Tên của đóa hồng - Phần I - Chương 4 - Phần 2

SAU KINH XẾ TRƯA

Thăm phòng thư tịch,

gặp gỡ nhiều học giả,

người sao chép và ghi đề mục,

cùng một tu sĩ già, mù

đang chờ đợi bọn Phản giáo.

Khi chúng tôi leo lên lầu, tôi trông thấy thầy tôi đang quan sát các cửa sổ
rọi ánh sáng cho cầu thang. Có lẽ tôi đang trở nên khôn ngoan như thầy, vì tôi
lập tức nhận thấy vị trí cửa sổ rất khó cho người leo đến. Mặt khác, các cửa sổ
của nhà ăn, vốn là các cửa sổ duy nhất ở tầng trệt trông xuống vách núi đá, dường
như cũng rất khó leo đến, vì dưới cửa sổ chẳng có một loại đồ đạc nào.

Khi lên hết cầu thang, chúng tôi đi xuyên qua ngọn tháp phía bắc và bước vào phòng thư tịch, rồi tôi bật lên tiếng kêu thán phục. Tầng
này không ngăn làm đôi như tầng dưới, do đó, trước mặt tôi dàn trải toàn bộ
không gian bao la của nó. Trần uốn cong, không cao quá, chống đỡ bằng các cột
chắc chắn, ôm lấy một không gian chan hòa thứ ánh sáng đẹp nhất tràn vào từ ba
cửa sổ khổng lồ, dọc theo mỗi chiều dài, từ các cửa sổ nhỏ hơn trên mỗi mặt
ngoài của tháp, và từ tám cửa sổ cao hẹp đón ánh sáng từ khối giếng trung tâm
hình bát giác.

Số lượng cửa sổ nhiều như vậy cho thấy gian phòng lớn sẽ thường xuyên rạng
rỡ ánh sáng ngay cả vào buổi chiều đông. Các ô cửa không sơn màu như cửa sổ ở
giáo đường, và những tấm kính hình vuông trong suốt, khung bằng chì, cho tràn
vào một thứ ánh sáng tinh khiết nhất, không hề bị ảnh hưởng bởi nghệ thuật của
con người, và như thế giúp ánh sáng đạt được mục đích của mình là soi rọi cho
những người đang đọc, đang viết. Trước đây, và tại nhiều nơi khác, tôi đã được
thăm nhiều phòng thư tịch: nhưng chưa có nơi nào, trong làn ánh sáng chân thật
tràn vào làm bừng sáng căn phòng, lại chiếu rạng đến như vậy, các nguyên lý
tinh thần, vốn là hiện thân của ánh sáng, và sự rực rỡ, vốn là nguồn cội của tất
cả các vẻ đẹp và học thức: thành tố gắn liền với sự cân đối, thể hiện trong cấu
trúc căn phòng. Vì để tạo thành cái đẹp cần có ba yếu tố: trước hết là tính
toàn vẹn hay toàn thiện, và vì lý do này, tất cả các sự vật không đầy đủ được
xem là xấu; kế đó là sự cân đối hay sự hài hòa; cuối cùng là ánh sáng và sự rõ
ràng, và quả thật chúng ta gọi các vật thể đẹp là các vật thể có màu sắc rõ
ràng, xác định. Do cái đẹp tượng trưng cho sự yên hòa và do cái thiện, cái đẹp,
cái yên hòa xoa dịu tâm hồn con người, bản thân tôi chợt cảm thấy một niềm vỗ về
bao la, và tôi nghĩ rằng được làm việc nơi đây hẳn phải thích thú lắm.

Vào buổi chiều hôm ấy, trước mắt tôi hiện ra một phòng làm việc nghiên cứu
thật vui vẻ. Sau này, tại thư viện thánh Gall, tôi có trông thấy một phòng thư
tịch với cấu trúc tương tự và cũng tách biệt khỏi thư viện, nhưng không sắp xếp
đẹp đẽ như ở đây. Các nhà nghiên cứu cổ học, quản thư viện, người ghi đề mục,
và các học giả đang ngồi tại bàn giấy của mình, dưới mỗi cửa sổ lại có một bàn
giấy. Vì có bốn mươi cửa sổ, bốn mươi tu sĩ có thể làm việc cùng một lúc, mặc dầu
lúc đó có lẽ chỉ có khoảng ba mươi người mà thôi. Severinus giải thích rằng các
tu sĩ làm việc ở phòng thư tịch được miễn dự các giờ kinh Xế sáng, kinh Trưa và
kinh Xế trưa, do đó, ban ngày, họ không phải rời nơi làm việc, và họ chỉ ngưng
công việc khi hoàng hôn xuống để dự kinh Chiều.

