Hồn Bướm Mơ Tiên - Chương 01

=1=

Trên con đường Bắc Ninh -
Đông Triều chiếc ô xe ô tô hàng bon bon chạy. Bỗng một người hành khách vận âu
phục thò đầu ra cửa ngơ ngác nhìn rồi kêu:

- Cho tôi xuống đây!

Sau một tiếng còi lanh
lãnh, xe từ từ đỗ. Người hành khách xuống xe, đi rẽ sang tay phải theo con
đường đất gồ ghề, cong queo.

Tuy lúc đó đã vào quãng
năm giờ chiều, mà lửa tháng năm hãy còn gay gắt. Mặt trời xiên ánh sáng xuống
cái lạch nước phía bên đường, rồi phản chiếu lên, khiến người lữ hành phải đội
nghiêng cái mũ dạ về bên trái để che cho khỏi chói mắt.

Hai bên đường, lúa chiêm
vàng ối. Từng bọn vừa đàn ông, đàn bà, con gái, cúi khom lưng cầm liềm nhỏ cắt
lúa trông dáng vội vàng chăm chỉ lắm, như sợ trời sắp tối không đủ thời giờ mà
gặt xong thửa ruộng. Một bọn nữa phần đông lực lượng, người thì lấy sức rít dây
lạt bó các lượm lúa lại thành từng bó, người thì cắm đòn sóc xuống đất đứng bắt
tréo chân, nhìn vơ vẫn. [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

Trong một thửa ruộng ngay
sát chân đồi, một đám hơn mười người con gái, công việc đã xong, ngồi nghỉ trên
những bó lúa xếp thành từng đống ở bên vệ đường để chờ bọn đàn ông trở lại gánh
nốt.

Thấy người lữ hành một cô
trỏ bạn:

- Chị em ôi, nhà tôi đã
về kia kìa...

Mọi người cười rộ. Một cô
nữa hát ví:

Hỡi anh đi đường cái quan

Dừng chân đứng lại em than vài nhời

Đi đâu vội mấy anh ôi?

Công việc đã có chị tôi ở nhà.

Các cô vỗ tay, cười rũ
rượi. Lữ khách như đã biết tiếng con gái vùng Bắc đáo để, cắm đầu rảo bước trên
đường, không ngoảnh cổ lại. Thì cô hát ví lại đứng dậy như muốn chạy đuổi theo
và gọi:

- Này anh, anh đưa va li
đây em xách cho. Khốn nạn, thương hại! Nhà tôi đi đường mệt nhọc, mồ hôi, mồ kê
thế kia kìa...

Lữ khách đi đã xa, còn
nghe văng vẳng sau lưng câu hát ghẹo:

Anh về kẻo tối, anh ơi,

Kẻo bác mẹ mắng rằng tôi dỗ dành.

Qua cánh đồng lúa, lữ
khách đi vào một con đường tối, giữa hai đồi cây cối um tùm. Đường đã gồ ghề
lại phải lên dốc, nên lữ khách mệt nhoài, đặt va li xuống, ngồi thở.

Lúc bấy giờ, ở vườn sắn
bên đồi một chú tiểu quần nâu áo nâu, chân đi đôi dép quai ngang sơ sài, đầu
đội cái thúng đầy sắn, đương lần từng bước leo xuống con đường hẻm. Thốt gặp
người lại, chú bẽn lẽn, hai má đỏ bừng. Có lẽ vì chú tu hành ở vùng quê, không
trông thấy người vận tây mấy khi, nên chú sợ hãi chăng?

Người kia thấy chú giật
lùi lại một bước, thì mỉm cười ngả mũ chào, rồi hỏi:

- Thưa chú, chú làm ơn
bảo giùm cho từ đây vào chùa Long Giáng đường còn xa hay gần?

Chú tiểu tò mò nhìn lữ
khách, hỏi lại:

- Thưa ông, ông có phải
là ông Ngọc không?

- Vâng chính phải tôi là
Ngọc, nhưng sao chú biết?

