Mười Ngày Ở Huế - Chương 1
Phần I
Nhân dịp tế Nam Giao tôi
có về chơi Huế, thật là phỉ cái lòng mong mỏi đã lâu nay. Sinh trưởng ở
một nơi đô hội mới, không còn tí gì là cái dấu vết cựu thời, mối hoài cổ
vẫn thường canh cánh trong lòng. Quan niệm về lịch sử nước nhà, trông quanh
mình không có cái cảnh tượng gì đủ nhắc lại những sự nghiệp nhớn nhao của
đời trước, tình ái quốc vẫn thường ngang ngang trong dạ. Nên vẫn ước ao
được về nơi Đế Đô để chiêm ngưỡng cái hình ảnh của Tổ quốc. Nay sự hi vọng
đã thành, mắt đã được trông, tai đã được nghe, tinh thần đã cảm cái hồn xưa của
loài giống, thân thể đã gội cái khí thiêng của núi sông, muốn đem những sự kiến
văn, sự cảm giác, sự tư tưởng trong mười ngày ở chốn Trường An thuật lại
cho các bạn đọc báo nghe, tưởng cũng giúp được một phần cho cái
quan niệm của quốc dân đối với Tổ quốc vậy. [Chúc bạn đọc sách vui vẻ
tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Xưa trẩy Kinh mất hai
mươi ngày, nay nhờ có xe hỏa xe hơi đi đường bộ chỉ vừa đầy hai ngày tròn.
Bắt đầu đi từ Hà Nội ngày 19 tháng 3 tây, ngày 21 tới Huế, ở Huế mười hai
ngày, ngày 2 tháng 4 bắt đầu về, chiều ngày 3 tới Hà Nội, vừa đi vừa ở vừa
về cả thảy mười sáu ngày. Đi qua mười tỉnh: Hà Đông, Hà Nam, Nam Định,
Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên; trải nhiều cảnh khác nhau: khi ruộng lúa, khi đồng cỏ, khi non
thấp, khi núi cao, khi sa mạc, khi cao nguyên, khi qua sông, khi men bể;
giải Hồng Lĩnh, núi Hoành Sơn, bến sông Gianh, truông nhà Hồ, những nơi có
tiếng to tiếng dữ ngày xưa lần lượt trình bầy ra trước mắt, chỉ khác cổ nhân là
thân không phải chịu khó nhọc mà trong khoảng hai ngày thu được một
mảnh giang sơn của cố quốc. Ở vào thời đại khai thông cũng có nhiều điều
tiện lợi, nhưng có nhẽ kém cái thú riêng của các cụ ngày xưa, thong dong bầu
rượu túi thơ, đi đến đâu đề vịnh đến đấy, chẳng quản ngày qua tháng lại,
cái thân nhàn không hệ lụy với thời gian! Ngày nay thời giờ đã coi là vật rất
quý ở đời, người đời đối với ngày giời đã sinh lòng bủn sỉn, thì cái hồn thơ
lấy đâu mà lai láng được như xưa! Cho nên điện khí, hơi nước, xe hỏa, xe hơi,
không phải là những “thi khố” thiên nhiên của giời đất.
Sáu giờ sáng ngày 19 lên
xe hỏa về Vinh, năm giờ chiều tới nơi. Từ Hà Nội đến Ninh Bình là phong
cảnh đất đồng bằng, đất bằng giời phẳng, bát ngát mênh mông, người đứng
giữa như giam mình trong cái ngục nhớn. Ai sinh trưởng ở chốn đồng bằng xứ
Bắc, từ thủa nhỏ đầy mắt chỉ là cái cảnh giời biếc ruộng xanh, song song
bất tuyệt, mới biết cái khổ lạ như cái khổ kẻ tù nhân, khao khát những
cảnh núi non cao thẳm, gò đống khi khu. Theo sách địa lý thì những bậc anh
tài hùng kiệt thường sinh ra ở gần nơi cao phong tuấn lĩnh: mắt nhìn những
cảnh tượng nhớn nhao, lòng tất rộng rãi mà trí tất cao sâu. Sách tây cũng
thường nói người Ấn Độ đời xưa sở dĩ sáng lập ra được những tôn giáo triết
lý cao thâm như đạo Thích ca, đạo Phệ đà, cũng là bởi sinh trưởng ở dưới núi
Tuyết Sơn, tinh thần thường theo ngọn núi cao mà bay bổng lên chốn không
gian vô cực. Như thế thì xứ đồng bằng hiếm người anh tuấn cũng là phải: người
đồng bằng cái trí không lên khỏi ngọn cây tre! - Từ Ninh Bình giở vào mới
thấy nhiều núi non, trước còn thấp, rồi cao dần mãi lên. Núi thường đột
khởi ở giữa cánh đồng, đá trắng mọc rêu xanh, đen đen đốm đốm, trông xa như
những mảnh thành bị tàn phá đã lâu ngày, hay là những bức tường đổ nát của
cái lâu đài khổng lồ từ thời thượng cổ. Trông những núi đó không khiếp sợ
mà chạnh thương, vì nó trơ vơ xơ xác giữa đồng, có cái hình dạng tiêu điều
như người đau đớn trong lòng: mộc thạch cũng có linh hồn chớ chẳng không!
