Chặng Đường Mười Nghìn Ngày - Chương 18 - Phần 1
Chương 18
Trở lại đường 14 - Phước Long.
Mặc dầu đã được các anh lãnh đạo và
chỉ huy Miền phổ biến ý định và trao đổi lấy ý kiến tham gia ngay từ cuối năm
1973 đầu năm 1974, nhưng khi thực hiện trong tôi cứ rộn lên một niềm vui khôn
xiết. Đó là sự kiện Quân đoàn 4 ra đời! Bởi đây là kết quả của một nhận biết về
quy luật chiến tranh cách mạng đã trải qua nhiều năm tháng thăng trầm, thậm chí
phải trả giá khi mà cả một thời gian dài không thấy hết vai trò của đánh lớn,
trong khi đó lại tuyệt đối hóa vai trò chiến tranh du kích; chỉ thấy nổi dậy mà
không thấy đầy đủ vai trò tiến công; không thấy hết vai trò quyết định của quả
đấm chủ lực trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh. Muốn đánh lớn phải
có công cụ để thực hiện đánh lớn - đó là các binh đoàn chủ lực đủ sức đảm đương
các nhiệm vụ tiến công và phòng ngự chiến dịch, chiến dịch - chiến lược và chiến
lược.
Quân đoàn 4 ra đời là để cùng vói các
quân đoàn khác đáp ứng yêu cầu đánh lớn của giai đoạn mới - giai đoạn tổng tiến
công và nổi dậy kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Buổi lễ thành lập Quân đoàn được tổ
chức tại căn nhà đơn sơ, khu căn cứ Trung ương Cục bên bờ suối Bà Chiếm (tây
nam thị trấn Lộc Ninh mười lăm ki-lô-mét). Đông đủ các cán bộ lãnh đạo chỉ huy
- những người đã có công tổ chức ra các đơn vị chủ lực đầu tiên; đã trực tiếp
chỉ huy nhiều đơn vị; đã theo dõi từng bước trưởng thành của khối chủ lực Miền,
giờ đây lại có dịp ngồi bên nhau chứng kiến cái giây phút thật trang nghiêm và
xúc động của buổi lễ lịch sử này.
Ngoài các đồng chí Phạm Hùng, bí thư
Quân ủy Miền; Trần Văn Trà, tư lệnh; Lê Văn Tường, phó chính ủy; Nguyễn Minh
Châu, tham mưu trưởng; Trần Văn Phác, cục trưởng chính trị; Bùi Phùng, cục trưởng
hậu cần Bộ chỉ huy Miền; các đồng chí trong Bộ tư lệnh Quân đoàn(1),
còn có các đồng chí chỉ huy các đơn vị; Võ Văn Dần, Tám Tùng (Bộ tư lệnh Sư
đoàn 9); Lê Nam Phong, Tư Vinh (Bộ tư lệnh Sư đoàn 7); Út Liêm, Ba Cúc (Bộ tư lệnh
Sư đoàn 5); Hai Phong (đặc công); Năm Lê (pháo binh); Xuyên Khung, Bảy Tuất
(công binh); Tư Hải (thiết giáp), vân vân.
Các đồng chí đã lần lượt bày tỏ tình
cảm phấn khởi, tự hào về sự kiện thành lập Quân đoàn 4, như một cột mốc đánh dấu
sự trưởng thành của các lực lượng vũ trang trên chiến trường B2, có thêm sức mạnh
mới, có khả năng phối hợp cùng với các quân đoàn bạn trên chiến trường miền Nam
mở những chiến dịch tiến công hợp đồng binh chủng quy mô lớn, đánh nhanh, giành
thắng lợi trong thời gian ngắn nhất để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cách
mạng.
(1) Được
Quân ủy Trung ương - và Bộ quốc phòng phê chuẩn, Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền đã
công bố quyết định thành phần Bộ tư lệnh quân đoàn 4 gồm: Thiếu tướng Hoàng Cầm,
tư lệnh; đại tá Bùi Cát Vũ, phó tư lệnh; đại tá Nguyễn Huỳnh Ngân, phó tư lệnh
kiêm chủ nhiệm hậu cần; đại tá Hoàng Nghĩa Khánh, tham mưu trưởng, đại tá Lê
Thanh, chủ nhiệm chính trị.