Chú tiểu hai má càng đỏ
ửng, cúi đầu trả lời:

- Thưa ông, vì mấy hôm
nay cụ thường nhắc đến ông, cụ nói ông sắp lên chơi vãn cảnh chùa.

- Vậy ra chú cũng ở chùa
Long Giáng?

- Vâng.

- Thế chú cũng về chùa?

- Vâng.

- Gần đến nơi chưa, chú?

- Đi hết con đường đồi
này thì trông thấy chùa.

Ngọc đứng dậy xách va li
nói:

- Vậy ta cùng về chùa?

Ngọc đi bên cạnh chú tiểu
liếc mắt nhìn trộm, nghĩ thầm:

“Quái lạ! Sao ở vùng nhà
quê lại có người đẹp trai đến thế, nước da trắng mát, tiếng nói dịu dàng trong
trẻo như tiếng con gái.”

Rồi chàng quay lại hỏi
chú tiểu:

- Chú tu ở chùa này từ
bao lâu?

- Thưa ông, mới hơn hai
năm nay.

Chú tiểu chừng muốn đổi
sang câu chuyện khác thốt nhiên hỏi Ngọc:

- Thưa ông, ông là cháu
cụ Long Giáng tôi?

- Phải.

- Cháu gọi bằng bác.

- Phải.

- Ông học trường Canh
Nông?

- Phải, chú biết tường
tận lắm nhỉ?

Chú tiểu cười gượng:

- Ấy, cụ tôi vẫn nói
chuyện đến ông luôn.

Lúc hai người ở con đường
hẻm đi ra, thì mặt trời đã khuất sau đồi. Gió chiều hây hẩy đã mát, mùa lúa
chín bốc lên thơm phức, khiến Ngọc ngắm cảnh nơi thôn dã êm đềm, trong lòng
xiết bao tình cảm.

- Chú tu ở vùng này thú
nhỉ?

- Thưa ông, đã xa nơi
trần tục mà mến cảnh chiền am thì không còn lấy gì làm vui thú nữa.

Nghe câu nói có vẻ con
nhà có học, Ngọc mỉm cười hỏi chú tiểu:

- Chú biết chữ nào?

- Vâng, nhờ ơn cụ dạy
bảo, tôi cũng võ vẽ đọc được kinh kệ.

- Thế thì đi tu sướng
lắm, chú ạ. Có cảnh đẹp... Lại có sách kinh phật mà đọc để quên cuộc đời náo
nhiệt phiền phức... Hay tôi xin phép cụ ở lại chùa, tu với chú nhé?

Chú tiểu quay mặt nhìn
sang phía bên đường rồi giơ tay trỏ bảo Ngọc, như muốn nói lảng:

- Thưa ông, chùa Long
Giáng kia rồi.

Hai người đứng lại ngắm
chùa. Lưng chừng một trái đồi cao, mái ngói mốc rêu chen lẫn trong đám cây rậm
rịt, bốn góc gác chuông vượt lên trên từng lá xanh um.

- Chùa đẹp quá, chú nhỉ?

- Vâng, Long Giáng là một
danh lam thắng cảnh ở vùng Bắc. Cụ tôi thường thuật cho tôi nghe rằng chùa này
dựng lên đời Lý Nhân Tông. Trước chỉ là một cái am nhỏ lợp gianh, sau vì có một
bà công chúa đơn xin nương nhờ cửa Phật, nên nhà vua mới sửa sang nguy nga như
thế. Câu chuyện thụ pháp của công chúa thực tỏ ra rằng phép Phật huyền diệu
biết bao.

Chú làm ơn kể lại cho tôi
nghe có được không?

- Vâng, tôi xin thuật hầu
ông nghe những lời cụ tôi đã kể. Chắc ông cũng biết đức Thái Tổ nhà Lý, khi còn
hàn vi, nhờ đạo Phật rất nhiều nên lúc Ngài lên ngôi rồi, Ngài dốc lòng chăm
chỉ sửa sang các chùa chiền. Đến đức Nhân Tông vì bận việc chinh phục Chiêm
Thành và chống chọi với nước Tàu nên trễ nãi đạo Phật.