Nhưng từ vùng Thanh Nghệ giở vào thì núi đã thấy liên tiếp nhau mà thành
từng rặng dài, đá thường lẫn đất, cỏ cây rậm rạp, không xơ xác
như những núi trên kia. Hình tròn sắc mượt, như một đàn voi cực lớn theo
nhau tự trong rừng Vạn Tượng ra đến bờ bể Đông. “Hồng Lĩnh cửu thập cửu
phong” là bắt đầu từ đấy. Xe lửa chạy nhanh, không thể đếm được có đủ chín
mươi chín ngọn không. Nhưng túng sử đếm được mà cái số hoặc nhiều hơn hay
ít kém thì có hề chi; cái tên của cổ nhân đặt vẫn là có ý vị, dẫu không đúng
cũng chẳng giảm đi chút nào. Ôi! Cái hồn thơ của cha ông!...
Đêm hôm ấy ngủ tại Vinh,
sáng hôm sau lên xe hơi đi về Đông Hà. Xe hơi có thể đi từ Vinh về Đông Hà
trong mười hai giờ, nhưng xe hỏa tự Đông Hà về Huế chỉ có một chuyến chạy
chín giờ sáng, vả Đông Hà là một nhà ga cùng tịch ở đêm không tiện, nên
ước năm sáu giờ chiều tới Đồng Hới là tỉnh lỵ tỉnh Quảng Bình ngủ đêm đấy,
sáng hôm sau đi nốt Đồng Hới về Đông Hà, vừa gặp chuyến xe lửa về Huế,
đúng mười hai giờ trưa thì tới Kinh đô. Nếu sở xe hỏa chịu đặt một chuyến bảy
tám giờ tối thì hành khách khỏi phải ngủ đêm ở Đồng Hới, khỏi phải mất nửa ngày
hôm sau, mà ước nửa đêm ngày thứ hai đã tới Kinh. Cứ xem khi ở Huế ra Hà
Nội chỉ vừa đầy hai ngày thì đủ biết: sáu giờ sáng lên xe hỏa tự Huế
ra Đông Hà, tám giờ đến Đông Hà, chín giờ lên xe hơi ra Vinh, mười giờ tối
tới Vinh, ngủ đêm ở đấy, sáng sớm mai lên xe hỏa ra Hà Nội, năm giờ chiều
tới nơi. Người yếu sức cũng hơi nhọc mệt một đôi chút, nhưng trông phong cảnh hai
bên đường đủ làm cho quên cái nỗi lưng mỏi chân chồn.
Từ Vinh giở vào đi xe hơi
là theo con đường Thiên Lý cũ gần bờ bể. Phải một quãng ở khỏi Nghệ đường
mới đắp xấu quá, hôm đi lại vừa gặp giời mưa to đêm hôm trước, đường sũng
nước thành bùn lầy, bánh xe bết xuống không đi được hành khách phải
xuống để cho phu đẩy mất năm sáu trăm thước tây. Chuyến ấy có
bốn người đi, hai vợ chồng ông quan ba với hai anh em nhà báo mình là
ông Chương Dân và tôi. Bốn người cùng lội bì bõm, nhìn nhau mà buồn cười
thay. Quan ba cùng phu nhân tính vui mà nhã nhặn, thực là một đôi bạn đi đường
quí hóa. Suốt một ngày chuyện trò ân cần vui vẻ, cùng nhau bình phẩm cái
bức tranh thiên nhiên đương bầy ra trước mắt. Đến lắm chỗ phong cảnh núi
non đẹp, phu nhân nói nhớ đến những cảnh quê hương bên mẫu quốc. Chẳng hay phu
nhân có biết hai người Việt Nam ngồi đấy trông cảnh ấy trong lòng cũng
đương vẩn vương về tổ quốc không?... Quan ba người đẫy đà, ngồi trong xe
khí chật, tủm tỉm cười mà nói: “Tôi to nhớn quá, ngồi chật mất cả chỗ, không
được thanh tú như các ông là những bậc văn nhân...” Than ôi! Câu đó cũng
là một câu nói nhã mà khiến cho chúng tôi luống những rầu lòng. Trông người
mạnh mẽ ta yếu ớt mà buồn thay cho tư cách văn nhân của giống
mình. Ngoài những khi ngồi xe như lúc này, cái tư cách ấy há đáng
người ta thèm lắm ru? Ngay khi lóng cóng lội bùn vừa rồi cũng đủ
biết cái tư cách văn nhân không đủ ra đối đãi với đời. Ngán thay!