Các chỗ sáng nhất được dành riêng cho các nhà nghiên cứu cổ học, các chuyên
gia minh họa giỏi nhất, các người viết đề mục và sao chép. Mỗi bàn giấy có đủ
các vật dụng cần thiết cho việc sao chép và minh họa: sừng đựng mực, bút lông
ngỗng đẹp mà vài tu sĩ đang chuốt bằng dao mỏng, đá bọt để vuốt giấy da, thước
để kẻ hàng trên giấy. Trên đầu bàn giấy hơi dốc, bên cạnh người viết, có một bục
đặt bản sách chép tay sắp được sao lại, trang sách được phủ bằng một tờ giấy có
đục một khe nhỏ đóng khung dòng chữ đang được sao chép lúc đó. Vài người có mực
vàng và mực đủ màu sắc. Các tu sĩ khác đang đọc sách, họ ghi các chú thích của
mình vào sổ tay hay các bản gỗ.

Tuy nhiên, tôi không có thì giờ quan sát công việc của họ, vì quản thư viện
đã bước đến. Chúng tôi biết ông ta là Malachi. Gương mặt ông ta biểu lộ một vẻ
chào đón, nhưng tôi bất giác rùng mình khi nhận thấy một gương mặt kì quái như
thế. Ông cao và cực kì gầy, tay chân to lớn vụng về. Khi ông sải bước tới, mình
khoác chiếc áo đen của dòng tu, vóc dáng ông có một vẻ gì đó rất đáng sợ. Đầu
ông vẫn đội mũ, vì vừa mới từ ngoài vào, che tối gương mặt xanh xao của ông, tạo
cho đôi mắt to rộng buồn bã một vẻ đau khổ chịu đựng. Trên khuôn mặt ông có những
đường nét, dường như trước đây chất chứa nhiều nỗi đam mê nay ý chí đã thuần
hóa, nhưng lại khiến chúng trở nên băng giá, hay không còn sinh động nữa. Vẻ u
buồn và khắc khổ bao trùm gương mặt ông và đôi mắt thật sắc bén đến nỗi chỉ cần
liếc nhìn là có thể đâm suốt tim gan người đối diện và đọc được cả những suy
nghĩ thầm kín. Vì thế, thật là khó chịu khi nhìn vào ánh mắt soi mói đó, và chẳng
ai muốn nhìn vào mắt ông ta lần thứ hai.

Quản thư viện giới thiệu chúng tôi với các tu sĩ đang làm việc lúc đó. Đến
từng người. Malachi kể cho chúng tôi nghe về công việc người ấy đang thực hiện,
và tôi khâm phục tất cả mọi người về sự tận tâm của họ dành cho trí thức và việc
nghiên cứu Phúc Âm. Qua đó, tôi đã gặp Venantius, dịch giả tiếng Hy Lạp và Ả Rập,
người dốc lòng nghiên cứu Aristotle, bậc thông thái nhất của nhân loại. Benno,
một tu sĩ trẻ từ Thụy Đan Na, đang nghiên cứu tu từ học, Aymaro, người sao chép
các sách thư viện mượn được mới mấy tháng nay, và một nhóm nhà minh họa xuất xứ
từ nhiều nước: Patrick xứ Clonmacnois, Rabano xứ Toledo, Magnus xứ Iona, Waldo
xứ Hereford.

Danh sách có thể còn dài, nhưng tôi phải quay lại đề tài của cuộc tranh luận,
vì từ đó nổi lên các biểu hiện hữu ích cho thấy nguyên nhân gây sự khó chịu kín
đáo trong các tu sĩ, và các mối quan tâm chưa biểu lộ vẫn đè nặng lên các cuộc
nói chuyện của chúng tôi.

