những nhà vật lý
tài năng, họ đã bào chế ra các loại dược phẩm có khả năng trị lành tức khắc các
bệnh dữ. Nhưng khi họ đưa cho các dân thường các thứ thuốc thoa hay thuốc uống
trên, họ lại kèm theo đó những câu Phúc âm hay những lời ngân nga nghe như
Thánh kinh. Không phải vì tin những lời kinh này có khả năng chữa bệnh, mà vì
tin rằng lời kinh mang đến sự lành bệnh, do đó người dân sẽ uống hay thoa các
thứ thuốc đã dùng, rồi lành bệnh mà rất ít để ý đến kiến hiệu của loại thuốc đã
dùng. Tinh thần của họ, nhờ được hưng phấn bởi lòng tin đạo thành kính, cũng sẽ
đón nhận tác dụng của thuốc vào thân thể tốt hơn. Nhưng kho tàng trí thức thường
cần phải được bảo vệ không phải để khỏi rơi vào tay những người dân thường, mà
chính là để khỏi rơi vào tay các học giả khác. Một ngày nào đó, tôi sẽ nói với
Huynh về các máy móc kì diệu có thể thực hiện tiên đoán chu kì tự nhiên. Nhưng
thật đáng buồn biết bao, những máy này sẽ lọt vào tay những kẻ dùng nó để bành
trướng quyền lực và thỏa mãn lòng tham của chúng. Tôi được biết tại Cathay, một
nhà hiền triết đã chế được một hợp chất dạng bột, khi bỏ vào lửa sẽ tạo ra một
tiếng nổ dữ dội và bùng lên một ngọn lửa lớn; nó có thể thiêu hủy tất cả mọi vật
trong vòng nhiều thước. Đó sẽ là một công cụ tuyệt diệu nếu được dùng vào việc
chuyển dòng sông hoặc phá đá khi dỡ đất để cày cấy. Nhưng nếu một kẻ nào đó
dùng nó để ám hại các kẻ thù của mình thì sẽ ra sao?
- Có lẽ cũng tốt thôi, nếu chúng
nó là kẻ thù của thần dân Đức Chúa trời, - Nicholas thành khẩn nói.
- Có lẽ vậy, - thầy William công
nhận. – Thế nhưng nay ai là kẻ thù của thần dân của Chúa? Hoàng đế Louis hay Đức
Giáo hoàng John?
- Ôi, lạy Chúa! – Nicholas hốt hoảng
– Thực tôi chả thích trả lời dứt khoát những vấn đề gay go thế đâu!
- Huynh thấy chưa, đôi khi một số
bí mật nào đó nên được che phủ bởi một lớp từ ngữ huyền ảo. Các bí mật của tự
nhiên không được truyền đạt lại trên các bản da dê, da cừu. Trong quyển sách
nói về các điều bí mật, Aristotle cho rằng việc thông tin quá nhiều điều bí ẩn
của tự nhiên và nghệ thuật sẽ phá vỡ khóa thiên đường, và nhiều tội lỗi sẽ liền
theo sau. Nói như thế không có nghĩa là không được tiết lộ các bí mật, mà có
nghĩa là một học giả phải quyết định khi nào và bằng cách nào để tiết lộ.
- Đó là cái cớ tốt nhất trong những
nơi như ở đây. Không phải tất cả mọi người đều đọc được tất cả mọi loại sách.
- Đây là một vấn đề khác. Ba hoa
quá có thể là một cái tội, nhưng dè dặt, kín tiếng quá cũng có thể là một cái tội
nữa. Tôi không có ý nói rằng cần phải che giấu các nguồn tri thức; ngược lại, đối
với tôi, đây là một tội nặng. Ý tôi muốn nói rằng vì những nguồn này là các sự
bí ẩn làm phát sinh cả điều thiện lẫn điều ác, một học giả có quyền và nhiệm vụ
sử dụng một ngôn ngữ trừu tượng, mơ hồ, mà chỉ đồng nghiệp của ông ta mới hiểu
được. Thường các học giả trong thời đại chúng ta chỉ là những tên lùn trên vai
những tên lùn khác.
Cuộc chuyện trò thân mật với thầy
tôi hẳn đã khiến Sư huynh Nicholas cảm thấy vững bụng. Ông nháy mắt với thầy
William, dường như muốn nói: “Chúng ta hiểu nhau vì cùng có những mối quan
tâm,” và nói bóng gió:
- Nhưng ở đằng kia, - ông ra chỉ
về tòa Đại Dinh, - các bí mật của học vấn được bảo vệ kĩ lưỡng nhờ những phép lạ.
- Thế à? – thầy William hờ hững hỏi
– Tôi chắc đó là các cửa có chấn song, các luật cấm khắt khe, các lời đe dọa chứ
gì?
- À không. Còn hơn thế nữa…
- Chẳng hạn như cái gì nào?