“Ngọc Hoàng Thượng đế
muốn giúp nhà vua tỉnh ngộ, liền cho một nàng tiên nga giáng thế đầu thai, tức
là Văn Khôi công chúa. Công chúa nhan sắc diễm lệ một thời, nhưng khi lớn lên,
chỉ ngày đêm học đạo tu hành. Sau vì nhà vua cố ý kén phò mã, công chúa liền
đương đêm lẻn bước trốn đi, nhờ có các thần tiên đưa đường tới nơi này xin thụ
pháp đức Cao Huyền hòa thượng.

“Về sau có thám tử báo
tin, đức vua mấy phen cho quan quân đến chùa đón công chúa về triều. Công chúa
nhất định không nghe. Nhà vua nổi giận, truyền quan quân phóng hỏa đốt chùa.
Ngọn lửa vừa nhóm, bỗng một con rồng vàng hiện lên phun nước tắt ngay. Vì thế
chùa này mới lấy tên Long Giáng từ thuở ấy. Nhà vua nghe tin cả sợ. Từ đó Ngài
dốc lòng tin theo phép màu nhiệm của đức Thích Ca Mâu Ni và lập tức cho sửa
sang chùa để công chúa ở lại tu hành. Chùa này vì thế bắt đầu trùng tu từ thời
ấy, đã bao phen tu bổ lại, nhưng kiểu chùa vẫn y nguyên như cũ.

Ngọc mỉm cười:

- Chú biết rộng lắm nhỉ?

Chú tiểu cúi mặt nhìn
xuống đất, se sẽ đáp:

- Thưa ông, đấy là cụ tôi
kể cho nghe, tôi chỉ thuật lại mà thôi.

- Nhưng chú thuật khéo
lắm. Lại thêm chú có cái giọng dịu dàng êm ái quá.

Lần này là lần thứ ba,
chú tiểu nói lảng:

- Chết chửa, đi mãi. Nay
đến phiên tôi thỉnh chuông. Ta đi thôi, không về trễ cụ quở...

- Ở chùa không còn ai?

- Có chú Mộc nhưng nay
đến phiên tôi.

- Cụ chưa thấy chú về,
chắc cũng bảo chú Mộc đánh chuông thay chứ gì?

Nói dứt thời thì ngẫu
nhiên chuông đâu như đáp lại, khoan thai dõng dạc buông tiếng. Ngọc mỉm cười:

- Đấy, chú coi, tôi nói
có sai đâu.

Phía tây, sau dãy đồi cỏ
biếc, sắc trời đỏ ửng, lấp loáng qua các khe đám lá xanh đen. Mái chùa rêu
phong đã lẫn màu cùng đất, cùng cây, cùng cỏ. Khoảnh khắc, mấy bức tường và mấy
cái cột gạch quét vôi chỉ còn lờ mờ in hình trong cảnh nhuộm đồng một màu tím
thẩm.

Trong làng không khí yên
tĩnh, tiếng chuông thong thả ngân nga như đem mùi thiền làm tăng vẻ đẹp cảnh
thiên nhiên. Lá cây rung động, ngọi khói thướt tha, bông lúa sột soạt, như cảm
tiếng gọi của Mâu Ni muốn theo về nơi hư không tịch mịch.

Ngọc liếc mắt nhìn chú
tiểu, thấy chú vừa đi, miệng vừa lâm râm cầu nguyện, nét mặt có vẻ mặt tưởng
trầm tư.

Cái buồn rất hay lây. Đi
cùng đường với một người, hình dung cho chí tâm hồn phải đều nhuộm một vẻ ủ ê
chán ngán, Ngọc cảm thấy trong lòng nảy ra mối sầu vẫn vơ, man mác và đoái nghĩ
tới cảnh náo nhiệt phiền phức ở Hà Thành.