Thầy tôi bắt đầu nói chuyện với Malachi, ca ngợi vẻ đẹp và sự làm việc cần
cù trong phong thư tịch, hỏi thăm ông ta về thể thức tiến hành công việc tại
đây, vì thầy tôi đã được nghe khắp nơi nói về thư viện và mong muốn được khảo
sát các sách ở đây. Malachi trình bày với ông những gì tu viện trưởng đã cho biết:
tu sĩ yêu cầu quản thư viện đưa quyển sách người ấy muốn tham khảo và viên quản
thư viện sẽ lên lầu mang sách xuống, nếu lời yêu cầu hợp lý và thành khẩn. Thầy
William hỏi làm cách nào ông ta có thể tìm ra các tựa sách xếp trong các kệ
trên lầu. Malachi bèn đưa cho thầy xem một bản sách chép tay gồm nhiều tập ghi
chi chít các danh mục, buộc chặt vào bàn giấy của ông ta bằng một sợi xích nhỏ
bằng vàng.

Thầy William luồn tay vào bên trong áo tu, lần đến chỗ ngực áo phồng lên
thành một cái túi, lôi ra một vật mà tôi đã nhìn thấy ông cầm trên tay hay đeo
trên mũi trong cuộc hành trình của chúng tôi. Đó là một cái ống hình chạc, cấu
tạo sao cho có thể nằm trên mũi người ta, như kiểu kị mã cưỡi ngựa hay chim đậu
bám vào cành. Mỗi bên chạc, ở đằng trước mắt, có một khung kim loại hình bầu dục,
giữ một mảnh kính dày như đáy chai. Thầy William thích đeo vật này trước mắt để
đọc sách, bảo rằng nó giúp tăng thị lực tự nhiên và phụ trợ đôi mắt lão của thầy
nhìn rõ hơn, đặc biệt khi trời chạng vạng tối. Nó không giúp thầy nhìn vật ở
xa, vì mắt thầy rất sắc, mà giúp thầy nhìn vật ở gần. Với cặp kính này, thầy có
thể đọc những bản thảo viết chữ bé tí xíu mà ngay cả tôi đọc cũng khá khó khăn.
Thầy giảng giải cho tôi rằng, khi một người đã qua tuổi trung niên, dù thị lực
người ấy vẫn luôn luôn tốt, thì đôi mắt và đồng tử bắt đầu đờ dần; do đó, sau
năm mươi tuổi, nhiều học giả xem như đã mất khả năng đọc, viết. Đó là một nỗi bất
hạnh to lớn đối với những người còn có thể dâng hiến những thành quả tri thức tốt
nhất của mình thêm nhiều năm nữa. Do đó, ta phải tạ ơn Chúa vì đã có người phát
minh và cấu tạo nên vật dụng này. Thầy đã kể cho tôi nghe việc này để ủng hộ
các tư tưởng của giáo sư Roger Bacon của thầy, người đã dạy rằng mục tiêu của
việc học cũng chính là nhằm kéo dài cuộc đời con người.

Các tu sĩ khác nhìn thầy William hết sức hiếu kì, nhưng không dám hỏi han
chi. Tôi để ý thấy ngay tại một nơi vẫn hằng tự hào là nhiệt tâm dốc lòng vào
việc đạo và viết sách, vật dụng hiếu kì này vẫn chưa hề xuất hiện. Tôi cảm thấy
hãnh diện được ở bên con người đã sở hữu một vật làm sững sờ những nhà thông tuệ
lừng danh trên thế giới. Đeo vật này lên mắt, thầy William cúi xuống đọc các
danh mục ghi trong tập sách. Tôi cũng nhìn vào và thấy trong đó các tựa sách
chúng tôi chưa hề nghe nói đến, và các quyển sách nổi tiếng khác mà thư viện sở
hữu.

Thầy tôi đọc, - “Về tòa ngũ giác của
Salomon
[1], “Nghệ thuật
nói và hiểu trong ngôn ngữ Do Thái
[2], “Về những
vật kim khí
[3] của Roger de Hereford, “Đại số[4] của Alkuwarizmi do Robertus Anglicus dịch từ
tiếng La Tinh, “Nghệ thuật nghi binh[5] của Silius Italicus, “Những chiến công của người Pháp[6], “Về những
lời ngợi ca cây thánh giá
[7] của Rabanus Maurus và “Các thời đại của thế giới và văn chương con người qua những quyển sách
đặc biệt từ A đến Z
[8] của Flavius Claudius Giordanus. Những tác phẩm
tuyệt diệu! Nhưng chúng được liệt kê theo thứ tự nào? - Thầy trích dẫn một câu
tôi không biết ở quyển sách nào, nhưng chắc chắn phải quen thuộc với Malachi –
“Quản thư viện phải có danh sách tất cả các tựa, được sắp xếp cẩn thận theo thứ
tự đề tài và tác giả, và sách phải được phân loại trên kệ có bảng số”. Huynh
làm thế nào biết vị trí sắp xếp của từng quyển sách?