Trong niềm vui đầy xúc động và ấm
cúng ấy, nhiều người trong chúng tôi đều cảm thấy có một cái gì thiếu vắng? Đó
là hình ảnh anh Thanh - anh Nguyễn Chí Thanh, một trong những đồng chí lãnh đạo
đã dành nhiều tâm huyết vào việc xây dựng lực lượng vũ trang ở miền Nam đã
không còn nữa.
Anh được cử vào Nam Bộ đúng vào thời
điểm thật sôi động, khi mà Mỹ đang chuyển từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt”
sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” với những đơn vị Mỹ được trang bị các loại
vũ khí và phương tiện chiến tranh đến “tận răng” đã có mặt trên chiến trường.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang trên xu thế phát triển nhưng cũng đầy ắp
những thử thách và khó khăn. Quán triệt ý kiến chỉ đạo của Trung ương Đảng, của
Bộ chính trị và của Bác Hồ vĩ đại; từ những thực tiễn sống động mà anh tiếp cận,
anh đã sớm hình thành một nhận thức vừa rất cách mạng nhưng cũng rất khoa học về
chiến lược tiến công chứ không phòng ngự khi quân Mỹ nhảy vào trực tiếp xâm lược
miền Nam. Và phải xây dựng lực lượng vũ trang miền Nam thành những đơn vị vững
mạnh đáp ứng yêu cầu tác chiến tập trung ngày càng lớn.
Tuy chỉ hoạt động trên chiến trường
miền Nam trong vài ba năm, song anh đã để lại trong chúng tôi những ấn tượng
sâu sắc về một cán bộ lãnh đạo có một nhiệt tình cách mạng sôi nổi; một tư duy
năng động, sáng tạo; một đức tính trung thực, vô tư; một phong cách cởi mở,
chân thành; anh luôn luôn lắng nghe ý kiến mọi người, bàn bạc dân chủ, phân rõ
đúng sai, kết luận dứt khoát.
Anh không còn nữa nhưng trong tâm tưởng
chúng tôi vẫn có hình ảnh anh, vẫn nguyện hướng theo và làm theo những tư duy
quân sự của anh trong giai đoạn cách mạng mới.
Lễ thành lập quân đoàn diễn ra nghiêm
túc, thiêng liêng, giản dị, rất gần gũi với cuộc chiến đấu.
Trong khi anh Phạm Hùng, bí thư Trung
ương Cục đọc quyết định thành lập quân đoàn và giao nhiệm vụ cho quân đoàn thì
Sư đoàn 9 đang chiến đấu quyết liệt chống lại cuộc hành quân phản kích của địch
trên mặt trận đường Bảy Ngang - tây Bến Cát; Sư đoàn 7 đang ở hướng phối hợp
cùng quân dân địa phương huyện Tân Uyên mở đợt tiến công vào khu vực bắc sông Đồng
Nai.
Để đảm bảo tính liên tục của nhiệm vụ
chiến đấu, ngay từ ngày 1 tháng 7 năm 1974, Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền đã ký
quyết định thành lập và bổ nhiệm các thành viên của Bộ tư lệnh Quân đoàn, và
trên thực tế Bộ tư lệnh Quân đoàn chúng tôi đã điều hành các đơn vị hoạt động
trên cơ sở các kế hoạch đã định trước của Bộ chỉ huy Miền và những định hướng
chỉ đạo của Bộ từ Hà Nội điện vào trước 20 ngày lễ cử hành thành lập quân đoàn
(20 tháng 7 năm 1974)
Sau chiến dịch đường Bảy Ngang thắng
lợi, các cuộc hành quân lấn chiếm của địch trên chiến trường Đông Nam Bộ chững
lại. Cũng từ đây Quân đoàn 4 có điều kiện vừa làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ vừa sẵn
sàng đánh địch lấn chiếm; đồng thời khẩn trương củng cố tổ chức, tiến hành huấn
luyện theo hướng phục vụ đánh lớn của một quân đoàn cơ động chiến dịch - chiến
lược của chiến trường B2 như Nghị quyết Đảng ủy Quân đoàn họp phiên đầu tiên đã
xác định và nêu ra các biện pháp thực hiện với những yêu cầu cụ thể(2).
