Mười Ngày Ở Huế - Chương 4 (Hết)
Phần IV
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương
Cả cái hồn thơ của xứ Huế
như chan chứa trong hai câu ca ấy. Chùa Thiên Mụ là một chốn danh lam, có cái
tháp bẩy từng, ở ngay trên bờ sông Hương, làng Thọ Xương thì ở bờ bên kia.
Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng ở
giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu ca cho con trẻ hát,
ấy mới rõ cái tính tình của người xứ Huế.
Cho nên ở Huế, phong cảnh
đã xinh, những nơi cung điện lăng tẩm đã đẹp, mà dễ quý nhất là những nhân vật
của xứ Huế vậy. Tôi tiếc vì không ở được bao lâu, trong khoảng mười ngày lấy
đâu mà biết cho khắp những bậc danh sĩ cao nhân, thường là người ẩn dật, không
phải hằng ngày mà gặp được. Nhưng phàm những người tôi sở biết đều là có
cái tư cách cao thượng cả. Cầm, kỳ, thi, họa, là những ngón chơi thường
của các bậc ấy. Nay không thể biết được hết những người hay ở Huế, không thể kể
được hết những người đã từng biết, chỉ xin nói qua về một nhà nữ sử
với một vị cao tăng tôi được tiếp trong khi ở Kinh đô.
Nữ sử hiệu là Đạm Phương,
con gái Đức ông Quỳnh Quốc Công là con Đức Minh Mạnh, và là em hai Đức ông
Tùng Thiện và Tuy Lý. Nữ sử năm nay tuổi chừng ngoài bốn mươi, vợ ông Nguyễn
Khoa I..., hiệu Thanh Nguyên, thuộc về dòng dõi quan nội tán Nguyễn Khoa Đăng
đã nói trên kia. Hai ông bà đều hay thơ, thường xướng họa với nhau, có đưa cho
tôi một tập thơ chữ để đăng báo. Nhời thơ chải chuốt mà có vẻ phong nhã. Có lắm
bài làm theo lối liên hoàn, lối hồi văn khéo lắm. Phu nhân lại có làm
thơ nôm và biết chữ Pháp nữa, hiện đương tập lược dịch một bộ
tiểu thuyết tây. Tôi có mời phu nhân giúp vào báo Nam Phong thì
phu nhân cũng hứa sẽ soạn một ít thơ văn bằng quốc âm gửi ra
sau. Hiện có mấy bài sau này, giọng êm đềm thanh thoát, rõ ra tư cách nhà
thi nhân.
Hai bài “Nhớ cảnh núi”:
I
Phất phất mành Tương gió quạt lầu,
Thềm hoa xem đã bóng trăng thâu.
Bâng khuâng chạnh nhớ niềm lâm hác,
Vắng mặt Lư Sơn những mấy lâu.
II
Giậu trúc bơ thờ ráo hột mưa,
Tiếng chim dìu dặt gió hương đưa.
Hồ sen nắng hạ đà phai thắm,
Ngành cúc rừng thu tuyết điểm chưa?
Một bài “Nhớ bạn”, lối
liên hoàn:
Mảnh trăng đêm dọi bóng quanh thềm,
Bóng dọi quanh thềm giấc khó êm
Giấc khó êm vì thương nhớ bạn,
Vì thương nhớ bạn mảnh trăng đêm.
Phu nhân có một bộ di văn
của Đức ông khi xưa để lại, cả thảy hơn mười quyển, chưa từng đem in và công bố
bao giờ. Toàn là những văn nghị luận thiết thực, chớ không phải lối văn
trường ốc. Vả Đức ông về đời Thành Thái có sung đi sứ bên Pháp,
nên kiến văn rộng lắm. Khi ở Tây về, đóng cửa làm sách trong mấy năm: bộ
di văn này tức là kết quả của cái công trước thuật của ngài hồi bấy giờ.
Tôi có xin phu nhân cho phép đem in để công bố cho quốc dân biết cái tư tưởng
một bậc đại nho của nước ta. Phu nhân cũng hứa sẽ cho sao lại rồi gửi ra
sau, vì hiện chỉ có một bản muốn giữ làm gia bảo. Đức ông không sinh được
người con giai nào, nhưng được người con gái như phu nhân tưởng cũng là
xứng đáng lắm vậy.