- Ồ, tôi không biết chính xác.
Tôi chỉ quan tâm đến thủy tinh chớ không phải sách vở. Nhưng trong thư viện có
nhiều lời đồn đại… nhiều lời đồn đại lạ lùng…
- Đồn những gì?
- Lạ lùng lắm. Chẳng hạn, tin đồn
về một tu sĩ liều lĩnh đột nhập vào thư viện ban đêm để tìm một quyển sách gì
đó mà Malachi đã không bằng lòng đưa cho Huynh ấy; rồi Huynh ấy trông thấy rắn
rít, người cụt đầu, người hai đầu… Khi ra khỏi Mê cung này, Huynh ấy đã suýt
điên…
- Tại sao Huynh nói đó là những
phép lạ chứ không phải những bóng ma?
- Vì mặc dầu tôi chỉ là một thợ cả
tồi của ngành thủy tinh đi nữa, tôi cũng không đến nỗi dốt nát như thế. Ác quỷ
(xin Chúa phù hộ chúng con) không dùng rắn rết và lũ người hai đầu để quyến rũ
một tu sĩ. Có chăng, chắc phải là các hư ảnh dâm đãng như nó đã dùng để quyến
rũ các cha trong sa mạc. Ngoài ra, nếu lấy một quyển sách nào đó là tội lỗi thì
sao Ác quỷ lại ngăn ngừa một tu sĩ phạm tội đó?
- Tôi cho đó là một lối suy diễn
hay, - thầy tôi công nhận.
- Và sau hết, lúc tôi đang sửa chữa
các cửa sổ ở bệnh xá, tôi lật qua vài quyển sách của Severinus để xem cho vui.
Có một quyển sách về các điều bí mật do Alberius Magnus viết. Tôi bị hấp dẫn bởi
vài minh họa rất lạ bèn đọc vài trang viết về cách làm thế nào bôi mỡ bấc đèn dầu
để tỏa ra mùi gợi lên các ảo ảnh. Hẳn Huynh có để ý… à, chắc Huynh chưa để ý
đâu, vì Huynh chưa trải qua một đêm nào ở tu viện mà. Vào những lúc tối, tầng
trên của tòa Đại Dinh được thắp sáng. Đâu đó, từ các cửa sổ hắt ra thứ ánh sáng
mờ mờ; nhiều người thắc mắc không hiểu ánh sáng đó là gì, và người ta nói đến
ma trơi, hay là hồn ma của những Quản thư viện quá cố trở về viếng chốn cũ. Nhiều
người ở đây tin vào những câu chuyện này. Tôi nghĩ đó là những ngọn đèn đặt sẵn
ở đấy để tạo ảo ảnh. Như Huynh biết đấy, nếu mình lấy dáy tai chó mà dùng nó để
bôi vào bấc đèn, bất kì ai ngửi thấy mùi khói đèn sẽ tưởng là có đầu chó, và nếu
có một người nào đó đi cùng với hắn, người kia sẽ thấy một cái đầu chó. Có một
loại thuốc bôi khác, khiến ai gần ngọn đèn sẽ cảm thấy mình to lớn như voi.
Dùng một đôi mắt dơi và hai đôi mắt của một loại cá mà tôi đã quên tên và nọc của
chó sói, Huynh sẽ làm được một bấc đèn; khi thắp lên, người ta sẽ thấy các con
thú mà Huynh đã lấy mỡ. Với cái đuôi con kì nhông, Huynh có thể khiến tất cả mọi
việc chung quanh trông như bằng bạc; với mỡ của con rắn màu đen cùng một mảnh vải
liệm, căn phòng sẽ hiện lên đầy rắn rết. Tôi biết điều này. Ai đó trong thư viện
rất khôn khéo…
- Nhưng chẳng lẽ linh hồn của các
Quản thư viện quá cố không phải là những người đã biến hóa các phép lạ đó sao?
Nicholas lộ vẻ hoang mang bồn chồn,
- Tôi không hề nghĩ đến điều đó. Xin Chúa phù hộ chúng con. Thôi đã muộn rồi,
Kinh Chiều đã bắt đầu. Tạm biệt nhá.
Nói rồi, ông hướng về phía nhà thờ.
Thầy trò tôi tiếp tục đi về hướng nam. Nhà nghỉ cho khách hành hương nằm về bên
phải chúng tôi cùng với nhà nguyện và khu vườn; còn bên trái là dãy nhà in màu
lục đậm, nhà máy xay, kho thóc, nhà hầm và nhà tu sinh. Mọi người hối hả đi về
phía nhà thờ. Tôi hỏi:
- Thầy nghĩ gì về những lời
Nicholas nói?
- Thầy không biết. Có điều gì đó
trong thư viện mà thầy không tin đó là linh hồn của các Quản thư viện quá cố…
- Sao lại không?
