Hồn Bướm Mơ Tiên - Chương 09 - 10

=9=

Trên sườn đồi, nhìn về
phía tây, nương chè nằm phơi dưới nắng gay gắt mùa hè. Sau trận mưa hôm qua,
các lá sạch hết bụi, như có người lấy khăn lau đi một lượt, lóng lánh phản
chiếu ánh thái dương, bóng loáng tựa trăm nghìn chiếc gương bầu dục.

Dựa lưng vào gốc một cây
chè cỗi, cành lá rườm rà, bên cạnh cái rổ không, Lan ngồi ngẫm nghĩ đến những
sự xảy ra từ tối hôm trước, vẻ lo buồn in trên nét mặt rầu rầu. Lan đâm đâm
nhìn trời, lâm râm khấn Phật tổ, xin ngài xuống cứu vớt tấm linh hồn sắp đắm
đuối. Bỗng có tiếng động bên mình. Lan giật mình quay lại: Con vành khuyên
đương lách tách nhảy trên cành lá rậm. Lan ngắm nghía con chim nhỏ, xinh xắn
mượt lông, rồi giơ bàn tay ra vẫy. Con chim sợ hãi bay vụt, tiếng khẽ sột soạt
trong lá. Lan thở dài, nói một mình:

- Trốn, thế nào cũng phải
trốn.

Sáng hôm ấy ở chùa Long
Vân về, hai người cùng nhau chỉ trao đổi một vài câu vơ vẫn. Lan chưa hiểu ý
bạn định xử trí ra sao, chẳng biết bạn có về Hà Nội ngay như đã hứa lời không?
Ngọc có lòng quân tử, nhưng đứng trước ái tình, bạn có giữ mãi lòng quân tử ấy
không? Hay là bí mật kia sẽ bị khám phá? Cái đó cũng chưa biết chừng. Lòng
người,... Ai hiểu được lòng người!

Lan đưa mắt ngắm phong
cảnh quanh mình. Lòng hoài nghi man mác đến cả cỏ, cây, mây, nước. Cúi nhìn
giòng bạc lấp lánh dưới chân đồi quanh co uốn khúc, rì rì lướt giữa dọc cát
vàng: Trong cảnh êm đềm ấy, biết đâu không ẩn núp những loài rắn độc hại người.
Cho chí đám mây dịu dàng theo chiều gió thổi, làn khói lờ đờ bay lẩn lá xanh,
biết đâu không trở nên sức mạnh phá phách của con Tạo vô tình...

Vô tình! Luồng gió khẽ
thoảng động cành chè như phản thanh của ý nghĩ. Lan buồn rầu nói một mình:

- Vô tình! Ước gì ta được
vô tình như vạn vật vô tri vô giác!

Tư tưởng của Lan lúc đó
lại rời bỉ cảnh ngoại vật mà thu vào trong tâm trí. Những lý thuyết “Tứ diệu
đế”, “Thập nhị nhân duyên” cùng là cái đời cao thượng của Phật tổ lộn xộn trong
trí nhớ Lan.

Rồi nghĩ điều nọ nhảy
sang điều kia, Lan lại ôn tồn tới cái đời ký vãng. Lan con nhà giòng dõi, bẩm
tính thông minh, thủa bé được theo học chữ nho. Ông thầy học lại là một người
mộ đạo Phật thường đem Phật giáo ra giảng, khiến Lan yêu mến cái đạo rất dịu
dàng êm ái. Rồi cha mẹ Lan mất, Lan ở với chú, chú muốn ép gả Lan vào nơi phú
quý. Linh hồn trong sạch đã tiêm nhiễm những tư tưởng cao thượng của Phật giáo
nên Lan cho thế là nhỏ nhen. Nhất Lan lại nhớ tới lời thề cùng mẹ trong khi mẹ
hấp hối. Lan liền bỏ nhà đi trốn, cải nam trang để thụ giới tại chùa Long
Giáng. Lan khôn khéo để lại nhiều tang vật trên bờ sông, khiến nhà yên trí rằng
Lan tự vận.

Nương nấu cửa từ bi hơn
hai năm nay, được sư tổ quý mến truyền giáo đạo Phật, Lan dốc lòng ngày đêm dùi
mài kinh kệ, đã tưởng dứt bỏ được trần duyên. Ai ngờ...

Lan giật mình ngước mắt
ngơ ngác nhìn. Trên cành cây trẩu, con chim gáy đương gật đầu, xù lông cổ, gù ở
bên con mái. Lan nhắm mắt rồi đi phía khác, thì kia trên cành xoan khô khan,
hai con quạ khoang đương rỉa lông cho nhau. Lan lại nhắm mắt, thở dài cuốn
quýt, như bị vây vào trong cảnh chết mà khó tìm được lối ra: “Ước gì ông ấy
đi...”

Bỗng có tiếng chú Mộc gọi
ở chân đồi:

- Chú Lan!

Lan sợ hãi đứng phắt dậy
đáp:

- Cái gì đấy chú?

Chú Mộc vẫn đứng ở chân
đồi nói lên:

- Cụ cho tìm chú đấy.