Chính phu nhân cũng có
hai cô con gái học Pháp văn đã thông lắm. Cô nhớn hiện làm trợ giáo ở trường nữ
học Huế, năm nay sắp ra thi lấy bằng trung học. Con gái An Nam ta học chữ
Pháp mà đến được bậc trung học tưởng mới có tiểu thư là đầu, không kể
những cô đã từng học ở bên Tây về. Mấy lần tôi lại chơi, không được gặp
tiểu thư để cùng đàm luận cho biết cái trí thức một bậc nữ sinh có tài
trong nước, thực lấy làm tiếc lắm. Nghe nói tiểu thư rất hiếu học, và tính rất
phong nhã. Cứ xem một cái cách đặt tên cũng đủ biết tư cách người: phu
nhân nói tiểu thư không chịu viết tên bằng chữ Thị không được thanh nhã.
Nguyên tên họ là Nguyễn Khoa, tên riêng là Nhơn, bèn đặt tên là Nguyễn
Khoa Diệu Nhơn. Chữ diệu đó thật là khéo, mà rõ ra cái phong thú con người
yểu điệu tài tình. Mong cho sự học vấn của tiểu thư mỗi ngày một tấn ích: trong
nữ giới nước ta sau này tất thêm được một ngôi sao mới vậy.
Họ Nguyễn Khoa vốn là
người ngoài bắc, nguyên quán ở tỉnh Hải Dương. Năm Minh Mạnh mới xin nhập
tịch vào làng An Cựu, thuộc huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, gần thành
phố Huế. Mười đời giúp việc bản triều, từ thời đại các chúa Nguyễn đến
giờ. Ông thủy tổ đã từng theo đức Thái tổ Gia Dũ Hoàng đế (Nguyễn Hoàng)
từ khi còn đóng đô ở làng Ái Tử. Các con cháu về sau, hoặc làm quan văn,
hoặc làm quan võ, hoặc giúp việc ở triều đình, hoặc xông pha nơi chiến
trận, hoặc cai trị một trọng trấn, thực đã hết lòng trung thành với nước, hình
như đem cái vận mệnh riêng một nhà mà gửi thác cả vào cái vận mệnh chung
trong nước. Trong lịch sử ít có mấy họ mà mười đời thủy chung chỉ thờ một
nhà vua. Họ Nguyễn Khoa thực là có công với triều Nguyễn vậy. Vẻ vang
thay!
Cao Tăng hiệu là Viên
Thành Thượng Nhân, trụ trì chùa Ba La Mật, làng Nam Phố, cách Huế bốn năm
cây lô mét. Chùa đó của một ông quan lớn họ Nguyễn Khoa dựng ra, thượng nhân tu
ở đấy từ thủa lên bảy, nay niên tuần đã vào khoảng ngót bốn mươi. Nhờ có
ông bạn giới thiệu, tôi mới được biết thượng nhân, thực là cảm phục cái tư cách
phong nhã, tư tưởng cao thượng của người. Thượng nhân vốn là người hoàng
tộc, nên tuy ở chốn thuyền môn, mà biệt ra một cái phong độ riêng, không
giống các nhà tu hành khác. Bước chân vào trong tinh xá, tưởng như nơi văn
phòng của nhà thi nhân tao khách nào. Không phải là đồ bầy biện đẹp,
không phải là cách trang sức khéo, nhưng bởi cái khí vị riêng nó
phảng phất ở trong cái phòng ấy, khiến người khách vào chơi biết
ngay ông chủ nhân là người phong nhã tài tình. Mà thượng nhân quả là người
tài tình phong nhã thật. Nói thế tất có người lấy làm lạ mà tự hỏi có nhẽ nào
một kẻ tài tình ví như bông hoa thơm, hòn ngọc báu ở đời, lại không đem
thân ra hưởng sự phong lưu phú quí của đời mà chịu ẩn mình ở chốn cửa Phật
là cõi tịch diệt hư không; Đạo Phật là đạo xuất thế mà kẻ tài tình phải là
người nhập thế, vì cái tài tình phải ở đời mới có giá trị; ở chốn từ bi
thì nhất thiết chúng sinh đều mang nghiệp khổ, người nào tài tình lắm tất
nặng nghiệp nhiều, người mộc mạc thật thà ấy là người luân hồi nhẹ kiếp.
Tôi cũng thiết nghĩ như thế, nhưng nghĩ kĩ ra thì tôi tưởng rằng cái tài tình
tuy là vật quý của giời đất mà cách dùng mỗi người có khác nhau. Phần nhiều
người lấy tài tình như cái bả mà làm cho say mê người đời, để chiếm lấy phần
sung sướng ở đời. Nhưng cũng có người bẩm tính cao thượng, không lấy sự
sung sướng ấy làm cái mục đích ở đời, nên không muốn đem cái tài tình của
mình ra thi thố với đời, làm một vật buôn bán với đời, mà muốn dùng để đạt tới
cái cõi mầu nhiệm cao hơn cả mọi sự mọi vật ở đời, là cõi Tiên, cõi Phật, cõi
Thánh, cõi Thần. Bởi thế nên người tài tình không tất nhiên là phải nhập thế;
dẫu xuất thế mà cái tài tình cũng có dùng vậy. Viên thành thượng nhân có nhẽ
cũng vào hạng những người cao thượng ấy.
