Tên của đóa hồng - Phần I - Chương 2 - Phần 2
- Thứ nhất, tại sao là một tu sĩ chứ? Trong tu viện còn có bao nhiêu người khác, người chăn ngựa, chăn dê, tôi tớ...
- Đúng vậy, tu viện tuy nhỏ nhưng rất giàu, - Tu viện trưởng tự mãn xác nhận - một trăm năm mươi tôi tớ phục vụ sáu mươi tu sĩ. Nhưng mọi việc đều xảy ra trong Đại Dinh. Có lẽ con đã biết đó, tầng trệt của Đại Dinh là nhà bếp và nhà ăn, còn hai tầng trên là phòng biên khảo và thư viện. Tuy nhiên, Đại Dinh được khóa chặt sau bữa tối, và tuyệt đối cấm tất cả mọi người vào Đại Dinh khi đó. – Cha đoán được câu hỏi kế của Thầy William và lập tức nói thêm, dù rõ ràng là với vẻ vô cùng miễn cưỡng – Đương nhiên là kể cả các tu sĩ, nhưng...
- Nhưng sao?
- Nhưng Cha hoàn toàn phủ nhận, hoàn toàn, con hiểu chứ - khả năng một tôi tớ bạo gan đột nhập Đại Dinh vào ban đêm. – Trong đôi mắt Cha lóe lên một nụ cười, tuy ngắn như một tia chớp hay tia sao xẹt, nhưng lộ vẻ thách thức. – Ta hãy giả định rằng, nếu việc ấy xảy ra thì chúng sẽ rất kinh khủng, con biết đấy... đôi khi lệnh ban ra cho những kẻ chất phác phải kèm theo sự đe dọa ngầm rằng, kẻ nào bất tuân sẽ phải chịu một tai họa kinh khủng, một sự trừng phạt của siêu nhiên. Trái lại, một tu sĩ...
- Con hiểu.
- Ngoài ra, một tu sĩ sẽ có những động cơ thúc đẩy anh ta liều lĩnh đột nhập một nơi cấm. Cha muốn nói đến những động cơ rất... hợp lý, mặc dù không hợp pháp.
Thầy William để ý thấy thái độ lúng túng của Cha Bề trên, bèn hỏi một câu có vẻ định đổi đề tài, nhưng câu hỏi ấy lại khiến Cha thêm lúng túng.
- Khi nói đến khả năng của một vụ cố sát, Cha có nói “Và nếu tất cả là thế”. Ý Cha muốn nói gì?
- Cha đã nói thế à? Không ai giết người vô cớ, dù nguyên cớ ấy có đồi bại đến đâu đi nữa. Và Cha run rẩy nghĩ đến những động cơ đồi bại xui khiến một tu sĩ giết chết một tu sĩ anh em của mình. Đó, ý Cha là thế.
- Không còn gì khác à?
- Cha không thể nói gì khác với con.
- Cha muốn nói là Cha không có quyền nói điều gì khác?
- Sư huynh William, Sư huynh William, Cha xin con – Tu viện trưởng nhấn mạnh từ “Sư huynh” hai lần.
Thầy William, đỏ bừng mặt nói: - Lời xưng tội phải được giữ tuyệt mật mãi.
- Cảm ơn con.
Chúa ơi, hai bậc bề trên của tôi đang bàn bạc về một điều bí ẩn kinh khủng xiết bao; một người, vì nỗi lo lắng; còn người kia, do tính hiếu kì. Là một tu sinh trẻ người non dạ, mới tiếp cận với những điều bí ẩn trong giới tu sĩ thiêng liêng của Chúa như tôi đây, tôi cũng hiểu được Tu viện trưởng có biết một điều gì đó, nhưng chỉ biết điều đó qua lời xưng tội. Hẳn Cha đã nghe từ môi ai đó thốt lên một chi tiết tội lỗi, có liên quan đến kết cục bi thương của Adelmo. Có lẽ, vì lý do đó mà Cha khẩn cầu thầy William hãy khám phá ra điều bí mật chính bản thân Cha đã nghi ngờ, nhưng không thể bày tỏ cùng ai. Và Cha hi vọng rằng: trí tuệ phi thường của thầy tôi có thể soi sáng những nơi mà Cha, vì luật từ tâm cao cả, đã phải che đậy nó trong bóng tối.