- Tôi về đây, chú cứ về
trước đi.

Lan vội vàng hái chè đầy
rổ, rồi hấp tấp xuống đồi trở về chùa, đi thẳng vào buồng kho đóng cửa ngồi núp
một xó, như sợ ai. Sau, vì ở mãi ngoài nắng nên thấy nhức đầu, Lan liền ngả
lưng xuống giường, thiu thiu ngủ lúc nào không biết.

Tiếng chuông chiều đánh
thức Lan dậy. Mở bừng mắt trông ra sân, Lan thấy trời đã nhá nhem tối. Chợt nhớ
đến giờ làm đèn, nghĩ là đèn ở buồng Ngọc, vì ở nhà tổ chỉ thấp có ngọn đèn dầu
lạc. Lan lo sợ, run lẩy bẩy bước vào phòng chàng, nhưng may không nghe thấy ai
lên tiếng. Lan liền cầm vội cây đèn búp măng đem xuống bếp rót dầu.

Khi mang đèn lên, ánh
sáng rọi khắp gian buồng con con. Liếc mắt nhìn không thấy Ngọc đâu, trong lòng
sinh bạo dạn, Lan đứng lại ngắm kĩ các vật: Trên bàn trơ trọi cái bếp cồn cùng
cái ấm sắt nhẹ. Vứt trên chiếc giường không màn, quyển Phật giáo và hai ba cuốn
tiểu thuyết tây. Mà cái va li, Lan không thấy đâu hết.

Lan nhìn quanh ngẫm nghĩ.
Bỗng chú hấp tấp chạy xuống nhà ngang hỏi chú Mộc:

- Này chú, ông Ngọc đâu?

- Ông Ngọc về Hà Nội từ
sáng kia mà.

Lan hoảng hốt:

- Về lúc nào?

- Lúc chú ở vườn chè. Ông
ấy nhắn nhời chào chú đấy. Tôi quên bẵng mất.

Lan vơ vẫn, mắt lờ đờ,
ngớ ngẩn hỏi:

- Sao lại về Hà Nội?

- Rõ chú lẩn thẩn lắm.
Còn ai biết tại sao ông ấy lại về Hà Nội nữa. Muốn biết thì hỏi ông ấy.

- Sao lại về Hà Nội? Về
rồi à?

- À, ông Ngọc cho chú
quyển sách để ở trên buồng ấy.

- Được, để tôi lên lấy.

Lan lại có cớ lên buồng
Ngọc. Vào buồng, Lan khép cửa rồi mở lấy quyển sách ra xem, vì chắc thế nào
Ngọc về Hà Nội cũng có một vài lời từ biệt. Quả Lan đoán không sai: Một tờ giấy
viết thư gập trong quyển Phật giáo có mấy hàng vắn tắt.

Giữ lời hứa hôm qua, tôi xin kính chào chú ở lại tu
cho thành chánh quả... Chú có còn tưởng nhớ tới tôi, tới người bạn khốn khổ
này, tôi xin chú cầu nguyện cho linh hồn tôi chóng lên cõi Niết bàn.

Lan cầm mảnh giấy ghé gần
đèn, đọc đi đọc lại ba, bốn lượt, rồi tắc lưỡi cuộn nhỏ lại thò vào trong thông
phong châm lửa đốt. Nét mặt rầu rầu, Lan nhìn ngọn lửa cháy cho đến khi tờ giấy
thành than.

Bỗng Lan ngồi phịch xuống
giường lấy tay bưng mặt khóc nức nở không ra tiếng. Nỗi sầu muộn trong lòng như
theo hai hàng lệ dần dần tiêu tán. Lan thấy đỡ thổn thức, tim bớt đập mạnh, rồi
Lan như người sực tỉnh:

- Thôi, ta điên mất rồi!
Chẳng lẽ...

Lan đứng phắt dậy, tắt
đèn rồi lau nước mắt, quả quyết lên chùa trên, vừa đi vừa lẩm bẩm: “Quên, phải
quên! Lời thề trước linh hồn mẹ, ta hãy còn nhớ đinh ninh trong trí. Đó là cái
bùa để trừ bỏ những sự cám dỗ của tình ái nhỏ nhen nơi dương thế.”

Nhưng con người ta vẫn
thế. Bao nhiêu cũng phải trái với sự thực. Một người hay do dự, luôn luôn nghĩ
tới sự quả quyết, hoặc nói mình phải quả quyết. Người nhút nhát đêm đi đường
vắng một mình thường hay huýt sáo làm ra bộ mạnh bạo lắm, nhưng kì thực trong
lòng lo sợ, chân tay run lẩy bẩy. Lan cũng vậy luôn mồm nói phải quên. Nhưng đó
là cái triệu chứng của sự nhớ.

Thật ra, cái tình mà Lan
cố ra tưởng tượng nhỏ nhen, nó to tát, nó đầy rẫy, nó chứa chan khắp linh hồn
Lan: Câu nói, dáng đi, điệu nhìn, giọng cười, ý nghĩ đều là hình ảnh của ái
tình.

