Dưới cái nhìn của anh hề - Chương 18
XVIII
Thay vào số telephon của Kalick,
tôi quay số gọi Léo. Không biết các ngài ở đấy có bao giờ kết thúc được bữa ăn
của họ, một khi phải nuốt cho đỡ đói hết xuất cải bắp.
Tôi sung sướng được nghe
cũng cái giọng lần trước. Bây giờ ông ta ngậm một điếu xì gà làm giảm đi mùi
bắp cải ở miệng ông ta.
- Schnier đây, ông nhớ ra
tôi không?
- Có chứ, - ông ta vừa cười
vừa trả lời. - Hi vọng anh không vội theo lời tôi đốt đi Thánh Augustin của anh
đấy chứ?
- Có đấy, đốt rồi! Tôi xé ra
và ném tất cả các mảnh vụn vào lò sưởi.
Một sự im lặng, rồi:
- Anh không đùa đấy chứ? - Giọng
ông ta khàn khàn.
- Không! Không bao giờ,
trong những trường hợp như vậy.
- Chúa tôi! Vậy ra anh không
nắm được tính chất biện chứng trong nhận xét của tôi?
- Không, tôi là một người
thẳng thắn, lương thiện và đơn giản... Nhưng em tôi bây giờ ra sao? Khi nào thì
các vị ấy làm ơn kết thúc bữa ăn cho?
- Không còn lâu nữa đâu,
người ta vừa đem đồ tráng miệng vào.
- Thứ gì đấy?
- Anh muốn nói về đồ tráng
miệng à?
- Vâng.
- Về nguyên tắc tôi không có
quyền nói ra, nhưng đối với anh thì có ngoại lệ: đấy là mứt mận và kem đánh
bọt. Có vẻ ngon... Anh có thích mận không?
- Thật khó hiểu và không sao
khắc phục được, tôi ghét cay ghét đắng những quả mận.
- Anh cần phải đọc tiểu luận
của Hoberer về sự đặc ứng. Theo ông ta tất cả đều sinh ra từ những kinh nghiệm
rất cổ xưa, ngay cả trước khi sinh ra cơ. Rất thú vị. Hoberer đã nghiên cứu tỉ
mỉ tám trăm trường hợp. Anh khổ vì sầu muộn phải không?
- Sao ông biết?
- Tôi đoán được qua giọng
nói của anh. Anh cần phải tắm rửa và cầu kinh.
- Tôi đã tắm rồi nhưng không
thể cầu kinh.
- Đáng tiếc! Tôi sẽ tặng anh
một Thánh Augustin mới, hoặc một Kierkegaard [111].
[111] Kierkegaard
(1813 -1855): nhà triết học và thần học Đan Mạch. Tư tưởng cơ bản: ghê tởm cuộc
đời, sợ chết, lo âu khắc khoải, bi quan. Đầu thế kỉ XX, có ảnh hưởng lớn đến
triết học và văn học tư sản (chủ nghĩa hiện sinh).
- Sách này tôi còn giữ.
Nhưng này, ông xem có thể nói giùm tôi một việc với em tôi được không?
- Sẵn sàng.
- Bảo nó mang tiền đến cho
tôi. Tất cả những gì nó có thể kiếm được.
Ông ta lảm nhảm gì đó rồi
nói thật xa:
- Tôi ghi để nhớ: mang tiền
đến càng nhiều càng tốt. Rút cục, anh cần phải đọc Thánh Bonaventure [112].
Tuyệt vời đấy! và không nên lầm lẫn quá như vậy về thế kỉ XIX. Qua giọng nói
của anh người ta thấy là anh hiểu sai về thế kỉ XIX.
[112] Bonaventure
(1221- 1274): cha đạo nhà thờ Thiên Chúa giáo, trở thành Giáo chủ hồng y, linh
mục trưởngdòng Thánh Francois và hợp pháp của Giáo hoàng ở Hội nghị Giám mục
Lion. Tác giả nhiều tác phẩm thần họcvà triết học, được tôn là nhà thần học
thiên thần thượng đẳng.
- Đúng thế, - tôi nói, - tôi
căm ghét cái thế kỉ ấy.
- Sai lầm! Vô lí! ngay bản
thân nghệ thuật kiến trúc cũng không đến nỗi tồi như người ta nói. (Ông ta
cười). Vậy hãy đợi đến hết thế kỉ XX trước khi căm ghét thế kỉ XIX... Tôi vừa
tiếp chuyện anh vừa ăn món tráng miệng của tôi, không làm phiền anh chứ?
- Món mận à?
- Không phải, ông ta còn một
cách tinh tế, tôi bị thất sủng. Tôi không có quyền được động tới các món ăn của
các ông chủ, chỉ các món ăn của đầy tớ thôi. Món tráng miệng của tôi hôm nay:
bánh púđinh kiểu caramen. Vả lại... rõ ràng ông ta vừa đút thỏm vào mồm một
thìa púđinh và nuốt trước khi cười khảy... vả lại tôi trả thù... Tôi telephon
đến Munich hàng giờ một người đồng nghiệp cũ cũng là học trò của
Scheler [113].