Nhưng tuổi thanh niên dễ
buồn mà cũng dễ vui. Lúc ấy lên đồi, đường đi khấp khểnh, đá sỏi thì trơn, lại
thêm trời nhá nhem sắp tối, nên Ngọc trượt chân suýt ngã, văng cái va li xuống
sườn đồi. Chú tiểu vội kêu:

- Chết chửa! Ông có can
gì không?

- Không.

Ngọc toan trèo xuống dốc
nhặt va li thì chú tiểu đã vội đặt thúng sắn, thoăn thoắt chạy xách lên.

- Cảm ơn chú.

Hai người cười ồ. Chú
tiểu nói:

- Ông nên cẩn thận, gần
đến chùa rồi có cái giếng cạn ở bên đường khéo mà ngã xuống đấy thì khốn. Để
tôi đi trước dẫn đường cho.

- Cảm ơn chú. À quên, tôi
chưa hỏi tên chú gì?

- Tôi là Lan.

Rồi chú trỏ tay bảo Ngọc:

- Tam quan đây rồi.

Tam quan chùa Long Giáng
cũng như nhiều tam quan các chùa vùng Bắc, cách kiến trúc rất sơ sài. Trông như
cái quán, có ba gian hẹp, trên nóc làm dô lên một cái mái nhỏ giống hệt cái
miếu con. Vả tam quan không có cánh cửa mà hình như chỉ một cảnh để bài trí cho
đẹp mắt chứ không dùng để ra vào. Vì thế tam quan xây ngay trên sườn đồi đứng
thẳng như bức tường không ai leo lên được. Còn ra vào đã có cái cổng con.

Chú tiểu Lan đưa Ngọc đi
qua một cái vườn sắn, rồi vòng quanh một bức tường hoa. Một người điền tốt, cởi
trần, quần nâu ống xắn lên qua gối ở trong bếp chạy ra. Anh ta chưa kịp trông
thấy Ngọc, vội vã gắt với chú tiểu:

- Kìa chú Lan, cụ vừa quở
chú đấy.

- Cụ đâu?

- Cụ đương làm lễ ở trên
chùa. Sao hôm nay chú về muộn thế?

Chú tiểu vừa nói vừa trỏ
Ngọc đứng cách đấy mấy bước:

- Tôi gặp ông Ngọc là
cháu cụ đến vãn cảnh chùa nên đi hơi chậm, chú bảo chú Mộc lấy gạo tám thổi cơm
nhé, để ông Ngọc xơi cơm.

Ngọc đỡ lời:

- Thôi đi, chú cho tự
nhiên, tôi ăn cùng một thứ cơm với các chú cũng được mà.

Anh điền tốt cười:

- Thưa ông, chúng tôi ăn
cơm hẩm với dưa xơi sao được.

Chú tiểu Lan mỉm cười:

- Vâng, ông nói rất phải.
Đã đến cảnh chùa thì cũng phải ăn kham khổ. Trước cụ tôi cũng chỉ xơi cơm hẩm.
Mấy năm nay, vì cụ tuổi tác, yếu đuối mà xơi mỗi bữa có một chén, nên nhà chùa
cấy riêng một mẩu tám để cụ dùng. Nhưng mời ông hãy vào nghỉ trong nhà tổ để
đợi cụ xuống.

Ngọc theo chú tiểu đi vào
một tòa nhà gỗ thấp lợp ngói, bên trong bày trí rất sơ sài. Ở gian giữa sau cái
bệ đất trên giải chiếc chiếu đã cũ là bàn thờ Tổ đặt trong một cái hậu cung xây
thùng ra như cái miếu. Ngọc vén bức màn vải tây đỏ lên thấy bày xếp hàng đến
hai chục pho tượng, liền hỏi chú tiểu:

- Đây là các vị sư tổ có
phải không, chú?

Không nghe tiếng trả lời,
Ngọc quay lại thì chú tiểu đã đi từ bao giờ. Ngồi đợi một lúc lâu, Ngọc vẫn
không thấy ai ra vào.

