Chặng Đường Mười Nghìn Ngày - Chương 11
Chương 11
Tầm nhìn qua các mùa khô.
Đầu tháng 12 năm 1965 khi chiến dịch
Bầu Bàng - Dầu Tiếng kết thúc, Bộ chỉ huy Miền giao nhiệm vụ cho sư đoàn 9:
Phát huy chiến thắng đợt một, cần gấp rút chuẩn bị củng cố đơn vị theo hướng
đánh lớn, buộc địch co lại giảm bớt sục sạo vào vùng sâu của ta.
Thay mặt Bộ tư lệnh sư đoàn, tôi đề
nghị Miền xin được chuyển địa bàn để có điều kiện đánh địch góp phần giữ vững
vùng sâu, bảo vệ thế trận có lợi cho ta.
- Ở đâu? - Bộ chỉ huy Miền hỏi.
- Đông đường 13. - Tôi trả lời.
- Đồng ý. - Bộ chỉ huy Miền chuẩn y
và nhấn mạnh. - Trước mắt sư đoàn về đứng chân ở suối Nhung để tranh thủ củng cố
đơn vị, sẵn sàng đánh địch trên đường 13, 16 nếu địch nống ra khu vực này.
Trong khoảnh khắc yên tĩnh ngắn ngủi,
gần như chưa có trận đụng độ nào giữa các đơn vị chủ lực Miền với quân viễn
chinh Mỹ, nhưng bầu trời và mặt đất Đông Nam Bộ đặc quánh những âm thanh nặng nề
của chiến tranh. Thường xuyên chúng tôi được cơ quan tham mưu Miền thông báo
máy bay B.52, cường kích, pháo bày đánh phá liên tục, ác liệt các căn cứ Dương
Minh Châu, Bời Lời, Long Nguyên, Củ Chi, Chiến khu Đ Xuyên Mộc, Hát Dịch và những
nơi chúng nghi có chủ lực ta trú quân. Tình hình đang thực sự trở nên khẩn
trương. Đối mặt với sư đoàn 5, sư đoàn 9 chúng tôi là các đơn vị sừng sỏ của Mỹ
vừa đặt chân lên chiến trường miền Đông(1) đang hối hả chuẩn bị cho
cuộc hành quân lớn. Cuộc “chiến tranh cục bộ” trên quy mô lớn đã và đang trở
thành hiện thực.
(1) Sư đoàn
bộ binh số 1 mang tên “Anh cả đỏ” thành lập năm 1917, quân số 17.530 tên, biên
chế ba lữ đoàn, năm tiểu đoàn pháo binh 105 và 155 ly, một tiểu đoàn và hai đại
đội không quân (cơ động đường không) đến Biên Hòa ngày 2/10/1965.
Sư đoàn bộ
binh cơ giới số 25 mang tên “Tia chớp nhiệt đới” thành lập năm 1941, tham gia
chiến tranh thế giới lần thứ hai ở chiến trường Châu Á - Thái Bình Dương và chiến
tranh Triều Tiên. Đây là sư đoàn được biên chế mạnh, gồm 12 tiểu đoàn bộ binh
cơ giới, 3 tiểu đoàn thiết giáp, 6 tiểu đoàn pháo 105 và 155 ly, một tiểu đoàn
không quân và nhiều đơn vị bảo đảm khác. Quân số 17.665 người.
Lữ đoàn 173
không vận (cơ động bằng máy bay lên thẳng) biên chế 4 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu
đoàn pháo 105 ly, số quân 4.313 người, đến Biên Hòa ngày 5/5/1965.
Ba ngày sau, khi sư đoàn đã tạo dựng
được cơ ngơi ăn ở ổn định, bắt tay vào việc chấn chỉnh tổ chức, củng cố đơn vị,
tôi được điện của Bộ chỉ huy Miền gọi về báo cáo kết quả chiến dịch Bầu Bàng -
Dầu Tiếng và nhận nhiệm vụ mới.
Cuộc họp có mặt đầy đủ các anh trong
Bộ chỉ huy Miền, diễn ra trong không khí phấn khởi vì chiến dịch Bầu Bàng - Dầu
Tiếng kết thúc thắng lợi.
Theo gợi ý của các anh trong Bộ chỉ
huy Miền, tôi báo cáo ngắn gọn, tổng hợp diễn biến, kết quả và chủ yếu là rút
ra những bài học về chỉ đạo chiến dịch, chỉ huy chiến đấu.
