Chặng Đường Mười Nghìn Ngày - Chương 03 - Phần 1
Chương 3
Những ngày đóng quân ở đình Soi Sở
chúng tôi dồn hết tâm trí vào việc chuẩn bị cho Nam tiến mà trên đã giao. Vấn đề
chỉ còn là ngày giờ cụ thể.
Ngày ấy Nam tiến là việc công khai,
không phải giữ bí mật như đi B hoặc đi Nam hồi đánh Mỹ. Bài hát Nam bộ kháng
chiến của nhạc sĩ Đỗ Nhuận chúng tôi thuộc rất nhanh, coi như bài tủ, đi đâu
cũng hát: “Tiếng súng vang sông núi miền Nam, ầm đất nước Việt Nam, ta muốn
băng mình tới phương Nam xé xác quân tham tàn...” Bài hát vừa cổ vũ tinh thần
yêu nước mạnh mẽ đối với mọi người vừa thôi thúc tính hiếu kỳ, ưa phiêu lưu mạo
hiểm của tuổi trẻ hồi đó, càng đi xa càng thỏa chí.
Hàng ngày ngoài hai buổi tập luyện
quân sự, rảnh rỗi lúc nào là chúng tôi lại bàn chuyện Nam tiến, mang cả bản đồ
ra đối chiếu các địa danh mà các đơn vị Nam tiến vào trước đã chiến đấu đánh
Pháp, diệt Pháp để quên đi những giờ phút phải chờ đợi.
Nhất là khi được tin các đơn vị Nam
tiến của ta, như: chi đội Một(1) vào Đông Nam Bộ đã đánh địch ở cầu
Bình Lợi, ngã ba Xuân Lộc, như chi đội Hà Nội đánh địch ở Buôn Ma Thuột, ở đèo
Phượng Hoàng trên đường 21 không cho chúng đánh xuống Ninh Hòa, Nha Trang, là
chúng tôi ngồi đứng không yên.
(1) Chi đội
tương đương như trung đoàn hiện nay, được tổ chức theo bốn cấp: đại đội (tương
đương với tiểu đoàn), trung đội (tương đương với đại đội), phân đội (tương
đương với trung đội).
Sự háo hức Nam tiến được báo trước và
có chuẩn bị của chúng tôi đã không thành sự thật!
Đó là vào một buổi sáng đầu tháng 11
năm 1945, anh Phạm Ngọc Mậu(2) được cấp trên phái xuống thăm và phổ
biến nhiệm vụ mới. Chợt thấy, chúng tôi ùa nhanh ra vây quanh anh ngay giữa sân
đình tranh nhau hỏi tin tức: Các đơn vị Nam tiến hiện nay thế nào, đã đến nơi
chưa, đánh được mấy trận, ở đâu? Tại sao mặt trận Buôn Ma Thuột, mặt trận Nha
Trang lại bị thủng? Hình như anh không chuẩn bị nói những điều chúng tôi hỏi,
những tin tức chúng tôi cần biết và biết cụ thể? Anh chỉ chung chung trả lời:
(2) Anh Phạm
Ngọc Mậu sau này là Thượng tướng Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị.
- Quân ta đã vào đến nơi rồi, chi đội
Hà Nội cùng với các đơn vị Nam tiến của tỉnh Nghệ An, Quảng Ngãi đang vây hãm địch
ở thị xã Buôn Ma Thuột, chặn chúng ở đèo Phượng Hoàng.
Không ai khởi xướng, tất cả đều vỗ
tay hoan hô, đồng thanh hát bài Nam Bộ kháng chiến, vừa hát vừa gõ nhịp bằng
tay rất đều với khí thế phấn khởi và sẵn sàng.
Đợi khi đơn vị ngồi vào vị trí quy định,
tất cả trật tự theo lệnh chung, anh Mậu bước ra nói chuyện, như tâm sự thì đúng
hơn. Ngay từ lời mở đầu, linh cảm như mách bảo người nghe thấy có cái gì khác
thường, không như dự đoán của mọi người. Càng về sau anh chuyển suy nghĩ của
chúng tôi sang một hướng khác thật đột ngột, bằng một câu kết thật vui:
- Không Nam tiến thì Tây tiến. - Lướt
nhìn nhanh hàng quân như thăm dò, anh hắng giọng nhấn mạnh. - Chỉ khác hướng chứ
không khác nhiệm vụ.
Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau dò hỏi:
Tây tiến là đâu, làm nhiệm vụ gì.