Trời dần dần tối. Một lát
sau, trông không rõ các thứ bày trong nữa. Lại thêm ngoài sân lờ mờ có bóng
trăng, nên ở chỗ tối nhìn ra, thấy như mình ngồi trong một cái hang sâu vậy.

Ngọc vừa mệt, vừa khát
đương mong có người nào để xin chén nước thì qua cái giại che hiên thấp thoáng
có ánh đèn từ dưới bếp đi lên. Rồi tiếng người nói:

- Này chú Mộc, tôi đã
bạch cụ rồi. Cụ sắp xuống đấy. À, trong khi tôi bận làm đèn thì chú đã lấy nước
để ông Ngọc rửa mặt chưa?

Tiếng trả lời:

- Chưa, tôi đang bận giã
vừng.

- Thế bà Hộ đâu? Nhưng
thôi, tôi đem đèn lên rồi tôi lấy cũng được.

Chú Lan bước vào. Cây đèn
dầu quả hình búp măng chiếu sáng lên, mặt chú trông càng xinh lắm. Ngọc ngắm
chú lại tưởng đến bức tranh người con gái Nhật cầm chiếc đèn xếp của họa sĩ Ung
đang mang tới. Nụ cười tự nhiên trở trên môi Ngọc khiến chú tiểu ngước mắt
trông thấy, ngượng nghịu lúng túng, đặt cây đèn xuống thư rồi vội bước ra
ngoài.

- Này chú Lan, chú làm ơn
cho tôi xin ấm nước nhé.

Chú tiểu, chân trong chân
ngoài quay cổ lại trả lời:

- Vâng, mời ông ngồi
chơi, rồi lát nữa xuống nhà trai xơi nước và xơi cơm.

- Thì chú đi đâu vội thế?
Hãy vào đây tôi hỏi câu chuyện đã.

Chú Lan ngần ngừ bước
vào:

- Thưa ông, đây là nhà
tổ; sư Tổ thụ trai, nghĩa là xơi cơm ở buồng bên. Còn khách thập phương thì xơi
cơm nước ở nhà trai, cũng như nhà khách của các ông.

- Phải đấy, chú giảng
nghĩa cho tôi biết ít nhiều phong tục nhà chùa. Này chú, ở nhà Tổ thì thờ các
sư Tổ, nhưng hai gian bên cạnh này thờ ai thế?

- Đấy là các hậu. Nghĩa
là những người không có thừa tự, bầu hậu ở chùa thì nhà chùa cúng cho.

Có tiếng guốc lộp cộp ở
ngoài hiên. Ngọc nhìn ra: Một vị hòa thượng mình mặt áo vải nâu rộng, chân đi
đôi guốc gốc tre già, tay chống cái gậy trúc, ung dung bước vào.

Ngọc đứng dậy chấp tay
vái:

- Lạy bác ạ.

- Cháu đấy à? Cháu đã
được nghỉ hè rồi?

- Vâng.

- Me cháu được mạnh chứ?

- Cảm ơn bác, me cháu nhờ
giời vẫn mạnh.

Chú Lan nghe Ngọc nói,
tủm tỉm cười, đi ra. Mấy phút sau chú bưng lên thau nước, Ngọc trông thấy vội
vàng đứng ra hiên:

- Cám ơn chú, chú để đấy
cho tôi.

Sư cụ nói tiếp:

- Sao không lấy ghế đẩu?
Chú không thấy thầy ấy vận quần áo tây à?

Ngọc đỡ lời:

- Được, bác để mặc cháu.

Rồi trỏ vào cái khăn mặt
vải ta nhuộm màu nâu còn mới, hỏi chú tiểu:

- Khăn của chú đấy chứ,
chú Lan?

- Thưa ông, khăn mới lấy
ở hòm ra đấy ạ.

Sư cụ mắng:

- Sao không lấy khăn mặt
bông để thầy ấy dùng?