Xe hơi đi phăng phăng như
nuốt đường, gió lộng tứ phía như đập vào mặt đập vào tai mà thành một thứ
âm nhạc riêng lẫn với tiếng phành phạch của cái máy động cơ trong xe. Người nhà
quê trong Trung Kỳ này vụng tránh xe lắm. Nghe hiệu còi không biết đứng
nép ngay vào bên đường mình đương đi, lại hình như cuồng cẳng lên mà đâm
quàng sang bên kia, hoặc cứ chạy mãi cho đến chỗ nào có cái cửa hay cái
ngõ ngang mới rẽ vào, rồi cắp nón quay lại nhìn, mặt ngơ ngác! Thường xe hại
người cũng vì thế. Nhưng mà nghĩ cho kĩ chẳng nên trách chi người nhà quê.
Phàm cái gì có hiểu, có giải được cái lý do nó thế nào thì làm mới phải đường; người
nhà quê trông cái xe hơi chạy vùn vụt, tưởng là có cái ma lực gì nó đưa đi
như mây như gió, lại không hiểu những người ngồi trong xe ấy có công việc
gì mà đến nỗi chạy bạt hơi bay tóc như lũ cuồng như vậy, nên trông thấy cái xe
đi đến kinh ngạc khiếp sợ, bối rối lên mà không biết tới lui thế
nào.
Hai bên đường xe chạy,
phong cảnh có cái vẻ buồn rầu lặng lẽ: toàn thị là một rải đất hoang, xa
xa mới có một thôn lạc năm ba nóc nhà lơ thơ; ngoài là bãi cát trắng xóa,
trong là rẫy núi xanh om. Cái xe bon bon chạy giữa tưởng như con thú rừng
lạc vào trong sa mạc; kinh hoảng mà chạy cuồng. Ngoài xa nữa là bể
khơi một mầu xanh ngắt, sóng rạt gần bờ trông như một rải bạc
trắng xóa. Phong cảnh ấy tưởng những lúc bão bể mưa ngàn, tiếng sấm trên
núi họa với tiếng sóng ngoài khơi, thì kinh hãi biết chừng nào! Hoặc buổi
chiều mặt giời đã xế, cây cỏ rầu rầu, nghe tiếng con chim lạc đàn kêu giữa
bãi trường xa, thì thê thảm biết chừng nào! Mình ngồi trong xe chạy vùn vụt, mà
trông cảnh ấy trong lòng còn lạnh lẽo thay, huống chi là những khách đường
xa, người lữ thứ đi đến đấy, tấm lữ hoài ngao ngán biết là bao!
Miền hải tần đó không
phải là cái đất người ở được. Núi tuy có cây mà là những cây cằn cọc,
không phải là cái lợi nguyên cho cư dân. Đất trộn lẫn với cát, không phải
là cái chất nuôi được giống sinh vật. Trông cây cỏ mọc đấy mà thương thay; có
lắm giống giá vào chỗ đất tốt sức nhớn được bằng cây đa cây đề, mà ở đây
không sao lên được hơn ba bốn mươi phân tây. Thực là cái cảnh sơn cùng địa
tịch vậy.
Nếu suốt đường cứ một cái
cảnh tiêu điều như thế thì mắt cũng phải chán mà lòng cũng phải ngán.