- Vì thầy nghĩ rằng họ là những
người vô cùng đạo đức, nên nay họ đã ở lại trên nước Chúa để chiêm ngưỡng dung
nhan thiêng liêng của Ngài; thầy cho rằng con bằng lòng với câu giải đáp này.
Còn về những ngọn đèn, chúng ta sẽ xem thử chúng có đấy không. Nói về các loại
thuốc mà Sư huynh ngành thủy tinh đã bàn, thì có những cách tạo ra ảo ảnh dễ
hơn và Severinus biết rất rõ, như con đã nhận thấy ngày hôm nay. Có điều chắc
chắn rằng tại tu viện này, người ta không muốn ai đột nhập Thư viện vào ban
đêm, và tất nhiên, ngược lại, nhiều người đã và đang cố sức vào đó.
- Thế án mạng của chúng ta có
liên quan gì đến việc này?
- À, án mạng. Thầy càng nghĩ về
nó, lại càng cả quyết rằng Adelmo đã tự sát.
- Sao thế?
- Con còn nhớ, sáng nay, khi thầy
lưu ý con đến đống rơm bẩn không? Khi chúng ta đang leo lên khúc rẽ bên dưới ngọn
tháp phía đông, thầy đã để ý những vệt do đất lở để lại tại nơi đó. Hay là, nói
cho đúng hơn, một phần dốc đứng đã bị sụt ở bên dưới ngọn tháp, xê xích trong
khoảng nơi rác chất đống, và đất đã trụt xuống. Thế nên tối nay, khi chúng ta
nhìn từ trên xuống, trên đống rơm hình như có một lớp tuyết mỏng, lớp tuyết mới
nhất là lớp tuyết ngày hôm qua chớ không phải tuyết cách đây mấy hôm. Còn về
xác Adelmo, Tu viện trưởng bảo đã bị đá cứa rách tan nát, nhưng dưới ngọn tháp
phía đông, nơi Đại Dinh nối với
bờ dốc đứng, là rặng thông. Tuy nhiên, vỉa đá lại nằm ngay dưới chân bức tường,
tạo thành một bực thang, và phía sau là đồng rác.
- Thế nghĩa là…?
- Nghĩa là, hãy nghĩ xem phải
chăng… thầy phải nói thế nào đây nhỉ…? Sẽ dễ dàng cho chúng ta suy luận hơn, nếu
tin rằng Adelmo đã tự ném mình từ trên cao và rơi xuống vỉa đá, vì những nguyên
do chưa xác định được. Rồi cơn bão đêm đó đã gây lở đất, cuốn theo rơm và một
phần đất đai, cùng cái xác của chàng trai tội nghiệp xuống dưới ngọn tháp phía
đông.
- Tại sao thầy lại nói giải đáp
này sẽ dễ dàng cho ta suy luận hơn?
- Adso thân yêu ơi, chúng ta
không nên vẽ vời thêm nhiều nguyên nhân khác để giải thích, trừ khi thật cần
thiết. Giả sử Adelmo rơi từ ngọn tháp phía đông xuống, Huynh ấy chắc hẳn phải lọt
vào thư viện, ai đó chắc hẳn phải đập Huynh ấy trước, vì thế Huynh không thể
kháng cự được và rồi người đó hẳn đã tìm cách vác xác Huynh ấy leo qua cửa sổ rồi
mở cửa ra và ném cái xác không hồn xuống. Nhưng với giả thuyết của thầy thì chỉ
cần mỗi mình Adelmo, quyết định của chính Huynh ấy và sự lở đất. Dùng ít nguyên
nhân hơn thì giải thích được tất cả.
- Nhưng cớ sao Huynh ấy lại tự tử?
- Thế tại sao lại có kẻ muốn giết
Huynh ấy? Cả trong hai trường hợp đều cần phải tìm ra nguyên do, và ta đoán chắc
phải có nguyên do. Không khí trong Đại
Dinh có vẻ u uất. Tất cả mọi người đều đang che giấu một điều gì đó,
chúng ta chỉ thu thập được vài lời bóng gió, hẳn là còn quá mơ hồ, về một mối
quan hệ lạ lùng nào đó giữa Adelmo và Berengar. Thế nghĩa là chúng ta sẽ để ý đến
viên phụ tá Quản thư viện.
Trong khi chúng tôi đang bàn bạc
về vấn đề này, Kinh Chiều đã xong. Các tôi tớ quay về nhiệm vụ của họ trước khi
ăn tối, còn các tu sĩ thì hướng về nhà ăn. Trời đã sụp tối và tuyết bắt đầu
rơi. Một trận lất phất hoa tuyết nhẹ, mà tôi tin sẽ rơi suốt đêm đó, vì sáng
hôm sau, toàn mặt đất đều được phủ một lớp chăn trắng xóa như tôi sẽ kể tiếp
sau. Tôi thấy đói và khoái trá nghĩ đến lúc ngồi vào bàn ăn.