Rồi thỉnh thoảng gọi đến Hambourg cho cục chương trình điện ảnh, hoặc
đếnBerlin cho nha khí tượng. Để trả thù. Nhờ có dây nói tự động, nên không
thể lại vết tích... ông ta lại nói rồi nói tiếp, vẫn cười khẩy: nhà thờ rất
giàu, nằm trên đống vàng. Nó sặc toàn mùi tiền, như một cái xác chết của người
giàu có. Xác chết của những người nghèo có mùi thơm... anh có biết thế không?
[113] Scheler
(1874-1928): nhà triết học Đức, tác giả nhiều công trình nghiên cứu quan trọng
về hiện tượng học.
- Không.
Tôi thấy đầu đã đỡ nhức và
tôi khoanh một vòng đỏ vào số telephon của Léo.
- Anh không tin đạo, đúng
không? Không cần trả lời, tôi đoán được qua giọng nói của anh. Đúng không?
- Hoàn toàn đúng!
- Chẳng có gì là quan trọng.
Có một đoạn trong kinh Isaie [114] mà
Thánh Paul cũng đã nhắc đến trong thư văn ông gửi những người Rôman. Nghe cho
kĩ nhé: “Tôi được tìm thấy bởi những người không đi tìm tôi, và tôi được bày tỏ
rõ ràng với những người không hề hỏi gì tôi”. (Ông khẽ bật ra một tiếng cười
nham hiểm). Anh có hiểu không?
[114] Người
đứng đầu trong bốn nhà tiên tri Do Thái thế kỉ thứ VIII trước Công nguyên. Kinh
Isaie trong sách Thánh truyền, có văn phong mạnh mẽ và nhiều chất thơ, có thể
là của nhiều tác giả.
- Có. - Tôi trả lời với
giọng tẻ nhạt.
- Chào, thưa ông giám đốc,
chào ông! - Ông ta nói rất to và bất thình lình bỏ máy. - Những lời cuối cùng
tôi nghe thấy ông nói với một giọng phục tùng cay cú.
Tôi ra sát cửa sổ để xem giờ
trên đồng hồ góc phố. Lúc ấy đã gần tám giờ ba mươi. Các vị ở đấy rõ ràng là ăn
ngon miệng. Tôi cũng thích chuyện trò với Léo, mặc dầu tôi chỉ còn quan tâm đến
số tiền nó có thể cho tôi mượn. Tôi dần dần ý thức được sự nghiêm trọng hoàn
cảnh của tôi. Đôi khi tôi không thể phân biệt được cuộc sống thực của tôi và
cuộc sống tưởng tượng của tôi. Cuối cùng, tất cả ở tôi đều rối tung. Có thể tôi
không cam đoan nhất định đã trông thấy chú bé ở Osnabruch, nhưng trái lại tôi
có thể cam đoan nhất định là tôi đã cưa gỗ cùng với Léo. Tôi cũng không thể cam
đoan nhất định đã đi bộ đến tận Kalk để nhờ Edgar Wieneken chuyển đổi cho tôi
tấm séc hai mươi hai mác của ông tôi. Việc mà tôi nhớ chính xác cho đến tận chi
tiết không có gì là đảm bảo: như chiếc áo blu màu xanh của chị ở cửa hàng bánh
mì, người đã cho tôi chiếc bánh nhỏ, hoặc những lỗ thủng ở đôi bít tất của anh
một thợ trẻ đi qua trước mặt tôi, lúc tôi ngồi đợi Edgar ở cửa nhà anh ta. Tôi
cũng chắc chắn đã thực tế nhìn thấy những giọt mồ hôi đọng ở môi trên của Léo
khi chúng tôi cùng nhau cưa gỗ. Tôi cũng nhớ đến tận chi tiết cái đêm Marie sẩy
thai lần thứ nhất ở Cologne. Heinrich Behen đã tìm được cho tôi một vài
hợp đồng ngắn hạn với hai mươi mác một tối trước các khán giả thanh niên.
Marie, thường cùng đi với tôi, tối hôm đó ở lại nhà. Em thấy mình không được
khỏe. Và khi trở về nhà vào ban đêm với mười chín mác thù lao tiền mặt trong
túi, tôi thấy phòng trống, chăn gối trên giường bừa bộn, khăn trải giường có
vết máu và cuối cùng một mảnh giấy để lại trên mặt tủ com-mốt: “Em vào bệnh
viện. Không có gì nghiêm trọng. Đã báo cho Heinrich”. Tôi chạy vội đến nhà
Heinrich, ở đấy bà giúp việc của ông càu nhàu cho tôi biết địa chỉ bệnh viện
nơi Marie đến. Tôi lao đến đó, nhưng người ta không cho tôi vào. Phải đợi sơ coi
cửa cho tìm Heinrich khắp bệnh viện, rồi gọi telephon cho anh ta. Khi tôi vào
được phòng của Marie thì đã là mười một giờ rưỡi khuya và mọi việc đã xong.