(2) Nghị quyết
Đảng ủy Quân đoàn họp ngày 3 và 4/10/1974 nêu, trong xây dựng và chiến đấu cần
nắm vững sáu yêu cầu: chính trị - tư tưởng vững mạnh; chiến đấu và huấn luyện
giỏi; lao động và công tác tốt, xây dựng và quản lý chặt; kỷ luật và chính sách
nghiêm; sản xuất và tiết kiệm cao.
Từ giữa tháng 10 đến đầu tháng 12 năm
1974, sau khi được bổ sung quân số, vũ khí từ miền Bắc chi viện vào, toàn Quân
đoàn dấy lên phong trào thi đua “Quyết thắng”, tập trung vào huấn luyện nâng
cao trình độ chỉ huy tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng (lấy bộ binh làm
chủ) với quy mô trung đoàn, sư đoàn đến hai, ba sư đoàn, nhằm mục tiêu diệt gọn
từng tiểu đoàn, trung đoàn, chiến đoàn địch, tiến tới đánh quỵ sư đoàn địch; giải
phóng chi khu, quận lỵ, tiến lên giải phóng thị xã, thành phố.
Ngay sau khi kết thúc lễ thành lập
Quân đoàn 4, ngày 20 tháng 7 năm 1974, là hội nghị quân sự do Trung ương Cục
triệu tập và chủ trì. Nội dung chủ yếu bàn kế hoạch đẩy mạnh hoạt động mùa mưa
1974 và nêu một số công việc cần làm để chuẩn bị cho mùa khô tới. Cho đến đầu
tháng 10 năm 1974, kế hoạch hoạt động quân sự mùa khô 1974 - 1975 đã được Trung
ương Cục thông qua.
Đây là thời gian làm việc khẩn
trương, căng thẳng nhưng cũng rất hứng khởi, vì các điều kiện chủ quan và khách
quan, từ thực tiễn sống động và những định hướng đúng đắn của Nghị quyết Trung
ương 21, các Nghị quyết Quân ủy Trung ương tháng 10 năm 1973, tháng 4 năm 1974
đã giúp các anh lãnh đạo và chỉ huy Miền định ra bước đi cụ thể cho chiến trường
B2, làm chỗ dựa rất căn bản cho chúng tôi vận dụng thực hiện trong điều kiện cụ
thể của các đơn vị bộ đội chủ lực.
Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đã bước
đầu phác thảo kế hoạch hai năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, trong đó năm 1975
giữ vai trò “bản lề”. Dựa vào ý định đó, Bộ Tổng Tham mưu đã chuẩn bị kế hoạch
tiến công quân sự trên chiến trường B2. Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền cũng
đã vạch kế hoạch cụ thể của bước một năm 1973 cho B2, trong đó lấy đồng bằng
sông Cửu Long làm trọng điểm tiến công giành dân, giành đất song song với mở
chiến dịch Đường 14 - Phước Long.
Những nghị quyết, những kế hoạch mà
tôi được dự họp, trực tiếp tham gia hoặc được thông tin lại qua các buổi giao
ban định kỳ như đã có cái gì thúc giục trong tôi. Hơn nữa đến lúc này (cuối
tháng 9 năm 1974) công việc sắp xếp ổn định tổ chức, tiến hành huấn luyện của
quân đoàn đã cơ bản hoàn thành. Các Sư đoàn 7, Sư đoàn 9, đều tổ chức bắn đạn
thật và tổ chức diễn tập tiểu đoàn đánh địch trong công sự vững chắc, vận động
tập kích và vận động tiến công kết hợp với chốt chặn bằng lực lượng và hỏa lực
của bản thân là chính và bằng hiệp đồng binh chủng. Tất cả đang chuyển sang huấn
luyện giai đoạn ba - huấn luyện củng cố chuẩn bị cho hoạt động quân sự trong
năm 1975.
Được biết lúc này lãnh đạo và chỉ huy
Miền đang tập trung cho hướng chủ yếu đồng bằng sông Cửu Long, có ý đưa cả Quân
đoàn 4 xuống đó, đã chỉ thị cho Quân khu 8, Quân khu 9 chuẩn bị lực lượng phối
hợp.