Hơi sững lại vì cái hướng thỏa chí
tang bồng đã hình thành trong nếp nghĩ bấy lâu nay không được thỏa nguyện.
Nhưng ngày ấy tinh thần yêu nước trỗi dậy mạnh mẽ trong lớp trẻ chúng tôi, gạt
nhanh đi những cái gì là riêng tư, sẵn sàng đi vào nhiệm vụ mới.
Tây tiến mà sau đó chúng tôi được phổ
biến là tỉnh Sơn La và Lai Châu - một vùng suối sâu, đèo cao, rừng rậm, dân
thưa và đói nhưng lại lắm giặc giã, bất an. Ở Sơn La lúc ấy cơ sở Đảng và đoàn
thể cứu quốc yếu nên ta phái một đại đội và hai trung đội từ Sơn Tây, Phú Thọ
lên phối hợp với tự vệ địa phương cướp chính quyền. Còn ở Lai Châu, ta chưa tổ
chức được các đoàn thể cứu quốc, chưa có cơ sở Đảng, chính quyền còn nằm trong
tay bọn Quốc dân đảng và tay sai Nhật. Tháng 10 năm 1945, đại diện Chính phủ
lên thương lượng lập chính quyền cách mạng nhưng không thành công.
Hai tiểu đoàn Pháp chạy dạt sang Vân
Nam (Trung Quốc) sau ngày Nhật đảo chính (9/3) nay trở lại Lai Châu. Tên thổ ty
Đèo Văn Long đưa Pháp về chiếm thị xã vào đầu tháng 11 năm 1945, lăm le chờ
thêm tàn quân của A-léc-xăng-đri (tướng chỉ huy quân Pháp miền Bắc Đông Dương)
tăng viện cũng từ Vân Nam tràn về, chiếm đóng trở lại hai tỉnh phía tây này.
Nhận thức được âm mưu thâm hiểm của kẻ
địch, tháng 11 năm 1945, Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Tây Bắc
và giao cho Bộ Tổng Tham mưu điều động lực lượng, tổ chức chiến đấu.
Tình hình thật khẩn trương. Trên thực
tế lúc này, ở hai đầu đất nước, Sài Gòn và Lai Châu đang trực tiếp đương đầu với
quân đội Pháp trở lại xâm lược lần thứ hai. Nhưng đồng bào Lai Châu thiệt thòi
là không được biết, không hình dung cái cảnh tưng bừng đón nhận cuộc sống độc lập,
tự do dù chỉ một giờ.
Thực hiện mệnh lệnh điều quân của Bộ
Tổng Tham mưu mà anh Phạm Ngọc Mậu vừa trực tiếp xuống giao, đại đội Lê Thám
chúng tôi khẩn trương chuẩn bị, ai quê Hà Nội được về thăm, hai mươi tư giờ sau
phải có mặt, còn những người lính gia đình ở xa như tôi thì nằm liền tại đơn vị
để kịp ngày lên đường. Từ đình Soi Sở rẽ sang Xuân Mai theo đường số 6 ngược thị
xã Hòa Bình, vượt Dốc Cun đến Mộc Châu bắt vào đường số 41 (nay là đường số 6)
chúng tôi tới Sơn La vào đầu tháng 12 năm 1945.
Lại nhắc đến đường số 41! Với đồng đội
của tôi - những chàng trai trẻ Hà Nội mới lên lần đầu chỉ có cảm tưởng chung
sao đường dài và lắm dốc thế! Còn với tôi lại khác, nỗi buồn và niềm vui xen lẫn
theo suốt chặng đường hành quân. Cách đây không lâu, bị bọn chỉ huy quân đội
Pháp đưa đi trên đường này làm lính thú sống kiếp lưu đày, hàng ngày nhận những
khinh miệt của người da trắng. Vậy mà hôm nay mới chỉ sau mấy tháng cuộc đời đã
khác. Tôi đã đứng trong đội ngũ vệ quốc quân đi trên con đường của ta, sống giữa
tình đồng đội bình đẳng, chan hòa và nhân ái. Thật bất ngờ và xúc động.
Sơn La, cái thị xã yên tĩnh, nhỏ bé bỗng
nhộn nhịp hẳn lên, đầy ắp những đơn vị theo lệnh điều quân của cấp trên đã có mặt
trước chúng tôi. Đó là các đại đội vệ quốc quân của tinh Bắc Giang, Hà Nội, Sơn
Tây, Nam Định, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Hà Nam, Ninh Bình, cùng với hai đại đội, hai
trung đội của Sơn Tây, Phú Thọ lên trước tham gia cướp chính quyền, sau đó tổ
chức thành chi đội 90 Sơn La (sau đồi thành trung đoàn 148) do anh Lê Trọng Tấn
làm chi đội trưởng, sau thêm các anh Hoàng Mười, Phùng Thế Tài.