Nhưng ước nửa đường thì đến rặng Đèo Ngang. Phong cảnh ở đây mới thực là
ngoạn mục, chẳng khác gì một bức tranh sơn thủy vậy. Núi Đèo Ngang tức tên
chữ là Hoành Sơn. Ta thường dùng nhầm chữ Hoành Sơn mà dịch tên tây Chalne
Annamitique là gồm cả cái rẫy núi dài chạy dọc suốt đất Trung kỳ, theo lưu
vực sông Cửu Long, trên liền tiếp với các núi miền Thượng du Bắc kỳ, dưới đến
tận đồng bằng Lục tỉnh. Thực Hoành Sơn chỉ là một chi núi của rẫy núi nhớn ấy,
chạy thẳng ra bờ bể, chắn ngang đường Thiên Lý tự Bắc vào Kinh,
nên gọi là Đèo Ngang, Bài thơ bà huyện Thanh Quan: Bước tới Đèo Ngang bóng
xế tà... tức là vịnh núi ấy. Ngày xưa khách bộ hành đi đến đấy tất phải trèo
đèo, trèo ngược lên, rồi lại trèo dốc xuống, lấy làm một bước đường rất
gian hiểm. Khi đêm các vì sơn quân vẫn thường lẩn quất ở đấy. Ngày nay đã
có con đường chạy quanh núi như xoáy trôn ốc, xe hơi đi ước mất hơn nửa
giờ, đến lưng chừng núi trông xuống không cảnh gì xinh bằng. Thực là:
Dừng chân đứng lại giời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cảnh vui này mới bõ cảnh
buồn lúc nãy. Trên núi thì cỏ cây chen đá lá chen hoa, dưới đồng thì ruộng lúa
xanh rì dòng nước cuốn, ngoài bể thì giời nước mênh mông sắc một mầu. Đến
cửa “Hoành sơn quan” xe đỗ tôi trèo lên xem. Cửa nay đã mất cánh, rêu
mọc cỏ che. Cạnh có cái bi đinh trong khắc bài bia ngự chế của Đức Thiệu
Trị. Trông cái cửa cỏn con ấy, không thấy gì là cái cảnh tượng một chốn
“hùng quan”! Đứng đấy mà lại sực nhớ đến hai câu thơ của bà huyện:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Tuy bấy giờ không nghe
tiếng con quốc cái gia nào kêu, mà nỗi thương nước nhớ nhà như chan chứa trong
lòng.
Nghe nói gần đấy có cái
đền thờ bà Liễu Hạnh linh lắm, nhưng đường xuống dốc quá, không thể đi tới
nơi.
Khi xuống xe thấy một ông
lão già ngồi bên đường như người hành khất, hình dáng tiều tụy, không nói không
năng. Than ôi! Khoảng vắng đường dài, trên rừng dưới bể, lão ở đâu đến,
lão ngồi chi đây? Hay là lão cực nỗi đời khốn khổ, đem thân tự hiến cho
sơn quân? Thương thay!
Lúc đã xuống đến chân núi
ngửng trông lên thấy con đường mình vừa đi như một dải lụa vòng quanh núi,
khác nào như cái dây trắng buộc quả bầu xanh vậy.
Hết rặng Đèo Ngang lại
đến cái cảnh đất cát cây cằn như trước. Đi một ít lâu nữa thì tới một nơi có
tiếng dữ ngày xưa, tức là nơi truông nhà Hồ, thuộc tỉnh Quảnh Bình, làng Hồ Xá.
Truông là một khoảng đất cây cỏ rậm rạp, không có đường đi lối lại. Ngày nay
thì không có cái cảnh tượng như thế nữa, cây cỏ ở đấy cũng cằn cọc như ở
trên kia, nhưng xưa thực là một nơi sào huyệt của bọn cướp đường, khách bộ
hành lấy làm nguy hiểm hơn cả, nên đi qua đấy phải đông người mới dám đi.
Những buổi nhiễu nhũng, khách đi qua thường bị bọn cướp bắt đem vào trong xa
bóc lột, quân quan không biết đường nào mà tìm bắt, vì cây cỏ rậm
quá. Thuộc về lịch sử nơi truông nhà Hồ ấy, ở đường trong có tương truyền
truyện như sau này. Ông Nguyễn Khoa Đăng làm chức nội tán cho chúa Minh vương (1691
- 1725) nghe nói nơi truông nhà Hồ có nhiều giặc cướp, hay bóc lột khách đi
đường, bèn lập kế trị cho yên. Ông cho tải đến nơi ấy ước hai mươi cái hòm to
đóng kín, trong phục người, để giả làm một bọn nhà buôn chở đồ hàng đi qua. Đám
cướp vẫn rình ở đấy trông thấy bọn khách đông, lại nhiều đồ hàng, tưởng là
một dịp béo bở lắm, xông vào đánh cướp, rồi đem đến nơi bụi rậm chia nhau.