- Thôi được, con có được phép thẩm tra các tu sĩ không?
- Được phép.
- Con có được phép đi lại tự do trong tu viện không?
- Cha ban cho con quyền đó.
- Cha giao cho con sứ mệnh này thể theo thức quân chủ?
- Ngay buổi tối nay.
- Tuy nhiên con sẽ bắt tay ngay ngày hôm nay, trước khi các tu sĩ biết sứ mệnh Cha đã trao cho con. Ngoài ra, con vô cùng khao khát và đó là một trong các động cơ chính dẫn đến chuyến viếng thăm của con ở đây – được tường lãm thư viện của Cha, vốn được các tu viện khắp xứ đạo hết lời ca tụng.
Tu viện trưởng đứng phắt dậy, mặt đanh lại. – Như Cha đã nói, con có thể đi lại tự do trong khắp khuôn viên của Tu viện. Nhưng hãy nhớ, chớ có mon men tới tầng thượng của Đại Dinh, nơi thư viện tọa lạc.
- Tại sao lại không?
- Đáng lẽ Cha nên giải thích cho con hiểu trước, nhưng Cha lại nghĩ con đã biết rồi. Thư viện của chúng tôi không giống như các thư viện khác…
- Con biết nó có nhiều sách hơn mọi thư viện khác trong xứ đạo. Con biết so sánh với các kệ sách của Cha, các kệ sách của Bobbio hay Pomposa, của Cluny hay Fleury dường như chỉ là một căn phòng của thằng bé đang mò mẫm học tính toán. Con biết sáu ngàn quyển sách chép tay mà Novalesa vẫn thường khoe khoang cách đây hơn trăm năm, so với số sách của Cha chỉ là số lẻ, và có lẽ rất nhiều sách trong số đó đang được giữ tại đây. Con biết thư viện của Cha là ánh sáng duy nhất mà Ki-tô giáo có thể dùng để đối chọi với ba mươi sáu thư viện ở Bá Đạt với mười ngàn bản viết tay của Vizir Ibn al-Alkami; số kinh thánh của Cha tương đương với hai ngàn bốn trăm quyển Koran mà Cairo vẫn tự hào. Sự tồn tại thư viện của Cha là bằng chứng rực rỡ chống lại truyền thuyết tự phụ của những kẻ vô thần, mấy năm trước đây đã tuyên bố rằng thư viện phong phú ở Tripoli có đến sáu triệu quyển sách, tám mươi ngàn người viết dẫn giải và hai trăm người sao chép.
- Lạy chúa, con nói đúng.
- Con biết nhiều tu sĩ sống quanh Cha đã đến đây từ các tu viện nằm rải rác khắp thế giới. Vài người lưu lại đây một thời gian để chép lại những bản thảo không tìm thấy ở nơi khác và mang những bản sao đó về quê nhà, họ không quên mang đến trao đổi với Cha một bản thảo quý hiếm khác để Cha sao lại và làm giàu thêm kho tàng của Cha. Những người khác ở đây rất lâu, đôi khi có người ở đây cho đến chết, vì chỉ nơi đây mới có những tác phẩm soi sáng công trình nghiên cứu của họ: Do đó, quanh Cha có những tu sĩ Đức, Tây Ban Nha, Pháp, Hy Lạp, Đa-sa. Con biết Hoàng đế Frederick cách đây rất lâu đã yêu cầu Cha biên soạn cho Người một quyển sách về các lời tiên tri của Merlin và dịch quyển đó sang tiếng Ả rập để gửi đi làm quà cho lãnh tụ Hồi giáo ở Ai Cập. Cuối cùng con biết một tu viện rực rỡ như Murbach trong thời kì thê lương này không còn lấy một quyển sách; ở tu viện thánh Gall chỉ còn lại vài tu sĩ biết viết; trong các thành phố ngày nay mọc lên các nghiệp đoàn, phường hội, bao gồm các thường dân làm việc cho các trường đại học, chỉ có tu viện của Cha là mỗi ngày một tái tạo mới hơn, và – con đang nói gì nhỉ? – ngày càng làm hiển danh dòng tu của Cha.