Vả xưa nay cái quan niệm
của người đời đối với người đi tu thường sai nhầm. Người đời cho đi tu là
bỏ nhà ở chùa, ăn chay niệm Phật, không biết rằng tu thế chưa phải là tu.
Người đi tu là người trong lòng khao khát một sự cao xa mà ở đời không bao giờ
tới được, hoặc vì việc đời phiền phức không để cho thư thái trong lòng mà
tìm cho tới, hoặc vì lòng mình chìm đắm ở trong bể dục mà mờ ám không trông
thấy cái chân lý ở đâu. Vậy phải ra tay cắt đứt cái dây liên lạc với đời mà đem
mình lánh ở nơi am thanh cảnh vắng, để sửa trong mình cho được trong sạch sáng
suốt mà đón rước lấy cái thú cao xa kia. Sự sửa mình ấy tức gọi là tu, chớ
không phải ăn chay niệm Phật mà là tu. Nên phàm ai có lòng thành thực khao
khát một sự cao hơn mọi sự ở đời, mà dùng hết tinh lực cho tới nơi, thì người
ấy dẫu không tu cũng là tu, mà người ăn chay niệm phật nhưng trong lòng không
có sự thành thực như thế thì người ấy dẫu tu cũng chưa phải là tu. Như thế
thì xưa nay thường nghiệm phàm người tài tình phong nhã là những người
trông thấy cái cảnh tượng thô bỉ xấu xa ở đời mà chán, khao khát muốn thoát
khỏi cõi trần tục, lên một cõi cao xa trong sạch hơn. Cái lòng khao khát
ấy chẳng phải là nguồn gốc của sự đi tu, sự xuất thế rư? Cho nên nói rằng sự
tài tình không những là không trải mà lại có nhẽ hợp với cái chủ nghĩa xuất thế
vậy.
Cái tài tình của Viên
thành thượng nhân thì không phải tìm đâu xa, cứ nghe ngay câu chuyện người
nói cũng đủ biết: mỗi nhời như ngọc nhả châu phun, mà tưởng cứ tự nhiên
thành bài thơ ứng khẩu vậy. Người thơ chữ đã tuyệt bút mà thơ nôm cũng rất
hay. Trong khi nói chuyện người thường đọc cho nghe nhiều bài;
nay sao được vài bài nôm như sau này:
Một bài “Nhớ bạn”:
Cao thấp trời chung một hạt mưa,
Ra đời vô núi cũng duyên dưa.
Mấy phen sương tuyết chồi mai nở.
Ngàn dặm tinh hoài bóng nhạn thưa.
Lò lửa nhớ chừng vầy chuyện cũ.
Bàn cờ theo buổi ngắm trà trưa.
Nghĩ người đạo khế từng qua lại,
Trăng giọi thềm rêu phải đó chưa?
Một bài “Chơi núi”:
Lững đững bên giời ngọn rớn sưa[3]
Dặng bờ thu thảo ngớt cơn mưa.
Rêu xanh đá mọc nhìn đường cũ,
Khói biếc thành xây tưởng dấu xưa.
Mây phủ dịp cầu sen ẩn tróc,
Cây lồng bóng nước cảnh thừa ưa.
Khách quen năm trước bây giờ đến.
Thử hỏi non sông đã biết chưa?
[3] Rớn ngoài
bắc gọi là giảng, là cái mây sắc đỏ vàng, sau khi mưa. Sưa là thưa.
Thượng nhân lại thường
nhận những câu hát ca dao nhiều câu rất có ý vị, người bèn dịch ra thơ chữ
tuyệt khéo mà diễn được hết cái tinh thần của câu nôm.
Như câu:
Núi cao chi lắm núi ơi!
Núi che mặt trời không thấy người thương
người dịch ra hai câu chữ
là:
Kỷ trùng lam thùy vô cùng hận,
Nhật ảnh vân già cách cố nhân.
Lại câu:
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều.
Nhớ người đẫy gấm khăn điều vắt vai,
người dịch là:
Hoàng hôn vô hạn hoàng hôn từ.
Hồng phách hà bao nhỡn lí nhân
Phi tay thi nhân tuyệt
diệu không dịch được như thế.
Nhưng thượng nhân không
những là một tay thi nhân có tài, mà lại là một nhà tư tưởng sâu sắc nữa.