Rồi quay lại hỏi Ngọc:

- Cháu mới đến nhà chùa
mà đã biết tên chú ấy là Lan?

- Thưa bác, cháu gặp chú
Lan hỏi chuyện nên biết.

Lúc đó Ngọc lại thấy chú
tiểu cười. Liền hỏi thầm:

- Sao chú cười tôi?

Lan khẽ đáp:

- Vì thấy ông xưng cụ là
bác. Ông nên bạch cụ. Đã xuất gia tu hành thì người nhà dẫu thân đến đâu cũng
không nhận được họ.

Ngọc mỉm cười:

- Thế à? Cảm ơn chú, nhé.
Xưa nay tôi không hỏi tường tận nên không biết.

Một lát, chú Mộc lên mời
Ngọc xuống nhà trai ăn cơm. Ngọc đứng lên xin phép sư cụ rồi theo chú tiểu đi
qua sân, tới một nếp nhà ngang dài đến mười gian, nhưng chỉ để ba gian làm nhà
tiếp khách thập phương, còn thì ngăn ra từng buồng làm phòng ngủ. Ở đây bài trí
có phần lịch sự hơn ở nhà Tổ: gian giữa, giáp cái sạp gỗ mít, kê một cái bàn,
và đôi tràng kỷ lim lâu ngày đã đen bóng. Trên xà treo một cái đèn ba giây, có
chụp thủy tinh men trắng. Hai bên kê sát từ tường ra tới ngưỡng cửa ba bộ ghế
ngựa quang dầu ghép liền với nhau.

Ngọc nhác nhìn mâm cơm
đặt trên bàn mủm mỉm cười. Buổi tối thấy nhà chùa có vẻ náo nhiệt, nhộn nhịp,
kẻ lên người xuống, lách cách bát đĩa, nồi mâm, chàng vẫn tưởng các chú tiểu
sửa soạn một bữa tiệc sang để thết khách quý. Ai ngờ trên chiếc mâm gỗ vuông
chỉ lỏng chỏng có đĩa dưa, đĩa cà và đĩa muối vừng.

Lúc đó chú Lan bưng lên
một bát đậu phụng kho tương, khói bay nghi ngút. Chú hơi cau mặt, hỏi chú Mộc:

- Sao chú không bảo bà Hộ
rán đậu?

- Dầu lạc hết rồi, mai
mới mua được.

Chú Lan quay lại nói với
Ngọc:

- Thưa ông, bữa nay ông
hãy xơi tạm. Nếu mai ông muốn dùng cơm mặn, xin bảo bà Hộ làm riêng để ông
dùng.

Ngọc tươi cười đáp:

- Cảm ơn chú, nhưng tôi
thích ăn cơm chay.

- Ông quen ăn mặn nên dùng
vài bữa cho biết mùi, chứ ông ăn mãi cơm chay thế nào được.

- Được chứ. Bên tây cũng
có người chỉ ăn rau cùng hoa quả quanh năm mà lại khỏe mạnh hơn là ăn thịt.

- Thế à, thưa ông? Nếu
vậy càng hay.

- Không những tôi thích
ăn chay, tôi lại muốn xin phép cụ được cùng ăn với hai chú cho vui.

Chú Lan cười:

- Thế không được.

- Sao vậy? Tôi chỉ muốn
nếm mọi sự tham khổ của đạo Phật, vì tôi thấy tôi yêu đạo Phật lắm, nhất từ
ngày tôi bị...

Nói đến đấy, Ngọc ngừng
ngay lại. Suýt nữa chàng đem chuyện riêng của mình ra thổ lộ với chú tiểu. Ngọc
không hiểu vì đâu lúc mới gặp chú Lan chàng đã có lòng quyến luyến, và, như
người gặp bạn thân, muốn đem hết những sự đau đớn phiền muộn của mình cùng chú
chia sẻ.

Ngọc ngồi âm thầm nghĩ
ngợi, hình như đương ôn lại một quãng đời dĩ vãng thì chú Lan đã xới bát cơm
đặt lên mâm, nói:

- Mời ông xơi cơm.