Nghe xong, các anh trong Bộ chỉ huy
Miền đều nhất trí với đánh giá thắng lợi của sư đoàn và chỉ thị sư đoàn cần tổng
hợp gấp nhưng đầy đủ những kinh nghiệm đánh Mỹ trong chiến dịch này, phối hợp với
tác huấn Miền biên soạn thành tài liệu bài bản hoàn chỉnh để phổ biến nhanh xuống
các lực lượng vũ trang ba thứ quân trước khi bước vào đợt hoạt động mới.
Tiếp theo anh Trà thay mặt Bộ chỉ huy
Miền phổ biến nhiệm vụ.
Trên cơ sở quán triệt tư tưởng chỉ đạo
của Nghị quyết Trung ương 11, 12, Nghị quyết Bộ Chính trị, Nghị quyết Quân ủy
Trung ương và kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu, được Trung ương Cục, Quân
ủy Miền phê chuẩn, Bộ chỉ huy Miền thông qua kế hoạch hoạt động quân sự đợt II
cho toàn chiến trường B2, trọng tâm là chiến trường Đông Nam Bộ, nhằm phát huy
thế chủ động, tiếp tục tấn công các cuộc phản công của quân Mỹ trong âm mưu “bẻ
gãy xương sống Việt cộng” của tướng Oét-mo-len trong mùa khô này.
Để thực hiện yêu cầu trên, Bộ chỉ huy
Miền quyết định:
- Ở hướng bắc, tây bắc sẽ do các đơn
vị chủ lực tại chỗ, bộ đội địa phương và dân quân du kích đảm nhiệm, đặc biệt
chú ý các trọng điểm Củ Chi, Hố Bò, Bến Cát.
Ở hướng bắc, đông bắc sẽ do Sư đoàn 9
đảm nhiệm gồm các tỉnh Tây Ninh, Bình Long, Bình Dương, Chiến khu Đ; Sư đoàn 5
làm nhiệm vụ đánh địch từ đông bắc đến đông nam Sài Gòn gồm các tỉnh Long
Khánh, Biên Hòa, Bà Rịa. Dồn chủ lực về hướng này vì ở đây có khả năng đánh lớn
khi quân Mỹ mở các cuộc hành quân “tìm diệt” chủ lực ta, đánh phá các căn cứ
trong đó có các mục tiêu chủ yếu là Chiến khu Đ, và mở rộng vùng kiểm soát trên
hai trục đường 13 và 15, uy hiếp hành lang Phước Long - nơi đoạn cuối của đường
mòn Hồ Chí Minh đã được nối thông, đang phát huy tác dụng; ở đó chúng ta đã tiếp
nhận hàng vạn cán bộ, chiến sĩ, hàng nghìn tấn vũ khí đạn dược từ miền Bắc chi
viện cho chiến trường Đông Nam Bộ. Với đặc điểm rừng núi ở hướng này hiểm trở,
liên hoàn có chiều sâu, một thế tự nhiên thuận tiện để thực hiện buộc địch phải
theo cách đánh của ta.
- Ở hướng Trung và Tây Nam Bộ, theo kế
hoạch của Bộ chỉ huy Miền, các trung đoàn chủ lực Quân khu 8 và 9 dồn về đứng
chân ở U Minh, Đồng Tháp vừa làm nhiệm vụ giữ căn cứ giải phóng, phối hợp với
các lực lượng vũ trang địa phương đánh phá bình định ở đồng bằng, vừa thọc sâu
tiến công địch trên đường số 4, buộc địch phải phân tán lực lượng, tạo điều kiện
cho Đông Nam Bộ là chiến trường chính chiến đấu có hiệu quả các cuộc phản công
mùa khô của địch. Quanh các căn cứ của Mỹ như Bắc Hà (Củ Chi), Lái Thiêu, Bến
Cát, chúng ta đang có kế hoạch củng cố các tổ đội du kích bám căn cứ, đánh tiêu
hao, quấy rối địch và từng bước hình thành nên những vành đai diệt Mỹ.
Với cách bố trí trên đây, chúng ta
hình thành thế trận đánh địch tại chỗ, đánh chính diện bên sườn và cả sau lưng
địch, buộc Mỹ phải bị động, phân tán, không phát huy được thế mạnh quân đông,
vũ khí nhiều và hiện đại.