Tình hình lúc này thật căng thẳng. Đến
giữa tháng 12 năm 1946, có thêm tàn quân của A-léc-xăng-đri từ Vân Nam về tăng
viện lên tới 5.000 tên, quân Pháp mở nhiều cuộc hành quân tái chiếm. Từ Lai
Châu theo đường số 41 thọc xuống Tuần Châu, Tuần Giáo, chi đội Sơn La bước vào
chiến đấu chống trả quyết liệt với quân Pháp suốt ba ngày đêm ở Chiềng Pắc,
không cho chúng thực hiện ý định chiếm khu vực này; tập kích địch ở Chiềng
Cang, Chiềng Khuông, chặn không cho chúng đánh về hướng Sơn La, đồng thời lần
lượt quét bọn Quốc dân đảng tay sai của Tưởng Giới Thạch ở hữu ngạn sông Đà.
Cũng thời gian này, trung đội tôi được
lệnh tách khỏi đội hình đại đội, cấp tốc lên Quỳnh Nhai với nhiệm vụ chặn quân
Pháp có thể từ phía Lai Châu dùng thuyền, mảng thả xuôi theo sông Đà đánh vào
Sơn La từ hướng đông bắc. Lúc này tôi được giao quyền trung đội trưởng.
Do kiến thức quân sự quá ấu trĩ,
chúng tôi chẳng hề để ý tìm hiểu địch, ta cụ thể như thế nào, địa hình, địa vật
và dân tình ra sao, lòng yêu nước là chất men say, là sức mạnh, nhận lệnh là đi
liền, chẳng biết khó khăn nguy hiểm là gì.
Thực ra bối cảnh lúc đó rất phức tạp.
Sơn La đã yếu, thì Quỳnh Nhai - một huyện địa đầu phía bắc (giáp Lai Châu) của
tỉnh là địa phương yếu nhất, gần như chưa có gì. Chỉ vẻn vẹn có ba cán bộ huyện,
trong đó có anh Liêm chưa phải Đảng viên được cử xuống làm nhiệm vụ dẫn đường
và phiên dịch tiếng Thái khi đơn vị tiếp xúc làm công tác vận động quần chúng.
Nhưng Quỳnh Nhai là một vị trí quân sự
xung yếu nằm bên tả ngạn sông Đà, trong đợt tiến công mở rộng vùng chiếm đóng,
đầu tháng 12 địch đã có một mũi từ Phong Thổ (Lai Châu) thọc xuống Quỳnh Nhai,
có ý thăm dò địa thế và lực lượng ta, chuẩn bị chiếm đóng tiếp sau.
Quãng đường Sơn La - Quỳnh Nhai dài
trên sáu mươi lăm ki-lô-mét mà chúng tôi phải đi nhiều ngày. Vượt sông Đà sang
Mường La quẹo hướng Bắc. Từ đây cứ vạch lá, cắt rừng mà đi, tránh mọi con đường
sẵn có, kể cả đường mòn, cốt bịt mắt địch không cho chúng phát hiện dấu vết.
Sang ngày thứ năm thì đơn vị mới đến địa điểm quy định. Thật là tốc độ con rùa!
Nhưng điều đáng buồn và kèm theo cả nỗi lo - là không hoàn thành nhiệm vụ, vì địch
đã đến Quỳnh Nhai trước chúng tôi hai ngày. Lý do đến chậm còn vì dọc đường
chúng tôi mải đánh bọn Quốc dân đảng, ham lấy súng đạn của chúng.
Nhân đây xin lưu ý bạn đọc, dù lúc ấy
chúng tôi có đến trước cả chục ngày cũng không bớt khó khăn, không tăng thêm lực.
Với một trung đội, vũ khí lại thiếu,
chỉ vài ba khẩu súng trường kiểu cổ, đạn lại ít, họa may cầm chân địch vài ba
ngày, diệt dăm bảy tên địch là đạt yêu cầu, còn be bờ không cho địch đánh xuống
Sơn La thì quả là khó.
Xin được trở lại câu chuyện - những
ngày ở Quỳnh Nhai.
Phát hiện thấy dấu vết đối phương, địch
bu lại bao vây, hất chúng tôi lên núi, thấy hướng đông sáng, chúng tôi leo tiếp.