Tu viện trưởng trầm ngâm: - Tu viện không có sách vở giống như nền văn minh mà không có tác phẩm, như trại lính không quân sĩ, như nhà bếp không nồi niêu xoong chảo, như bàn tiệc không thức ăn, như vườn cây không cỏ, thảo nguyên không hoa, cây không lá… Dòng tu của chúng ta trưởng thành dưới hai yêu cầu: vừa tu vừa làm việc, vẫn còn nhỏ nhoi so với toàn thế giới. Nó là kho tri thức, là sự cứu rỗi của nền học vấn cổ đại đang có nguy cơ bị hỏa tai, cướp bóc, động đất, sự phát triển của văn hóa mới và sự gia tăng của văn cổ tiêu diệt… Ôi, như con biết rõ đấy, chúng ta đang sống trong một thời kì đen tối và ta hổ thẹn nói cho con hay rằng, cách đây không lâu, Hội đồng Thành phố Viên đã phải tái khẳng định là mọi tu sĩ đều phải thụ giới… Trong số các tu viện của chúng ta mà hai trăm năm trước đây từng chói lọi vẻ nguy nga thần thánh, có bao nhiêu cái đã trở thành nơi trú ẩn của những kẻ lười nhác. Dòng tu vẫn còn vững mạnh, nhưng mùi tanh tưởi từ các đô thị đang xâm lấn chốn thiêng liêng của chúng ta, các giáo dân bắt đầu phát sinh xu hướng bán buôn, bè phái; trong khu dân cư rộng lớn bên dưới kia, nơi linh hồn thánh thiện không còn chỗ ẩn náu, họ không chỉ nói ngôn ngữ thô tục mà còn dùng ngôn ngữ đó để viết sách, mặc dù những loại sách đó sẽ chẳng bao giờ lọt được vào nhà chúng ta – chúng nhất định sẽ trở thành phương tiện xúi giục của bọn tà giáo! Vì tội lỗi của nhân loại mà thế giới đang đứng chênh vênh trên bờ vực thẳm, bị cuốn hút vào chính cái vực thẳm từ vực thẳm sinh ra. Ngày mai, như Horonius đã nói, con người sẽ nhỏ bé hơn chúng ta ngày nay, cũng như chúng ta bây giờ nhỏ bé hơn những người thời cổ đại. Thế giới sẽ già cỗi đi. Nếu Chúa đã giao cho dòng tu chúng ta một sứ mệnh, sứ mệnh đó chính là ngăn chặn nhân loại khỏi rơi xuống vực thẳm bằng cách giữ gìn, bảo vệ và kế thừa kho tàng tri thức cha ông đã ủy thác cho chúng ta. Đấng Thiên Mệnh đã phán rằng, chính quyền cai trị toàn thế giới, hồi lập thế ở phương đông, khi thời gian xoay đến gần đích hoàn thiện sẽ chuyển về phương Tây, báo cho ta biết ngày tận thế sắp đến, vì quá trình diễn biến của các sự kiện đã đến sát ranh giới của vũ trụ. Nhưng cho đến khi thời hoàng kim được xác lập, cho đến khi ta chiến thắng bọn phản giáo súc sinh tanh tưởi, nhiệm vụ của chúng ta là bảo vệ kho báu của xứ đạo và gìn giữ từng lời dạy của Chúa, y như lời Ngài đã ban cho các bậc tiên tri và tông đồ, như các trường dòng hằng rao giảng, mặc dù trong các trường ngày nay, loài rắn độc của lòng tự mãn, ganh tị, ngu xuẩn đang làm tổ. Trong cảnh hoàng hôn điêu tàn hôm nay chúng ta vẫn là những ngọn đuốc sáng thắp cao trên nền trời. Và ngày nào những bức tường này còn đứng vững, chúng ta còn là người canh giữ lời Chúa dạy.
- Amen – thầy William thành kính nói – Nhưng việc này có liên quan gì đến việc cấm viếng thăm thư viện?