Với vẻ lạc quan, tự tin, giọng nói
sôi nổi quen thuộc mà tôi bắt gặp lần đầu ở chiến dịch Biên Giới (Thu Đông
1950), anh Thanh thay mặt Quân ủy Miền nói tiếp:
- Mặc dầu vừa bị thua đau ở Đất Cuốc,
Bầu Bàng, Căm Se nhưng Mỹ đang còn rất sung sức, chúng đang còn rất chủ quan ngạo
mạn về sức mạnh trang bị vũ khí kỹ thuật hiện đại, nhất là mục tiêu “tìm diệt”
Sư đoàn 9 chưa thực hiện được nên quân Mỹ còn hung hăng. Các trận phản công sắp
tới của chúng chắc chắn có quy mô lớn cả về không gian và thời gian, với nhiều
thủ đoạn chiến thuật, biện pháp kỹ thuật hiểm hóc, tinh vi. Vì vậy, chúng ta phải
có tinh thần chiến đấu cao, dũng cảm phi thường, phải có chí khí anh hùng và
quyết tâm dời non lấp biển, đạp bằng bất cứ trở lực nào, hoàn thành bất cứ nhiệm
vụ nào, đánh bại bất cứ kẻ thù nào (Nghị quyết Trung ương 12).
Cuối cùng anh chỉ thị:
- Để thực hiện tốt đợt hoạt động này,
ngoài quyết tâm cao, Sư đoàn 9 cần gấp rút xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể,
nhưng không nên tham, mà phải tùy theo sức mình, “bảo đảm sao cho tiến công địch
mạnh và tự vệ mình tốt” (thư Bộ Chính trị).
Anh vừa nghiêm túc khi giao nhiệm vụ
vừa thân mật động viên Sư 9 kiên trì ở hướng đó, vừa khẩn trương triển khai lực
lượng sẵn sàng đánh địch, vừa chuẩn bị cho đơn vị ăn Tết ở đấy.
Cuộc họp tuy nhiều nội dung nhưng chỉ
làm gọn trong vòng hai giờ.
Tôi trở lại sư đoàn ngay sau đó, vào
lúc mặt trời lặn, chỉ còn hắt lên chân trời phía tây một ráng đỏ đậm rồi tắt
nhanh, báo hiệu ngày mai nắng càng gắt, như đổ lửa xuống mảnh đất nơi chúng tôi
đang trú quân dã ngoại.
Các anh trong Bộ tư lệnh sư đoàn phấp
phỏng chờ tin. Vì vậy khi tôi về đến nơi là cuộc họp được bắt đầu. Tôi báo cáo
toàn bộ kế hoạch của Bộ chỉ huy Miền về đợt hoạt động quân sự mới, trong đó có
nhiệm vụ cụ thể của Sư 9; nói cả tinh thần thư của Bộ Chính trị đề ngày 6/4/1965
gửi Trung ương Cục và Khu ủy 5 mà tôi được phổ biến trong cuộc họp: Khi Mỹ thêm
nhiều lực lượng và phương tiện vận chuyển cơ động, chắc chắn chúng sẽ mở nhiều
cuộc tiến công vào chiến trường rừng núi, với quân Mỹ là chính, có kèm theo
quân ngụy và quân chư hầu để cố giành chủ động, cố đạt một số thắng lợi để gây ảnh
hưởng về chính trị, hòng đẩy ta vào thế bị động. Do đó nếu ta không dùng hình
thức phản công chiến lược, phản công chiến đấu để tiêu diệt quân Mỹ và quân ngụy,
thì ta sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội và có thể lâm vào bị động.
Chủ động và khẩn trương phải đi liền
với nhau, tự nhận thức đó chúng tôi đã thống nhất một số việc cần làm ngay
trong đêm: Điều đơn vị trinh sát rời suối Nhung đi về phía tây nam đến tả ngạn
sông Bé thuộc địa phận huyện Tân Uyên, nơi đang có một số đơn vị Mỹ thuộc sư đoàn
1 nống ra cách đây bốn ngày để nắm ý đồ và hình thái đóng quân của chúng; đồng
thời toàn sư đoàn cũng chuẩn bị chuyển dịch đội hình về hướng này.
Đúng như nhận định của trên, từ đầu
tháng 2 năm 1966, địch chuyển trọng tâm hoạt động sang mũi tên thứ hai - bắc, đông
bắc Sài Gòn, thuộc địa bàn đứng chân của Sư đoàn 9.