Người nghiên cứu về Phật học rất thâm, cốt để giải lấy cái giáo lý, thấu
được những nhẽ mầu nhiệm của đạo Phật. Người nói chuyện với tôi rằng hiện
đã soạn được một bộ Thích ca lược sử bằng quốc ngữ mà bằng văn xuôi,
còn đương chú thích, khi nào xong sẽ gửi để đăng báo. Quốc dân
ta ngày nay đã ai chịu công nhận rằng chữ quốc ngữ có văn mà đã mấy người
chịu hạ cố viết văn xuôi; nay nghe thượng nhân nói làm sách bằng quốc ngữ
mà bằng văn xuôi, tôi có ý lấy làm lạ, người bèn đáp rằng: “Bên Gia Tô
người ta còn làm sách bằng quốc ngữ, theo như nhời nói thường, để cho nhiều
người hiểu mà dễ truyền bá đạo. Mình há lại không nên làm như thế rư?”
Nghe câu đó mà tôi mừng rằng đã có một bậc trí thức biết cho văn quốc ngữ là có
ích lợi. Thực đáng mừng mà đáng vui thay, vì cái vấn đề văn quốc ngữ ấy
vẫn là một sự khổ tâm cho tôi đã lâu nay vậy. Nhân bàn về đạo Phật, thượng nhân
khuyên tôi nên cổ võ Phật học trong báo Nam Phong, rồi người phát khởi ra
một cái tư tưởng lạ. Người nói rằng: “Đạo Phật ở nước ta sở dĩ không thịnh được
là bởi không có một cái Giáo hội như đạo Gia Tô ở các nước bên Tây. Nay
muốn cho đạo Phật thịnh hành mà có thế lực trong nước thì phải họp cả các
chùa lại, đặt một ông sư trưởng tức như ông giáo hoàng, lập lấy một cái tư
bản chung, khiến cho các môn đồ đạo Phật trong nước thành một đoàn thể
mạnh, như thế thì ích lợi cho quốc dân biết chừng nào! Ước gì vua ta chủ
trương được việc đó thì thực là phúc đẳng hà xa.” Ấy cái hi vọng của người to
tát như thế, cái tư tưởng của người cao xa như vậy. [Chúc bạn đọc sách vui
vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Tôi ngồi nói chuyện mà
không muốn đứng ra về nữa. Thượng nhân lại dắt ra xem cái vườn hoa riêng của người.
Vườn hoa xinh thay! Đáng yêu thay! Trông tưởng như một cái hoa viên trong
sách tiểu thuyết tàu vậy. Những cây, những hoa giồng trong vườn
ấy toàn là những cây cùng hoa quí cả, mà là những cây cùng hoa
các thi nhân đã từng đề vịnh cả. Người chỉ cho xem cây nào lại đọc liền
ngay câu thơ theo sau, hoặc là câu của tiền nhân, hoặc là chính của người. Nghe
những tên người đặt cho các cây hoa đó cũng đã có thi vị lắm rồi: cây này là
cây tì bà, lá như hình cái đàn tì bà, cây kia là cây mai khôi, hoa này là hoa
thập tỉ muội hồng, chậu kia là chậu túy ông lan. Chỗ thì bụi tùng, chỗ thì
khóm trúc, chỗ thì hòn núi giả, chỗ thì cành giậu thưa. Tôi có ý nhận suốt
trong vườn không có một thứ hoa gì là sặc sỡ nồng nàn, như ông bụt tây hay
mẫu đơn tàu. Cái tính tình ông chủ nhân tất cũng có cái vẻ dịu dàng mát mẻ như
chốn hoa viên ấy vậy. Người giữ đứng lại để chờ giăng lên mà thưởng nguyệt
trong hoa thì mới thú. Nhưng bữa ấy là ngày 20, đợi mãi đến khuya mà giăng chưa
mọc.
Anh em đành phải xin từ
biệt ra về, trong lòng luống những ngẩn ngơ, vì nhớ cảnh, vì nhớ người.
Thượng nhân tiễn ra đến
cửa chùa, vừa đi vừa ngâm: Chân trọng cà xa tống xuất môn...
Quý hóa thay!
*
* *
Ấy người Huế như thế,
cảnh Huế như thế. Thiết tưởng cái cảm tình của tôi với Huế cũng không phải
là quá đáng vậy. Nếu có người đọc bài này mà cũng sinh lòng yêu mến chốn Kinh
đô cũ của nước nhà, nhân đó yêu đến cả nước nữa, thì “mười ngày ở Huế” của
tôi cũng không phải là vô ích vậy.
Hà Nội, tháng 4 năm 1918
PHẠM QUỲNH
-- Hết --
Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác Sách:
Sienna – Du Ca – Tiểu Bảo Bình
(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)