Gặp phó tư lệnh Miền Lê Đức Anh tôi vừa
báo cáo vừa thăm dò ý định cấp trên: Quân đoàn đã ổn định về mọi mặt, Đảng ủy
chúng tôi vừa họp xác định khẩn trương hoàn thành công tác chuẩn bị, đã sẵn
sàng nhận nhiệm vụ.
Với phong cách đĩnh đạc và điềm tĩnh
quen thuộc, Phó tư lệnh Lê Đức Anh chậm rãi nói:
- Miền đã tính sẽ đưa cả Quân đoàn 4
xuống đồng bằng làm nhiệm vụ nhổ đồn bốt nhỏ, hỗ trợ cho chống phá bình định,
giành dân.
- Xuống vào thời gian nào? - Tôi hỏi.
- Để địa phương triển khai trước đã.
- Anh Lê Đức Anh nói.
- Thế thì còn đồn bốt nào mà đánh? -
Tôi hỏi tiếp.
Quê gốc Thừa Thiên vẫn còn để lại dấu
ấn giọng nói pha chất Nam Bộ càng dễ cảm nhận, nhưng anh gắn với Nam Bộ, nhất
là đất miền Đông này từ rất sớm khi anh đã phải từ quê hương vào làm phu cao su
ở đất Lộc Ninh. Anh tham gia cách mạng và vào Đảng từ trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945.
Khi Nam Bộ kháng chiến chống Pháp, Đảng
phân công anh vào quân đội, đã từng giữ chức trung đoàn trưởng thời kháng chiến
chín năm. Cả anh và tôi được Đảng giao trách nhiệm Phó tư lệnh trong Bộ chỉ huy
Miền, càng tạo mối quan hệ gắn bó và sự hiểu biết giữa hai chúng tôi trong quá
trình điều hành công việc chung. Nhưng ngay lúc này giữa tôi và anh là mối quan
hệ cấp trên cấp dưới, anh vẫn là Phó tư lệnh nhưng giữ trọng trách thường trực
thay anh Trần Văn Trà ra Hà Nội họp. Còn tôi là tư lệnh quân đoàn, là cấp dưới
của anh. Nhưng không vì thế mà mối quan hệ của hai chúng tôi bị phân cách, trái
lại vẫn rất thân mật, cảm thông, chan hòa và cởi mở.
Vì thế không đợi anh trả lời, tôi
trao đổi tiếp vừa như trình bày xin ý kiến cấp trên vừa như trao đổi những suy
nghĩ của mình trong quan hệ đồng cấp. Tôi nói:
- Ở dưới đó có Sư đoàn 5 chủ lực Miền
lại thêm Sư đoàn 8, Sư đoàn 4 vừa mới thành lập của hai Quân khu 8, Quân khu 9
cùng với lực lượng vũ trang địa phương chắc sẽ đủ sức giải quyết các đồn bốt nhỏ;
số còn lại chúng co về quận lỵ, chi khu. - Tôi hạ giọng. - Đề nghị anh cho Quân
đoàn 4 xuống đó được đảm nhận nhiệm vụ tiếp sau, vì vừa qua chúng tôi đã tổ chức
cho các đơn vị huấn luyện và diễn tập đánh theo yêu cầu này.
Nhìn anh thấy anh vẫn chăm chú theo
dõi người đang trình bày thỉnh thoảng gật gật hưởng ứng, đồng tình, nên tôi ướm:
- Đề nghị Bộ chỉ huy Miền cho Quân
đoàn đánh Đồng Xoài mở đường 14 trước đã.
- Thời gian nào? - Anh Lê Đức Anh hỏi.
- Tùy cấp trên, đánh có giữ đất đâu,
cốt để bộ đội quen, có kinh nghiệm khi xuống đồng bằng đánh chắc ăn hơn.
Được cấp trên chấp nhận, chúng tôi gấp
rút chuẩn bị. Một mặt cho đơn vị ôn luyện, tổ chức diễn tập đánh Đồng Xoài trên
sa bàn; đồng thời chỉ thị bộ phận tham mưu dự thảo kế hoạch.