Từ đây chúng tôi mới thực sự bước vào
thực hiện kế hoạch quân sự của Bộ chỉ huy Miền chống lại cuộc phản công chiến
lược mùa khô lần thứ nhất với mục đích “tìm diệt” mà tướng Oét-mo-len, tư lệnh
quân đội viễn chinh Mỹ ở Nam Việt Nam cho rằng bây giờ mới là thời điểm để thực
hiện(2).
(2) Các biện
pháp chiến lược của Mỹ đã thực hiện trong cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt
Nam: Biện pháp chiến lươc “tìm diệt” áp dụng từ khởi đầu chiến lược “chiến
tranh cục bộ” đến hết mùa khô lần thứ nhất, biện pháp chiến lược “hai gọng kìm”
được áp dụng từ cuộc phản công chiến lược “quét và giữ” được Abram thay Oét
mo-len đề xướng áp dụng từ Xuân 1968. Các biện pháp chiến lược quân sự của Mỹ
nhằm hai mục tiêu cơ bản: tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng và giành dân,
chiếm đất.
Mở đầu của mũi tên thứ hai bắn sang
hướng bắc, đông bắc là cuộc hành quân mang tên “Đá lăn” vào giữa tháng 2 năm
1966.
Đây là cuộc hành quân nằm trong kế hoạch
chung của cuộc phản công chiến lược, là mũi trọng yếu trong hai mũi tên ở miền
Đông Nam Bộ, nhằm mở rộng kiểm soát đường 7, chia cắt chiến khu Đ, “bình định”
khu vực Bông Trang - Nhà Đỏ, Bình Mỹ, giải tỏa áp lực của ta ở bắc Sài Gòn. Từ
mục đích có ý nghĩa chiến dịch này, tướng Oét-mo-len phải điều lữ đoàn 1 (sư
đoàn bộ binh số 1), hai chi đoàn thiết giáp, một tiểu đoàn Úc vào cuộc hành
quân. Ngoài ra địch còn đưa một tiểu đoàn công binh đi trước làm đường tỉnh lộ
2 Bình Dương - Phước Vĩnh, nhằm mở rộng vùng kiểm soát, uy hiếp các vùng giải
phóng của ta.
Ngày 22 tháng 2, địch bắt đầu đổ quân
xuống khu vực Bình Cơ, Bà Đá, Ván Hương đánh vào chiến khu Đ.
Bộ Tư lệnh Sư đoàn 9 không bất ngờ
trước hành động của địch.
Chúng tôi càng thấy tính nghiêm túc của
nhiệm vụ được giao.
Chiến khu Đ với trung tâm lúc đầu là
vùng Đất Cuốc ngày càng được mở rộng bao gồm phần đất ở đông quốc lộ 13, bắc quốc
lộ 20 (sau đó được gọi là khu A), có độ cao trung bình một trăm mét. Chiến khu
Đ ở vào vị trí lưng dựa cuối cùng của tất cả các chiến khu miền Đông và là chiếc
cầu nối B2 với đường mòn Hồ Chí Minh, rất thuận lợi cho ta mở hành lang chiến
lược, bố trí kho tàng, tập trung cơ động lực lượng. Nơi đây vừa có thể đứng tự
nhiên vững chắc, vừa có thể đánh thẳng vào đầu não địch.
“Chiến khu Đ còn, Sài Gòn mất”, đó là
điều kẻ thù lo sợ nhưng không sao tránh nổi.
Phải đánh bại âm mưu địch! Đó là điều
khẳng định. Cái khó nêu ra chỉ để suy nghĩ, tìm biện pháp khắc phục. Đó là điều
chúng tôi thống nhất trong buổi họp ban đầu, khi cuộc hành quân của địch bắt đầu
trở thành hiện thực.
Kẻ địch đang còn sung sức, kèm theo cả
cay cú khi bị thua trong đợt phóng mũi tên thứ nhất vào hướng tây, tây bắc Sài
Gòn, nên càng hung hăng. Chúng có đầu óc thực tế, chịu rút kinh nghiệm sau thất
bại trận Bầu Bàng, sau cuộc hành quân “Cái bẫy”(3). Lực lượng dồn
vào cuộc hành quân “Đá lăn” gồm mười ba tiểu đoàn (ít hơn năm tiểu đoàn so với
cuộc hành quân “Cái bẫy”), nhưng thủ đoạn thì xảo quyệt hơn nhiều. Điều này thấy
rõ trong quá trình chuẩn bị, hình thành thế bố trí.