- William, con biết đấy, để có thể hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng và đồ sộ là làm giàu những bức tường đó, - Tu viện trưởng nói và hất mặt ra hiệu về phía tòa Đại dinh, đứng cao sừng sững nhìn xuống ngôi giáo đường – các tu sĩ ngoan đạo đã phải lao động cật lực hàng nhiều thế kỷ, theo một kỷ luật sắt. Thư viện được xây dựng theo một đồ án mà hàng nhiều thế kỷ nay chưa hề ai hay biết, kể cả các tu sĩ đi nữa. Bí mật được truyền từ cựu quản thư viện xuống đương kim quản thư viện, và tu sĩ này, khi còn sống, sẽ chỉ giáo lại cho phụ tá quản thư viện hay để nếu Tu sĩ ấy có chết bất đắc kì tử thì vẫn còn người trong dòng tu nắm được bí mật. Cả hai, tuyệt đối không được hé răng tiết lộ bí mật này. Ngoài việc nắm giữ điều tuyệt mật này, chỉ có tu sĩ quản thư viện mới có quyền đi lại trong Mê cung thư viện, biết nơi chốn và cách sắp xếp sách, và một mình Tu sĩ ấy chịu trách nhiệm bảo quản sách. Các tu sĩ khác làm việc trong phòng biên khảo và có thể biết được danh mục sách có trong như viện. Nhưng danh mục các tựa sách thường chẳng nói lên được điều gì. Căn cứ vào cách sắp xếp sách và mức độ quý hiếm của nó, chỉ có quản thư viện mới biết cuốn sách đó chứa đựng những bí mật gì, những sự thật và điều giả trá gì. Chỉ có quản thư viện có quyền quyết định bằng cách nào, khi nào, hay có nên đưa quyển sách đó cho tu sĩ nào có yêu cầu hay không; đôi khi, tu sĩ ấy hỏi ý kiến Cha trước. Nguyên do vì không phải ai cũng hiểu được chân lý, và một linh hồn ngoan đạo có thể không nhận chân được bản chất của tất cả mọi sự giả trá. Cuối cùng, mỗi tu sĩ trong phòng biên khảo có một nhiệm vụ cụ thể riêng và nhiệm vụ đó chỉ yêu cầu họ đọc một số sách nhất định chớ không phải những loại sách khác; nó không yêu cầu họ theo đuổi bất kì một sự tò mò ngu ngốc nào phát sinh từ một trí tuệ yếu đuối, lòng kiêu hãnh, hay sự xúi bậy của ma quỷ.
- Như thế, trong thư viện cũng có những quyển sách chứa đựng điều giả trá…
- Quái vật tồn tại vì chúng là một bộ phận trong thiên cơ, và trong hình thù kinh sợ của những quái vật này bộc lộ sức mạnh của Đấng Tạo hóa. Và cũng theo thiên cơ mà những loại sách của bọn phù thủy, sách pháp thuật của bọn Do Thái, truyền thuyết của những nhà thơ đa thần, những điều giả trá của bọn vô thần được tồn tại. Chính các bậc tiền bối sáng lập nên tu viện này đã thành tâm và thành kính tin tưởng hàng bao thế kỷ nay rằng đôi mắt tinh tường của một độc giả thông thái có thể nhận thấy trí tuệ thiêng liêng ngời sáng trong những quyển sách, thậm chí trong các sách giả dối. Do đó, thư viện cũng là nơi cất giữ những loại sách này. Nhưng, con hiểu cho, chính vì lý do này mà không phải bất kì ai cũng được phép vào viếng thư viện. Hơn thế nữa, - Tu viện trưởng tiếp, như thể xin lỗi về lý lẽ không được chặt chẽ cuối cùng này, - sách là một sinh vật yếu đuối, nó chịu đựng sự bào mòn của thời gian, sợ các loài gậm nhấm, kị thủy, kị hỏa, và e ngại những bàn tay vụng về, cục mịch. Nếu mấy trăm năm nay ai cũng được phép đi lại tự do trong thư viện cầm nắm các bản chép tay của chúng tôi thì phần lớn đã chẳng thể tồn tại đến ngày nay. Do đó, quản thư viện bảo quản sách chống lại sự tàn phá của cả con người lẫn thiên nhiên, tận tuỵ cống hiến cả đời mình cho cuộc chiến đấu chống lại những thế lực lãng quên, vốn là kẻ thù của Chân lý.