Nhưng qua mười ngày vẫn không vượt khỏi.
Càng lên cao, rừng cây càng rậm rạp, sương mù đặc quánh che phủ, chẳng còn phân
biệt được ngày đêm, buộc phải tụt xuống quay lại đường cũ. Khi lên chồn chân,
lúc xuống mỏi gối, nhưng tốc độ có nhanh hơn. Sau này đọc thơ Tây tiến của
Quang Dũng, tôi mến phục anh đã nói hộ chúng tôi về những ngày bị địch dồn lên
núi:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời,
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”
Đúng! Lần đầu chúng tôi đối mặt với
thiên nhiên nghiệt ngã miền Tây, đã vượt qua và có cả mất mát.
Xuống đến chân núi, chúng tôi bí mật
tổ chức đột nhập vào đồn địch lấy thuyền rồi nhanh chóng trở về hữu ngạn sông
Đà, tạm dừng lại Bắc Ma, Bản Uẩn. Không có ý định ban đầu nhưng đến nơi thấy
vùng này dân đông, đời sống khá, địa thế chiến đấu tốt nên quyết định trụ lại.
Thoạt đầu đến ở nhà tổng đoàn vì thấy nhà cửa rộng, thóc gạo lại nhiều có thể vận
động họ giúp đỡ. Được vài hôm thấy chủ nhà lúc nào cũng giương mắt cú vọ theo
dõi chúng tôi, vểnh tai nghe chúng tôi bàn chuyện, chỉ vui lấy lòng bề ngoài.
Thấy vậy, tôi quyết định tách ra, phân tán nhỏ từng tổ đóng rải ra từng gia
đình, giúp đỡ nhân dân tăng gia sản xuất, và tuyên truyền vận động gây cơ sở
trong nhân dân. Vừa tổ chức sắp xếp lực lượng vừa tổ chức chiến đấu, trước hết
là tìm cách bắt lính gác lấy súng.
Một tổ được phái đến điều tra, các hoạt
động của số lính từ Quỳnh Nhai đưa sang gác phía bên này sông. Sau khi nắm được
quy luật thay gác đổi gác, tôi cử một nửa tiểu đội gồm những anh em biết võ phục
sẵn, chờ phiên đổi gác cuối cùng trong ngày là khởi sự. Yên ắng và nhanh gọn,
anh em đã tóm được bốn tên, thu bốn súng. Trận thắng lần đầu và cũng là trận thắng
cuối cùng đánh theo kiểu này, anh em phấn khởi, cả đêm hôm đó thật vui. Đủ các
thứ chuyện được ôn lại, nhớ lại có cả chuyện tiếp tục bắt lính gác. Nhưng làm
gì có chuyện đó nữa, vì hôm sau địch lùng sục xung quanh và trạm gác này cũng
không còn nữa.
Cuối tháng 3, địch từ Lai Châu mở nhiều
mũi tiến công xuống Sơn La, trận chiến đấu giữa ta và địch càng trở nên ác liệt.
Các đơn vị của trung đoàn Sơn La chặn đánh quyết liệt với quân Pháp trên hướng
đường số 41, đèo Pha Đin, ta diệt 50 lính Pháp ở Bản Mo, Mường Sài, nhưng vì địch
đông, lực lượng ta có hạn, chúng lần lượt chọc thủng các tuyến chốt chặn của
ta, đánh chiếm Thuận Châu, Mường Hung, Sốp Cốp, Chiềng Cang (bắc Sơn La) sau là
Chiềng Khiêng, Bản Hót uy hiếp nam tỉnh Sơn La. Ở Quỳnh Nhai, địch theo đường
sông Đà đánh xuống Mường La, càn quét các vùng xung quanh mở rộng khu vực kiểm
soát, uy hiếp Sơn La từ hướng đông bắc, chia cắt giữa chúng tôi với trung đoàn.
Thế là trung đội tôi bị bao vây, mất
liên lạc với cấp trên từ đây. Khoảng cách không xa, nhưng lúc đó đâu có phương
tiện thông tin hiện đại như bây giờ. Muốn tổ chức liên lạc bằng chạy bộ cũng
không đơn giản. Cần người xung phong nhận nhiệm vụ có ngay, nhưng biết chúng
tôi ở đâu mà tìm. Muốn hỏi, đi cả ngày đường cũng không tìm đâu ra người mà hỏi.