(3) Ngày 8/1/1965,
tướng Oét-mo-len huy động trên một vạn quân thuộc sư đoàn bộ binh số 1 “Anh cả
đỏ”, sư đoàn bộ binh số 25 “Tia chớp nhiệt đới” cùng với 200 máy bay, 600 xe
quân sự, 100 khẩu pháo yểm trợ mở cuộc hành quân “Cái bẫy” đánh vào bắc huyện Củ
Chi, Hố Bò (Bến Cát) nằm trong khuôn khổ mũí tên thứ hai đánh ra hướng tây, tây
bắc Sài Gòn.
Ngày 15 tháng 2, lực lượng địch nống
ra đóng quân dã ngoại ở sở Cao su Nhà Đỏ(4) trong khu tam giác Lai
Khê - Phước Vĩnh - Tân Uyên kẹp đầu mút đường 16 nối với tỉnh lộ số 2 (Thủ Dầu
Một - Đồng Xoài).
(4) Khi Pháp
lập đồn điền cao su ở đây có xây dựng một căn nhà cho bọn quản lý giúp việc chủ
ở. Ngôi nhà gạch lợp ngói đỏ nổi bật trong một khu vực rừng cây âm u, quanh đó
chỉ là những túp lều, lán trại xiêu vẹo, lợp đủ thứ cỏ cây tạm bợ. Dân phu
trong vùng theo màu sắc mà gọi là nhà đỏ, sau thành tên địa hình, mặc dầu đến
nay ngôi nhà đó không còn nữa.
Địch ra xa căn cứ đóng dã ngoại dễ
đánh! Nhưng đánh vào đâu và kế hoạch cụ thể thì chưa có câu trả lời dù chỉ là chung
chung, vì địch ngày hoạt động nống ra càn quét, đêm co về không cố định ở đâu.
Để trả lời câu hỏi trên, sau khi thống
nhất công việc trong Bộ tư lệnh Sư đoàn, tôi và anh Thế Bôn đến tận nơi khảo
sát, mất hàng tuần vẫn chưa phát hiện được địa điểm đóng quân cố định của địch
là đâu. Phải chăng sự kiện Bầu Bàng được lặp lại ở đây? Nhưng ngày ấy - như
trên đã trình bày cùng bạn đọc - chỉ qua một đêm là chúng tôi phát hiện ra
chúng. Còn ở đây cũng thế, ngày địch càn quét đánh phá khu vực xung quanh như Cống
Xanh, Bình Mỹ, đồng thời yểm trợ cho hai tiểu đoàn công binh làm đường, đêm rút
về đóng dã ngoại bên dòng suối Bông Trang, cụ thể ở điểm nào thì chưa rõ.
Không có phép thuật nào, nhưng quả là
địch xảo quyệt. Chúng tôi không nản, bằng nhiều cách tổ chức bám sát theo dõi,
cũng phải mất mười lăm ngày mới tìm được mục tiêu. Đêm địch co cụm vẫn trong
khu vực Nhà Đỏ - Bông Trang, nằm ở đầu đường 16 nối với tỉnh lộ số 2. Điểm đóng
quân dã ngoại của địch được chia thành cụm hình vòng, liên kết với nhau được sự
chi viện hỏa lực của pháo binh và không quân nếu bị đối phương tiến công.
Mỗi cụm lấy cơ giới làm nòng cốt, tuyến
ngoài có bộ binh làm nhiệm vụ cảnh giới, tuyến trong là các cụm nhỏ kết hợp với
bộ binh và cơ giới. Nếu tuyến bộ binh bên ngoài bị chọc thủng, bộ binh tuyến
trong sẽ dựa vào cơ giới và phát huy hỏa lực của cơ giới chống lại đối phương.
Ban ngày chúng phòng ngự tương đối rộng, đêm đến thu hẹp đội hình để giữ bí mật,
bất ngờ, bảo vệ cho nhau khi bị ta tiến công.
Khác với Bầu Bàng, ở Nhà Đỏ - Bông
Trang địch đóng dã ngoại có thời gian chuẩn bị (trên dưới một tuần), địa hình
nơi đây bằng phẳng nhưng phức tạp, có nhiều bụi tre gai dày. Địch dựa vào đó đặt
tăng, thiết giáp, kèm theo rào kẽm gai tạo thành vật cản chống lực lượng xung
kích của ta. Tuy không thật kiên cố, vững chắc nhưng không thể coi thường, mà cần
phải có biện pháp khắc phục, vì đó chính là thủ đoạn chiến thuật cụm dã ngoại của
địch được áp dụng trong điều kiện cụ thể địa hình.