- Và như thế, ngoại trừ hai người, không ai đặt chân lên tầng thượng của Đại Dinh…
Tu viện trưởng mỉm cười – Không ai lên và không ai có thể đến được. Dù có muốn đi nữa, không ai có thể thành công. Mênh mông như chân lý nó gìn giữ, phản trắc như những điều giả dối nó chất chứa, thư viện tự bảo vệ mình. Hồn nó là Mê cung, đất của nó là Mê cung, người có thể vào, và rồi sẽ chẳng ra được. Cha đã nói cho con biết rồi đó, mong con tuân thủ luật lệ của tu viện.
- Nhưng Cha vẫn chưa bác bỏ giả thuyết Adelmo rơi xuống đất từ một trong các cánh cửa sổ của thư viện. Làm thế nào con có thể điều tra cái chết của nạn nhân nếu không được nghiên cứu hiện trường, nơi ta nghi là khởi điểm của cái chết đó.
- William – Tu viện trưởng nói với giọng hòa hoãn - một người đã miêu tả con ngựa Brunellus của Cha mà không cần thấy nó, miêu tả cái chết của Adelmo mặc dù không biết gì về việc đó, sẽ dễ dàng nghiên cứu những nơi người ấy không được quyền đến.
Thầy William cúi đầu – Khi nghiêm khắc, Cha vẫn rất khôn ngoan. Mọi việc sẽ theo như ý Cha muốn.
- Nếu Cha khôn ngoan ấy chính là nhờ Cha biết cách nghiêm khắc.
- Điều cuối cùng con xin hỏi. Ubertino hiện ở đâu?
- Hiện ở đây. Và đang đợi con. Con sẽ gặp Cha ấy trong giáo đường.
- Khi nào?
- Bất kì khi nào – Tu viện trưởng mỉm cười nói – Con nên biết, mặc dù Cha Ubertino rất thông tuệ, Cha lại không quý thư viện lắm. Cha xem nó như một cám dỗ của thế tục… Phần lớn thời giờ Cha ở giáo đường, tĩnh tâm, cầu nguyện…
- Cha Ubertino già lắm không? - Thầy William ngập ngừng hỏi.
- Con không gặp Cha ấy bao lâu rồi?
- Đã nhiều năm nay.
- Cha đã chán ngán xa lánh thế tục. Năm nay Cha đã sáu mươi tám tuổi. Nhưng Cha tin Cha Ubertino vẫn giữ được tinh thần thời trai trẻ.
- Con đi tìm Cha Ubertino ngay đây. Cảm ơn Cha.
Tu viện trưởng hỏi thầy tôi, xem ông có muốn cùng cộng đoàn dùng bữa trưa sau Kinh Trưa hay không. Thầy William đáp vừa mới ăn no xong, và muốn đi gặp Cha Ubertino ngay. Tu viện trưởng ra về.
Khi Tu viện trưởng vừa ra khỏi phòng thì từ phía sân nổi lên một tiếng rú nhói tim, như tiếng ai đó bị đâm chết, tiếp sau đó là những tiếng rống khác cũng kinh rợn không kém. Thầy William luống cuống hỏi: - Cái gì thế? – Tu viện trưởng mỉm cười đáp - Chẳng có gì đâu. Bây giờ là thời điểm mổ heo hàng năm. Công việc của mấy người chăn heo đó mà. Không phải loại máu con cần quan tâm đâu.
Cha bước ra. Chính ông đã tự tước bỏ cái danh hiệu khôn ngoan của mình. Vì buổi sáng hôm sau… Nhưng chớ quá nóng nảy như vậy, hỡi cái lưỡi lắm chuyện của ta. Vì trong cái ngày tôi đang tường thuật đây, và trước khi đêm xuống, đã xảy ra thêm nhiều việc khác cần kể hơn.