Anh Trần Văn Trà xuống dự diễn tập và
duyệt quyết tâm chiến đấu của Quân đoàn.
Từ ý định chung trong kế hoạch tổng
thể mùa khô, Miền chủ trương xúc tiến triển khai các công việc để mở chiến dịch
Đường 14 - Phước Long, nhằm tạo một hành lang nối Đông Nam Bộ với Tây Nam Bộ, từ
đường 14 qua Chơn Thành, Dầu Tiếng, Vàm Cỏ Đông, tây Long An, tây Kiến Tường phục
vụ cho mặt trận đồng bằng sông Cửu Long là hướng hoạt động chính.
Cần nói thêm là, âm mưu của địch lúc
này là tiếp tục thực hiện bình định ở đồng bằng sông Cửu Long, còn ở Đông Nam Bộ
địch tập trung phòng thủ vững chắc Sài Gòn, cố thủ những nơi chúng chiếm đóng
sâu trong vùng giải phóng của ta như An Lộc, Chơn Thành, Phước Long nhằm vừa
làm bàn đạp hoạt động đánh phá hậu phương ta vừa giữ thế chúng chưa mất hoàn
toàn một tỉnh nào. Hơn nữa từ khi đường Trường Sơn được mở rộng từ Quảng Trị đến
Đông Nam Bộ, ống dẫn dầu vào tới Lộc Ninh, Phước Long trở thành cầu hành lang
chiến lược của ta thì địch càng đẩy mạnh hoạt động quân sự ở vùng này nhằm uy
hiếp khu vực dự trữ vật chất, đầu mối giao thông chiến lược của ta đi các hướng,
nhất là xuống đông bắc Sài Gòn.
Rõ ràng phải bằng mọi cách không để
cho địch thực hiện âm mưu trên. Thông qua chiến dịch Đường 14 Phước Long tiếp tục
tạo thế tạo lực trong một bối cảnh mới, có ảnh hưởng rất lớn, nếu không nói là
quyết định đến kế hoạch mùa khô 1974 - 1975 của ta.
Vì vậy việc xây dựng kế hoạch tác chiến
chiến dịch phải được tiến hành một cách hoàn chỉnh, khẩn trương.
Phạm vi chiến dịch Đường 14 từ Đồng
Xoài đến Bù Đăng, lấy Đồng Xoài là hướng chủ yếu, Bù Đăng là hướng thứ yếu; tiến
công theo phương thức binh chủng hợp thành, có tăng và pháo 130 ly chi viện.
Quân đoàn 4 là lực lượng tiến công trực tiếp các sư đoàn trực thuộc Miền, trực
thuộc quân khu và các lực lượng vũ trang địa phương phối hợp trước và trong chiến
dịch theo kế hoạch thống nhất của Miền.
Quyết tâm chiến dịch mới chỉ dừng lại
ở những định hướng lớn để kịp cuối tháng 10/1974 anh Phạm Hùng và anh Trần Văn
Trà ra Hà Nội họp do Bộ Chính trị triệu tập, trực tiếp báo cáo xin ý kiến.
Với thị xã Phước Long, trong chủ
trương tổng thể ban đầu chưa đặt ra, vì lúc này ta chưa đủ khả năng đánh trong
khi địch đông, được bố phòng cẩn mật theo thế chân kiềng Phước Bình - Bà Rá -
Phước Long để hỗ trợ cho nhau và chúng sẽ tăng cường lực lượng khi bị ta tiến
công.
Khi anh Hùng, anh Trà lên đường, ở
trong này chúng tôi tiếp tục triển khai cụ thể theo quyết tâm cơ bản được Trung
ương Cục, Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền thống nhất, có sự chỉ đạo trực tiếp của
Phó tư lệnh thường trực Lê Đức Anh.
Đảng ủy và Bộ tư lệnh chúng tôi họp
xác định nhiệm vụ của Quân đoàn trong chiến dịch tiến công này là tiêu diệt hai
chi khu một yếu khu và toàn bộ hệ thống đồn bốt địch, giải phóng Đường 14. Nếu
chủ lực địch lên thì tiêu diệt từ một đến ba tiểu đoàn, giữ vững vùng giải
phóng. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Quân đoàn để một trung đoàn giữ đường 14,
còn lại lui về củng cố, chuẩn bị cho bước hai chiến dịch.