- Cảm ơn chú. Sao chú bảo
tôi không thể ngồi ăn với các chú được?

- Thưa ông, có hai cớ:
một là, như thế người ta cười, hai là, chúng ta đã tu hành, thì không phải ăn
kham khổ, mà lại không được ngồi cùng mâm với...

- Với người trần tục,
phải không?

- Nghĩa là người không tu
hành. Như đến mai có dọn cơm ông ngồi xơi hầu cụ cũng phải bưng hai mâm, chứ
không được ngồi cùng mâm với cụ.

- Lạ nhỉ? Nhưng nếu như
tôi cũng đi tu thì được chứ?

Chú Lan mỉm cười:

- Vâng, nếu ông thụ giới,
nhưng khi nào ông lên chức sư cụ thì mới được, nghĩa là ít ra cũng ba mươi năm
nữa.

Lúc đó nghe có tiếng mõ.
Chú Lan vội vàng chạy lên nhà tổ. Ngọc cũng bắt đầu ăn cơm. Quay ra phía bên
thấy chú Mộc đứng khoanh tay, Ngọc liền hỏi:

- Sao chú Lan nghe tiếng
mõ lại chạy hấp tấp đi đâu thế?

- Bẩm, sư tổ gọi.

- Cụ gõ mõ gọi à?

- Vâng. Nếu có hiệu lệnh
mà không thưa khiến cụ đánh đến tiếng thứ tư thì chúng tôi phải ra ngay sân quỳ
để chịu tội.

- Luật nhà chùa uy nghiêm
nhỉ?

- Chả cứ chúng tôi, đến
sư bác, sư ông cũng vậy. Năm ngoái sư ông đến đây cũng quỳ đến nửa ngày.

- Thế à? Vậy bây giờ sư
ông đâu?

- Bẩm, cụ cho đi trụ trì
ở chùa gần đây.

- Vậy ở đây chỉ có chú
với chú Lan?

- Vâng.

- Chắc rồi hai chú cũng
lên sư bác chứ gì?

- Thưa ông, tôi thì còn
lâu lắm. Nhưng chú Lan rất sáng dạ. Mới thụ giới hai năm nay kinh kệ đã thông
lắm. Có lẽ ít nữa thế nào cũng được lên sư bác.

- Bẩm nghe đâu chú ấy ở
Ninh Bình, cha mẹ mất cả.

- Nhưng kìa, sao chú
không đi ăn cơm?

- Thưa ông, ở chùa chỉ ăn
có hai bữa, một bữa sáng sớm, một bữa đúng ngọ.

- Thế không đói à?

- Khổ hạnh lâu ngày quen
đi chứ. Chính phép nhà chùa, thì chỉ dùng được một bữa cơm trưa mà thôi.

- Nhưng tối chắc đó chỉ
là luật pháp nhà chùa, đã dễ ai tuân theo.

- Ấy, những người không
tu hành vẫn đều tưởng thế. Có người lại ngờ chúng tôi ăn thịt, ăn cá nữa, nhưng
chẳng bao giờ có thế. Nhất là ở đây sư tổ tôi lại nghiêm giới lắm. Sai một tí
là cụ phạt ngay.

Ngọc phần thì đói, phần
thì cơm chay lạ miệng, nên ăn ngon lắm. Chàng nghĩ bụng: cứ bảo ở chùa kham
khổ, nhưng đậu, vừng cùng dưa, cà chẳng kém gì thịt cá. Tự nhiên trong trí Ngọc
nảy sinh ra cái ý tưởng muốn xa lánh chốn phồn hoa.

Ngoài sân ánh trăng chiếu
lờ mờ, rặng tường hoa lồng bóng xuống lối đi lát gạch, mấy cây đại không lá ẻo
lả, uốn thân trong vườn sân um tươi. Vạn vật có vẻ dịu dàng như muôn màu thiền
êm đềm tịch mịch...

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3