Ngày hôm sau Bộ Tư lệnh sư đoàn họp
thông qua quyết tâm chiến đấu, và trước khi thực hiện phải báo cáo Bộ chỉ huy
Miền xin được tiến công.
- Biện pháp đánh địch đóng quân dã
ngoại có chuẩn bị như thế nào? - Bộ chỉ huy Miền hỏi.
- Đánh phục kích. - Tôi trả lời.
- Tại sao? - Bộ chỉ huy Miền hỏi tiếp.
- Điều địch ra ngoài công sự để đánh.
- Tôi trình bày.
Bộ chỉ huy Miền chuẩn y nhưng nhấn mạnh:
- Phải khẩn trương, tổ chức tiến công
sớm, không cho địch có thời gian chuẩn bị tăng viện cho lữ đoàn 173 ở Phước
Vĩnh đánh vào chiến khu Đ. Giống như trận Bầu Bàng, dùng đội hình toàn sư đoàn
tiến công, nhưng phương châm có khác: tập kích kết hợp với phục kích.
Trước hết phải dụ địch ra ngoài công
sự theo kế hoạch của bộ phận tác chiến sư đoàn chuẩn bị được chúng tôi nhất trí
thông qua. Cử một đồng chí trung đội trưởng trinh sát thâm nhập sát hàng rào kẽm
gai, có mang theo sơ đồ dựng sẵn các vị trí cụm quân, vị trí tăng, pháo, các
mũi tiến công của ta. Khi trở ra bỏ lại túi đựng tài liệu (trong đó có bản đồ)
quai bị đứt để địch tin là ta vào trinh sát trận địa chuẩn bị tiến công, sẽ phải
thay đổi vị trí đóng quân dã ngoại.
Song song với việc làm trên, chúng
tôi cho di chuyển đội hình sư đoàn nhích gần về hướng địch. Các đơn vị triển
khai theo nhiệm vụ cơ bản được phân công: Trung đoàn 1 làm nhiệm vụ chủ yếu từ đông
bắc đánh lên; Trung đoàn 2 làm lực lượng dự bị chặn đường Phước Vĩnh, đề phòng lữ
đoàn 173 phản kích. Sẽ được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình khi địch
buộc phải xê dịch đội hình khi kế hoạch nghi binh “điệu hổ ly sơn” của ta đạt kết
quả.
Chúng tôi đang hồi hộp theo dõi, thì
được tin đồng chí trung đội trưởng trinh sát của ta khi trở ra chẳng may bị vướng
mìn hy sinh! Vừa thương tiếc vừa lo lắng. Rất có thể trận đánh không thành, cuộc
hành quân “Đá lăn” của địch được thực hiện.
Trong lúc chúng tôi đã nghĩ tới “thua
keo này bày keo khác”, thì được tin: Túi đựng bản “sơ đồ trận đánh” vẫn còn. Địch
viết thư kèm theo thi thể đồng chí trung đội trưởng được chúng đưa ra đường 16
trao trả ta. Như vậy là thế nào? Chắc chắn kế hoạch nghi binh không lộ, nhưng
sao địch lại trao trả cho ta.
Theo phép “lịch sự” hay có ý gì đây?
Dù thế nào ta cũng cần có phương án đối phó với tình thế bất trắc. Tôi nhắc anh
em trong cơ quan sư đoàn phải bình tĩnh. Giữa lúc ấy tin trinh sát báo về: có
triệu chứng địch bí mật dãn quân ra phía tây sở cao su Nhà Đỏ, đề phòng ta tiến
công, nhưng lại gần nơi ta lót ổ sẵn, một thuận lợi ngoài dự tính - kế hoạch
nghi binh “điệu hổ ly sơn” của ta có hiệu quả!