Sau khi cân nhắc mọi mặt, Bộ tư lệnh
Quân đoàn xác định quyết tâm lần cuối: hướng chủ yếu là chi khu quân sự Đồng
Xoài hướng thứ yếu là chi khu quân sự Bù Đăng, hướng phát triển là đường 391 và
Phước Vĩnh. Đường Bảy Ngang (nơi sư đoàn 9 đang hoạt động) là khu vực ngăn chặn,
kiềm chế lực lượng cơ động quân đoàn 3 ngụy, không cho chúng lên chi viện Phước
Long khi thị xã này bị ta tiến công đánh chiếm.
Trên dưới thông suốt, tất cả các đơn
vị trực thuộc, phối thuộc, tăng cường đều bắt tay vào triển khai công việc phải
làm theo nhiệm vụ cụ thể được giao với tinh thần tích cực và hào hứng.
Thời điểm lúc này là cuối tháng 11,
yêu cầu công việc chuẩn bị đặt ra hết sức khẩn trương, làm sao đến cuối tháng
12 hoặc đầu tháng 1 năm 1975 là có thể bắt đầu.
Ngay trước khi chưa có chủ trương mở
chiến dịch, từ tháng 7 năm 1974, Quân đoàn đã dự kiến nếu chiến dịch được mở
thì Sư đoàn 7 (lúc này đang dừng chân ở đông đường 13) sẽ là lực lượng trực tiếp
tiến công căn cứ quân sự Đồng Xoài vì Sư đoàn 9 trước sau vẫn chốt giữ đường Bảy
Ngang vừa để ngăn chặn địch lấn chiếm vùng giải phóng của ta ở hướng tây bắc
Sài Gòn vừa làm nhiệm vụ nghi binh chiến dịch. Vì vậy từ cuối năm 1973, Quân
đoàn đã giao cho Sư đoàn 7 các công việc chuẩn bị cụ thể như nghiên cứu nắm địch,
tổ chức trinh sát thực địa đường 14 - Đồng Xoài. Tháng 7, rồi tháng 10 năm
1974, Sư đoàn 7 lại tổ chức tiếp hai đợt trinh sát thực địa Đồng Xoài và các
vùng phụ cận, đắp cả sa bàn căn cứ này để diễn tập thực hành tiến công.
Các kế hoạch chung và cụ thể đều đã
thống nhất, công việc chuẩn bị coi như đã hoàn thành. Việc phân công trong Bộ
tư lệnh cũng đã được triển khai: tôi phụ trách hướng Đồng Xoài, anh Bùi Cát Vũ,
phó tư lệnh phụ trách hướng Bù Đăng đang chuẩn bị lên đó chỉ đạo triển khai kế
hoạch.
Mọi việc đang diễn ra suôn sẻ, thì liên
tiếp có điện từ Hà Nội: Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp, sau cùng là đồng chí Lê Duẩn nhắc: đợt này chỉ được đánh chi khu Bù Đăng
nhưng không được sử dụng xe tăng và pháo 130 ly.
Tại sao? Một thắc mắc được nêu lên
sau khi nhận điện, không trừ một ai. Nhưng cũng không ai trả lời gãy gọn. Tiếp
đó là những cuộc tranh luận nhỏ diễn ra ngay trong cơ quan Quân đoàn bộ, sôi nổi
nhưng khó phân ranh được vấn đề! Có ý kiến cho rằng sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ,
số khác thừa nhận khó khăn nhưng từ trước đến nay nhiều trận đánh rất gay cấn,
ta chưa có tăng, có pháo hạng nặng mà vẫn hoàn thành nhiệm vụ; có anh em thì khẳng
định - đã là mệnh lệnh thì chỉ có nhiệm vụ tìm biện pháp chấp hành.