Trong hai mươi cái hòm ấy một cái có khoan lỗ thủng, người nằm trong ấy đi
đến đâu rắc giấy đến đấy, để cho quân lính theo sau biết đường mà tìm vào.
Đương khi bọn cướp họp lại đông đủ cả để bàn nhau chia của thì
người trong hòm đâm xổ ra, quân ở ngoài kéo ùa vào, vây bốn bề, bắt được
cả bọn, không thiếu đứa nào. Từ đấy cả miền đó được yên. Sau ông truyền cho
người bộ hành nào đi qua đấy cũng phải cắt những cây mọc bên đường. Hai
đầu đường đã để dao sẵn cho mà dùng. Cứ thế mãi, không bao lâu mà con đường
thành ra quang đãng, người đi lại giao thông như thường; từ đấy không có
tiếng giặc cướp gì nữa. - Lại gần Kinh, giáp bể, ở nơi tên là Bàu
Ngược, thuộc huyện Quảng Điền, có một cái đầm nước gọi là phá Tam Giang,
cũng có tiếng dữ lắm. Nay xe hơi không đi gần đến đấy, nhưng xưa hành
khách về Kinh tất phải chở thuyền qua đấy.
Nhất là về mùa thu mùa
đông, sóng gió nhiều, thuyền thường đắm luôn, rất là nguy hiểm, vì chỗ ấy nước
vừa sâu mà đường đi lại quanh co khúc khuỷu. Tục truyền là đấy có ba cái Sóng
thần dữ lắm. Ông Nguyễn Khoa Đăng muốn trị cho được, bèn truyền đóng một
chiếc thuyền rất vững vàng, đặt chiếc súng thần công ở trong. Ra đến giữa
phá ông nổ hai phát súng bắn tan được hai cái Sóng thần, còn cái thứ ba
thì chạy ra bể mất. Đêm hôm ấy ông cho đào liền một con sông thẳng đấy; từ
đó thuyền bé không hay đắm nữa.
Nhân hai việc tục truyền
đó mà có câu hát như sau này:
- Thương anh em cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ sợ Phá Tam Giang
- Phá Tam Giang nay rày đã cạn,
Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm.[2]
[2] Họ Nguyễn
Khoa là một vọng tộc ở tỉnh Thừa Thiên, khi ở Huế tôi có được tiếp chuyện một
ông Nguyễn Khoa, sau này sẽ kể qua cái lịch sử họ ấy, theo một bài khảo cứu
trong sách Biên tập của hội “Đô thành hiếu cổ xả”.
Xe hơi đi đến Đông Hà thì
thôi. Đấy là đầu đường xe hỏa Quảng Trị. Có một nhà ga nhỏ với năm ba cái
hàng quán con ở giữa khoảng đồng không mông quạnh. Xe hơi tới nơi, đợi ít lâu
thì có chuyến xe hỏa về Huế. Hai bên đường cũng vẫn nhiều đất rậm bỏ
hoang, chưa ra cái cảnh tượng trù mật. Xe hỏa chạy gần tỉnh Quảng Trị,
nhưng không đi qua.
Vào đến địa phận Thừa
Thiên thì phong cảnh thấy khác ngay. Làng xóm đông đúc, ruộng lúa xanh rì,
không phải đất bỏ hoang như trên kia nữa. Dẫu không biết rằng đã sắp đến
Huế, cũng đoán được rằng sắp tới một nơi đô hội nhớn. Quả nhiên ước một
giờ đồng hồ thì xe hỏa tới Kinh đô: Bây giờ vừa đúng mười hai giờ trưa...
Kể chi những nỗi dọc
đường... tới đây mới nhớ đến câu thơ ấy trong truyện Kiều, thì ra từ trên
toàn thị là những nỗi dọc đường cả, mà chính chuyện trong “mười ngày ở
Huế” chưa từng kể đến. Ôi! Cổ nhân có tính hay thơ, mà tôi đây thực là thơ
thẩn vậy. Thơ thẩn thẩn thơ, giời đã bẩm sinh cho cái tính luyến cảnh
luyến người, bình sinh đã từng biết người nào cảnh nào, những khi
hồi tưởng đến không thể dứt cho đành. Thôi thì: Dở hay cũng bởi tính giời
biết sao? Tưởng các bạn đọc báo cũng lượng cho vậy.
Từ đây xin thuật chuyện
Trường An.