Các đơn vị khẩn trương điều chỉnh đội
hình, kịp đêm 23 rạng 24/2/1966 đồng loạt tiến công. Mở đầu là đạn súng cối,
ĐKZ 75 bắn dồn dập vào các cụm quân địch, tiếp sau là các mũi bộ binh xung
phong. Địch dựa vào hỏa lực cơ giới chống trả quyết liệt. Trung đoàn 1 đánh phủ
đầu, địch co cụm lại ở các búi tre gai, ta tiếp tục tiến công dùng hình thức tập
kích đêm, vận động truy kích địch ban ngày. Các Trung đoàn 3, Trung đoàn 1 phải
tổ chức lại đội hình, tiếp tục tiến công, chia cắt đội hình địch thành từng cụm
nhỏ để diệt chúng. Đạn ta trúng cả sở chỉ huy nhẹ lữ đoàn 1 (thuộc sư đoàn l),
đội hình địch bị rối loạn, lúng túng trước cảnh đánh gần không phân tuyến của
ta, sự chi viện phi pháo của địch bị hạn chế.
Trận đánh ác liệt kéo dài từ 22 giờ
cho đến 5 giờ sáng không dứt điểm, địch bị thiệt hại nặng. Số còn lại chúng dồn
thành hai cụm chống trả quyết liệt khi được phi pháo yểm trợ.
Thời điểm kết thúc đã đến, chúng tôi
lệnh cho các đơn vị nhanh chóng rút ra, về tập kết ở địa điểm đã có kế hoạch
trước (bên bờ suối Bông Trang)
Như vậy là thủ đoạn chiến thuật cụm
trú quân “vành đai thép” của Mỹ được hoàn chỉnh sau thất bại ở Bầu Bàng tháng
12 năm 1965 đã chứng tỏ kém hiệu lực.
Về phía ta, sau những tháng ngày thấp
thỏm chờ đợi, sau thời gian chuẩn bị căng thẳng, công phu, và sau nhiều buổi
dân chủ bàn bạc sôi nổi mà xây dựng, cuối cùng chúng tôi tìm được hướng đi, bằng
trận đánh then chốt ở Nhà Đỏ - Bông Trang, sư đoàn 9 đã góp phần trực tiếp đánh
bại cuộc hành quân “Đá lăn” trên hướng phản công mà Oét-mo-len cho là trọng yếu
ở hướng bắc Sài Gòn. Âm mưu đánh phá chiến khu Đ của Mỹ đã bị một đòn đau phủ đầu
quan trọng, ảnh hưởng xấu đến các cuộc hành quân tiếp sau trong khuôn khổ mũi
tên thứ hai phóng ra phía bắc Sài Gòn.
Ngày 7/8/1966, tướng Oét-mo-len tư lệnh
quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam lại huy động lữ đoàn 2 thuộc sư đoàn 1 bộ binh, tiểu
đoàn Úc ném vào cuộc hành quân “Thành phố bạc” tiếp tục âm mưu đánh phá chiến
khu Đ.
Cuộc hành quân đầy tham vọng của địch
được tiến hành sau khi chúng ta đã thành lập Bộ chỉ huy tiền phương thống nhất(5),
đã có kế hoạch chiến đấu phối hợp cơ bản ba thứ quân bảo vệ chiến khu Đ nếu địch
đánh vào vùng đất thánh này.
(5) Theo chỉ
thị của Trung ương Cục, tháng 2 năm 1966, Bộ chỉ huy tiền phương thống nhất được
thành lập: Hoàng Cầm chỉ huy trưởng, Lê Văn Tưởng chính ủy, Hoàng Thế Thiện phó
chính ủy, Hồng Lâm (Quân khu 7) chỉ huy phó; chỉ huy thống nhất các lực lượng
vũ trang (sư đoàn 9, lực lượng vũ trang tập trung và du kích cơ quan Bộ tư lệnh
Quân khu miền Đông, tiểu đoàn Phú Lợi) chiến đấu ở hướng bắc Sài Gòn, bảo vệ
chiến khu Đ.
Cuộc hành quân diễn ra đúng như phán
đoán của ta, và ta đã có phương án chủ động phối hợp chiến đấu bảo vệ căn cứ.