Riêng tôi không phải không biết lý
do. Qua điện của anh Giáp, anh Ba đều nhấn mạnh: cần phải tiết kiệm vũ khí, nhất
là đạn pháo mặt đất cỡ lớn để dành cho các đợt tiến công sau lớn hơn. Ta phải “vừa
đánh vừa theo dõi phản ứng của địch để kịp thời đối phó”(3). Nhưng
làm sao giải thích được cái lý do thật cô đặc nêu trong điện từ Hà Nội vào để
anh em thông suốt trong lúc này! Cứ đưa vấn đề một cách tự nhiên có khi lại
sinh thêm phức tạp. Cuối cùng tôi thấy phải quay về với nguyên tắc cơ bản “quân
lệnh như sơn” để ổn định tư tưởng anh em.
(3) Nghị Quyết
Quân ủy Trung ương, tháng 4 năm 1974.
Thắc mắc rồi cũng qua đi, có thể đã
thông suốt, có thể chỉ tạm xếp lại chờ ngày tìm hiểu, vì trước mắt có biết bao
công việc bộn bề đòi hỏi phải giải quyết. Tất cả gần như phải làm lại từ đầu Đồng
Xoài từ hướng chủ yếu chuyển thành mục tiêu kìm chế, bao vây. Bù Đăng từ thứ yếu
chuyển lên hướng chủ yếu, không gian chiến dịch có thu hẹp, tính từ cầu 11
(đông Đồng Xoài) đến Bù Đăng.
Ngày 19/11/1974, tôi điện cho Bộ tư lệnh
Sư đoàn 7: “Đánh Đồng Xoài không phải là trận mở màn nữa. Bước đầu chiến dịch,
sư đoàn chỉ có một trung đoàn đi phối thuộc với sư đoàn 8 tiến công tiêu diệt
chi khu Bù Đăng và các đồn bốt dịch trên đường 14 từ Bù Đăng đến Bù Na. Lực lượng
còn lại sẵn sàng đánh viện và sẵn sàng tiến công tiêu diệt Đồng Xoài khi có lệnh.”
Quyết tâm cuối cùng của Bộ tư lệnh
Quân đoàn nhằm thực hiện ý kiến chỉ đạo của anh Giáp, anh Ba:
- Hướng chủ yếu là khu vực Bù Đăng do
Sư đoàn 3 thiếu (chỉ có hai trung đoàn), Trung đoàn 165 (sư đoàn 7), một tiểu
đoàn đặc công (trung đoàn đặc công 429 của Miền), một đại đội địa phương huyện
Bù Đăng, bốn khẩu 120 ly, hai khẩu 105 ly, sáu khẩu pháo nòng dài 85 ly, tám khẩu
37 và 57 ly đảm trách. Một đại đội của Trung đoàn 165 làm nhiệm vụ lực lượng dự
bị.
- Hướng thứ yếu là yếu khu Bù Na do
hai tiểu đoàn (trung đoàn đặc công 429) và hai tiểu đoàn bộ binh thuộc Trung
đoàn 209 (sư đoàn 7) đảm nhận, lực lượng dự bị của hai hướng này là một tiểu
đoàn của Trung đoàn 201.
- Hướng phối hợp là chi khu Bù Đốp
(lưu vong) do đặc công tỉnh Bình Phước(4) đảm nhận.
Ngoài khu vực chiến dịch Đường 14 -
Phước Long kể trên, Quân đoàn vẫn duy trì hai khu vực hoạt động khác có liên
quan trực tiếp đến chiến dịch (xem như là khu vực phối hợp): khu vực Đồng Xoài,
do một đại đội 122 ly khống chế, các Trung đoàn 141 và 209 (sư đoàn 7) đứng
chân ở căn cứ sẵn sàng đánh địch viện lên Đồng Xoài, khu vực đường 14 và đường
Bảy Ngang do Sư đoàn 9 phụ trách, có nhiệm vụ kìm chân, ngăn chặn lực lượng cơ
động quân đoàn 3 ngụy.
(4) Theo tổ
chức chiến trường của ta, Bình Phước là do hai tỉnh Bình Long và Phước Long hợp
lại. Theo tổ chức hành chính của địch, Phước Long như các tỉnh khác, là một đơn
vị hành chính thuộc ngụy quyền trung ương Sài Gòn. Về quân sự là một tiểu khu
thuộc quân khu 3 ngụy.