[1]“De pentagono Salomonis”

[2]“Ars loquensdi el
intelligendi in Lingua hebraica”

[3]“De rebus metallicis”

[4]“Algebra”

[5]“Punica”

[6]“Gesta francorum”

[7]“De laudibus sanctae
crusis”

[8]“Flavii Claudi Giordani
de aetate mundi et hominis reservatis singulis litteris per singulos libros ab
A usque ad Z”

Malachi chỉ thầy xem vài chú thích ghi trên cạnh mỗi tựa sách. Tôi đọc:
“iii, IV gradus, V inprima graecorum”; “ii, V gradus, VII in tertia anglorum”,
v.v... Tôi hiểu số thứ nhất chỉ vị trí của quyển sách trên kệ hay gradus, số thứ hai chỉ vị trí kệ, trong
khi đó số thứ ba chỉ vị trí ngăn; tôi cũng hiểu những nhóm từ khác chỉ phòng
hay hành lang của thư viện, bèn lấy can đảm hỏi thêm về các chi tiết phân biệt
cuối cùng đó. Malachi nghiêm khắc nhìn tôi... – Có lẽ con không biết, hay đã
quên rằng Quản thư viện là người duy nhất được lên thư viện. Do đó, chỉ cần một
mình Quản thư viện biết cách đọc những kí hiệu đó.

- Nhưng các tựa sách liệt kê
trong danh sách này được sắp xếp theo trật tự nào? – thầy William hỏi – Theo
tôi, dường như không phải theo đề tài. - Thầy không nêu lên thứ tự tác giả theo
mẫu tự chữ cái, vì đó là một hệ thống tôi mới thấy áp dụng những năm gần đây
thôi, còn khi đó thì rất hiếm sử dụng.

- Thư viện được thành lập từ thuở
xa xưa, và sách được đăng kí theo thứ tự lúc nhận được, do tặng hay nhập vào
thư viện.

- Như thế sẽ khó tìm lắm – thầy
William nhận xét.

- Đủ để quản thư viện nhớ chúng nằm
lòng, và biết mỗi quyển sách nhập thư viện vào thời gian nào. Đối với các tu sĩ
khác, họ có thể tin cậy vào trí nhớ của người quản thư, - ông ta nói như thể
đang bàn luận về một người nào khác chứ không phải chính ông, và tôi nhận ra
ông đang nói đến nhiệm vụ mà ông không xứng đảm trách, nhiệm vụ đã được hàng
trăm bậc tiền bối khác phụ trách, những người đã lần lượt truyền hiểu biết của
mình cho thế hệ kế tiếp.

- Tôi hiểu rồi. Giả sử tôi cần
tìm một quyển sách nào đó nhưng không biết chính xác tựa, chẳng hạn về “Tòa ngũ giác của Salomon”, Huynh có khả
năng cho biết tựa sách tôi vừa mới nêu đó hiện có hay không, và Huynh có thể
xác định vị trí nó ở đâu trên lầu không?

- Nếu Huynh thực sự phải tìm hiểu
điều gì đó về “Tòa ngũ giác của Salomon”.
Nhưng trước khi giao sách cho Huynh, tôi cần xin ý kiến của tu viện trưởng.

- Tôi được biết rằng một trong
các họa sĩ minh họa giỏi nhất của Huynh vừa mới mất – thầy William nói tiếp –
tu viện trưởng đã kể cho tôi nghe rất nhiều về nghệ thuật của người ấy. Vậy tôi
có thể xem các bản sách mà Huynh ấy đang minh họa dở dang chăng?

- Vì còn trẻ, Adelmo... – Malachi
nói, ngờ vực nhìn thầy William – chỉ minh họa các ghi chú ở lề. Huynh ấy có một
óc tưởng tượng sống động và từ các vật thể quen thuộc, Huynh ấy có thể sáng tác
những vật thể mới lạ, như có thể nối một thân người với một cái cổ ngựa. Sách của
Adelmo ở đằng kia, chưa có ai động đến bàn giấy của Huynh ấy cả!

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3