Lan lẩm bẩm: “Ta rất có
tội với đức Phật tổ.”

Lúc đó Lan thoảng ngửi
thấy mùi trầm. Thì ra lên tới chùa trên từ bao giờ mà Lan không biết, vẫn tưởng
còn ngồi ở buồng Ngọc. Ngước nhìn thấy các tượng thấp thoáng trong bóng đèn lù
mù dầu lạc: Tuy không trông rõ, Lan cũng tưởng tượng ra các vẻ mặt tươi cười,
khoan dung mà lãnh đạm. Từ từ, Lan cúi đầu như người ta vừa bị quở mắng, rồi
rón rén tới bục gỗ quỳ xuống, thì thầm khấn khứa...

=10=

Vắng Ngọc chùa Long Vân
thiếu hẳn vẻ hoạt động. Một tháng Ngọc ở chùa làm biến cải hẳn các sinh hoạt
của mấy người tu hành. Sư cụ, trước kia ngoài giờ tụng kinh, niệm Phật, thường
chỉ tĩnh tọa để trầm tư mặc tưởng tới những vấn đề giải thoát linh hồn. Chú Mộc
ngoài việc chú dọn dẹp, quét trước, rót nước, bưng cơm, chỉ ngồi lì ở nhà ngang
trò chuyện cùng ông Thiện và bà Hộ. Còn chú Lan thì ngày đêm chỉ biết chăm nom
việc trên chùa, thắp nhang, đốt đèn, thỉnh chuông và học tập kinh kệ. Các công
việc nhắc lại hằng ngày đã khiến năm linh hồn kia trở nên năm cái máy, giờ nào
làm việc nào, ngày ngày, tháng tháng, năm năm không hề thay đổi.

Từ ngày có Ngọc ở chùa
thì năm bộ máy khi mau khi chạy sai lạc đi nhiều. Tuy công việc vẫn có thế,
song những giờ tĩnh tọa của sư cụ nhiều khi đã đổi thành những cuộc nói chuyện
về đạo Phật, về sự tích Phật tổ. Sư cụ bản tính thâm trầm nghiêm khắc, mà có
lần cũng phải cười về những câu hỏi ngớ ngẩn, những ý tưởng ngộ nghĩnh của
Ngọc.

Những lúc có chú Lan đứng
hầu bên cạnh, Ngọc càng thấy phấn khởi tâm hồn, và cuộc đàm luận càng có vẻ náo
nhiệt lắm. Những thuyết đề thái tây, những tư tưởng triết lý của Ngọc không thể
lọt tai nhà tu hành được, nhất Ngọc lại đem những ý tưởng trong các sách của
phái Tiểu thừa mà bàn tới đạo Phật ở nước ta theo về phái Đại thừa, nên hai bên
thực không thể nào hợp ý nhau được. Có những cuộc đàm đạo ấy, sư cụ cũng thấy
vui vui. Và cụ cũng lo tới ngày cùng Ngọc biệt ly.

Đến cả bà Hộ, ông Thiện,
chú Mộc trong khi có Ngọc, cũng bận suốt ngày, nhưng tuy bận bịu, rộn rịp hơn
xưa mà vẫn lấy làm vui thích. Nào hai bữa cơm sửa sang cho lịch sự, nào hầu hạ
pha nước, lấy thau. Chú Mộc thấy Ngọc tính rất dễ dãi lại càng hay lên gẫu
chuyện.

Nay Ngọc về Hà Nội, năm
người cùng thấy những công việc hằng ngày buồn tẻ. Mấy cái máy uể oải nay càng
uể oải hơn xưa.

Nhưng người thấy buồn tẻ
nhất là chú Lan.

Ba, bốn ngày sau hôm Ngọc
đi, chú chẳng biết làm gì, chẳng muốn ăn uống gì. Đến nổi sư cụ và chú Mộc phải
lấy làm lạ rằng cái tình bằng hữu của chú đối với Ngọc không ngờ thân mật đến
thế.

Chiều hôm ấy, mặt trời đã
lặn sau rặng đồi tây, Lan còn thơ thẩn ở vườn sắn sau chùa. Ngồi trên là cành
lẫn lá để ngổn ngang chưa buộc, Lan đăm đăm nhìn về phía xa. Linh hồn Lan như
đang theo áng mây hồng bay vào nơi hư vô tịch mịch. Lan thở dài, buột miệng
thong thả nói: “Nát bàn! Bồng lai!”

Hai ý tưởng “tôn giáo” và
“ái tình” hình như đương công kích nhau trong tâm trí.

Bỗng Lan giật mình tỉnh
bằng giấc mộng. Tiếng chuông chùa như cất vọng từ bi vỗ về an ủi, dỗ dành. Lan
mỉm cười lẩm bẩm: “Thế nào cũng phải lánh xa nơi trần tục!”

Tiếng chuông đổ hồi như
vui mừng, cười reo vì đã giải thoát được linh hồn Lan.

Lan cười theo hồi chuông,
tiếng cười lanh lảnh trong làn không khí yên lặng dưới ánh lờ mờ thảm đạm buổi
chiều tà.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3