Lúc đầu anh em hoang mang, cá biệt có
anh em than thở: “Thế là rắn đã mất đầu!” Nhưng rồi chúng tôi tự chấn chỉnh, tự
động viên ổn định tư tưởng cho nhau. Ta vẫn đang tồn tại, có dân che chở, giúp
đỡ, lực lượng còn và có thêm súng so với lúc mới lên.
Từ những suy nghĩ ấy, chúng tôi xốc lại
đội hình, luôn thay đổi hoạt động, không ở đâu lâu một chỗ, không công khai đối
đầu với địch, mà lúc tập trung, lúc phân tán, nay ở Xuân Nha, Ma Téng, mai xuống
Mường Hinh, Tạ Bú, tập kích vào những đơn vị nhỏ lẻ, phục kích đón lõng đánh
các toán nhỏ tuần tra, những tốp cảnh giới những chòi gác. Cứ thế nay diệt một
tên địch, mai thu một khẩu súng, dăm chục viên đạn, vài ba quả lựu đạn; ngày
kia tiếp nhận thêm đội viên mới người địa phương tự nguyện tham gia vì được anh
em trong đơn vị tuyên truyền vận động.
Niềm vui về thành tích “năng nhặt chặt
bị” này cứ ngấm dần, tạo thành lòng tin giúp chúng tôi vượt khó khăn tiến lên.
Nhưng trung đội vẫn không quên nỗi buồn,
nó cứ canh cánh bên lòng. Đó là trường hợp anh Liêm, người con của Quỳnh Nhai,
người trợ thủ đắc lực của đơn vị những ngày đầu khi vào trận. Anh bị Tây bắt do
có sự sơ suất của chúng tôi. Hôm ấy là một ngày cuối tháng 3, đơn vị chuyển
quân đến Mường Hịch để vừa chiến đấu chống địch càn quét bảo vệ nhân dân, bảo vệ
mùa màng, vừa làm công tác vận động quần chúng tham gia kháng chiến. Theo kế hoạch
toàn đơn vị ém quân ở sườn núi sau bản đề phòng địch đánh úp, anh Liêm cùng với
cơ sở địa phương vào các nhà dân giải thích chính sách vận động quần chúng tham
gia kháng chiến, ủng hộ bộ đội. Là người địa phương, anh Liêm làm nhiệm vụ này
rất có kết quả. Đi đến đâu quần chúng cũng dễ gần, dễ trò chuyện, dễ tiếp thu
những điều giải thích rất mộc mạc dễ hiểu của anh. Trong sự che chở, đùm bọc và
giúp đỡ của nhân dân đối với đơn vị, anh là người có công lớn. Bất thần địch ập
tới (sau này tôi được biết do tên tổng đoàn đã bí mật cho người đi báo Tây) bắt
anh Liêm. Thấy động dưới bản, tôi cho đơn vị vận động xuống thấp nổ súng tiến công,
địch hoảng hốt vừa bắn trả vừa rút chạy. Linh tính biết anh Liêm gặp nguy, tôi
lệnh cho một tiểu đội rẽ trái chạy vượt lên, cứu anh Liêm. Nhưng đã muộn, đến
nơi địch rút và anh Liêm cũng không còn nữa! Đồng bào nói Tây nó bắt cán bộ
Liêm rồi. Tôi sững lại như muốn khóc. Vì mất anh là một thiệt thòi lớn cho đơn
vị lúc này. Đêm đó và cả những ngày sau, tôi như người hụt hẫng, buồn thương nuối
tiếc anh Liêm cứ luôn ở bên tôi, nhiều đêm không sao ngủ được. Tôi tự trách
mình sơ suất, nếu hôm đó tổ chức cảnh giới tốt, có một tổ đi cùng anh Liêm thì
đâu đến nỗi này! Mãi đến năm 1990, anh Liêm từ Sơn La về Hà Nội gặp tôi, báo đã
thoát tù trở về. Gần năm mươi năm mới gặp lại nhau, cả hai đã già, đều trở
thành ông nội, ông ngoại. Nhưng những giờ phút gặp lại không ngờ này khiến
chúng tôi trẻ lại, bao kỷ niệm cũ dồn nén được bung ra, trong đó vẫn xoay quanh
những ký ức khó quên về những ngày sống ở Quỳnh Nhai. Tôi nhận lỗi do sơ suất để
anh bị địch bắt, phải sống những ngày gian truân. Anh không nói, chỉ cười thật sảng
khoái: “Gặp lại nhau thế này là quý rồi!” Đó là điều anh đã cảm thông, gỡ cho
tôi nỗi ân hận, day dứt bấy lâu.