Sư đoàn 9 cơ động đánh địch ở vòng ngoài theo phương án phân công. Nhưng đánh địch
vào đâu để diệt được địch, gây rúng động chung đến cuộc hành quân, đó là những
vấn đề chúng tôi suy nghĩ tìm biện pháp cụ thể. Từ những dự kiến đã có, từ nguồn
thực hành trinh sát thực địa, Bộ tư lệnh sư đoàn quyết định tập kích quân địch ở
sở cao su Phú Lương, ở dốc Bà Thức trên đường 16, và ở khu vực Bầu Sắn nơi địch
cụm lại ngày 16 tháng 3. Các trận tập kích vào những vị trí trọng điểm ở vòng
ngoài, đã đánh thiệt hại một tiểu đoàn Mỹ, một tiểu đoàn quân Úc, bắn rơi năm
máy bay lên thắng; đồng thời hỗ trợ lực lượng vũ trang địa phương đánh địch từ
vòng trong đánh ra, đạt hiệu quả như tại căn cứ quân y, các lực lượng bảo vệ
khu loại khỏi vòng chiến đấu sáu mươi tên Mỹ.
Cuộc hành quân “Thành phố bạc” của Mỹ
không đạt được mục tiêu. Đây là một trong những thử nghiệm lớn đầu tiên về khả
năng bảo vệ căn cứ của ta trước cuộc hành quân lớn của quân viễn chinh Mỹ.
Trong cuộc phản công chiến lược mùa
khô lần thứ nhất, trên chiến trường Đông Nam Bộ, Mỹ phóng ra hai mũi tên “tìm
diệt” thực hiện không đồng thời. Sau khi mũi tên một đánh ra tây bắc Sài Gòn bị
thất bại, Mỹ dồn lực lượng chuyển sang mũi tên hai đánh ra phía bắc Sài Gòn,
nơi đây có các chiến khu lâu đời của Đông Nam Bộ, nơi có Sư đoàn 9, Sư đoàn 5
đang đứng chân theo ý đồ dàn thế, cài thế của Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ chỉ
huy Miền, sẵn sàng đánh địch khi chúng liều lĩnh phản công.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo có tính
toán chiều sâu và có tầm nhìn đi trước của cấp trên, Sư đoàn 9 đã chuyển quân
theo trù tính trước, dừng lại ở những điểm chắc chắn sẽ xảy ra những trận đụng
độ lớn, không rải mành mành, không chạy theo các đơn vị hành quân của địch, mà
tập trung vào những nơi có giá trị chiến lược, chiến dịch, nhằm vào những đơn vị
mạnh nhưng lại ở thế yếu, có sơ hở để thực hành tiến công.
Suốt tháng 1 đến hết tháng 3 năm
1966, chúng tôi triển khai đánh năm trận tiến công, trong đó biết tập trung vào
đánh thắng trận then chốt Nhà Đỏ - Bông Trang, phá thủ đoạn chiến thuật nham hiểm
của địch, cụm trú quân “vành đai thép”, góp phần đánh bại một bước quan trọng
cuộc hành quân trên khu vực mà Mỹ gọi là trọng yếu ở hướng bắc Sài Gòn; đồng thời
tham gia thử nghiệm có hiệu quả về khả năng bảo vệ căn cứ của ta trước cuộc
hành quân “Thành phố bạc” của địch với tham vọng diệt cơ quan đầu não miền Đông(6),
phá nát vùng trung tâm chiến khu Đ.
Trước hết do chúng tôi quán triệt tư
tưởng chỉ đạo của Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền, có những tìm tòi
trong vận dụng. Trong chiến đấu đã phát huy được tinh thần dũng cảm và mưu trí,
biết phối hợp các lực lượng vũ trang địa phương, nhờ đó mà tập trung được lực
lượng, thực hiện đánh lớn. Việc Sư đoàn 5 đứng quân ở hướng đông và đông nam
Sài Gòn với những hoạt động xuất sắc gây nhiều thiệt hại cho địch, làm phá sản
kế hoạch giải tỏa đường 15, sông Lòng Tàu, hút một số lực lượng quan trọng của
địch vào hướng này, tạo điều kiện thuận lợi cho Sư đoàn 9 đứng ở hướng bắc hoàn
thành nhiệm vụ, được “Trung ương Cục, Quân ủy Miền đánh giá cao thành tích đóng
góp của công trường 9 (tức Sư đoàn 9). Cán bộ và chiến sĩ của công trường phải
thấy hết giá trị của sự thành công này để quyết tâm, tin tưởng cao hơn trong
nhiệm vụ sắp tới”(7).
(6) Cơ quan
Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 7 đóng ở khu vực Cù Đinh thuộc địa bàn chiến khu
Đ.
(7) Đánh giá
của Trung ương Cục và Quân ủy Miền về hoạt động của sư đoàn 9 trong mùa khô
1965 - 1966 - Tài liệu lưu trữ tại sư đoàn 9.