Marie trông rất xanh xao, đương nằm khóc. Ngồi bên em, một bà sơ hiền hậu đương
lần tràng hạt, bình thản tiếp tục đọc Kinh Cầu nguyện trong khi tôi cầm tay
Marie ấp vào hai bàn tay tôi và Heinrich dịu dàng cố gắng giải thích với em về
điều sẽ đến với linh hồn của đứa trẻ mà em không thể cho ra đời được. Marie có
vẻ tin chắc là bé - em gọi nó như vậy - không bao giờ có thể được lên
Thiên Đường vì nó chưa được rửa tội. Em không ngớt nói là nó sẽ ở lại ngoài lề,
và đêm hôm đó, lần đầu tiên, tôi được biết một số điều khủng khiếp mà ở giáo
đường người ta đã nhồi vào đầu óc các giáo dân. Heinrich hoàn toàn bất lực
không sao làm dịu đi được nỗi kinh hoàng ở Marie, và tôi thấy được an ủi phần
nào trong sự hoang mang của ông ta. Ông nói lòng Chúa nhân từ “rộng lớn hơn
nhiều so với điều các nhà thần học hiểu về mặt pháp lí”. Bà sơ hiền hậu vẫn
tiếp tục lần đầy đủ tràng hạt của bà ta. Và Marie - có thể cứng đầu một cách kì
lạ khi động đến các vấn đề về tôn giáo - không ngừng hỏi đâu là đường chéo
giữa đạo nghĩa và lòng Chúa nhân từ. Thành ngữ “đường chéo” khắc sâu vào tâm
trí tôi. Cuối cùng tôi đi ra khỏi phòng, tôi thấy sự có mặt của tôi ở đấy là
thừa và có ấn tượng là một người bị ruồng bỏ. Tôi đến trước một khung cửa sổ
ngoài hành lang và châm một điếu thuốc lá. Phía bên kia đường, qua một bức
tường, tôi nhìn vào một nghĩa địa xe cũ. Phía bên này tường người ta dán các tờ
áp phích tuyên truyền bầu cử: “Hãy đặt niềm tin vào SPD”, “Bỏ phiếu cho CDU”.
Cái trò ngu ngốc khó tả ấy rõ ràng làm suy sút tinh thần các bệnh nhân ở các
phòng hướng quay về phía bức tường. “Hãy đặt niềm tin vào SPD” thực là tài tình
như là văn học vậy, so với sự ngu ngốc chỉ in vẻn vẹn trên áp phích có “Bỏ
phiếu cho CDU”. Vào lúc gần hai giờ sáng, tôi được chứng kiến một cảnh tượng
sau này sẽ trở thành một đề tài tranh luận gay gắt giữa Marie và tôi: Cái mà
tôi nhìn thấy có đúng thật đã diễn ra hay không? Một con chó hoang chạy từ phía
bên trái tới, đánh hơi một cây đèn đường, rồi đến áp phích của SPD, tiếp đến
tấm áp phích của CDU để rồi cuối cùng ghếch chân đái vào tấm áp phích này trước
khi bỏ đi trong đêm tối. Vì sao, mỗi khi chúng tôi nhắc lại cái đêm bi thảm ấy,
Marie không bao giờ quên đặt lại sự nghi vấn về chuyện con chó, và nếu cuối
cùng em cũng thừa nhận là có thể có chuyện đó, thì chỉ nghi ngờ là con chó lại
đi đái vào tấm áp phích của CDU. Em nói rằng tôi bị ảnh hưởng của bố em đến mức
dù không có ý nói dối hoặc nói sai sự thực chút nào, tôi vẫn có thể cứ nhất
định cho là con chó đã làm cái trò “nhớp nhúa” ấy trên tấm áp phích của CDU,
ngay dù nó chỉ làm cái việc đó trên tấm áp phích của SPD. Tuy thật ra bố em
khinh miệt SPD hơn CDU... và cái mà tôi đã nhìn thấy vẫn là cái mà tôi đã thật
nhìn thấy.
Đã gần năm giờ sáng lúc tôi
đưa Heinrich về nhà ông. Suốt dọc đường qua kho Ehrenfeld, ông không ngớt lẩm
nhẩm, tay chỉ vào từng cửa mỗi gian nhà. “Tất cả, đều là những con chiên của
tôi, những con chiên của tôi”. Vẫn với vẻ cau có, bà giúp việc của ông, da vàng
khè đón chúng tôi bằng một câu hỏi “Thế là thế nào?” Tôi trở về nhà trọ và kín
đáo giặt sạch tấm khăn trải giường bằng nước lạnh trong buồng tắm.
Ehrenfeld: các toa tàu chở
than linhít, quần áo phơi đầy ngoài sân, cấm tắm, và đến đêm thỉnh thoảng, như
những làn đạn, những gói đồ thừa đâm bổ xuống trước cửa sổ phòng tôi kèm theo
những tiếng vang trên mặt đất, nhiều nhất là tiếng các vỏ trứng, chúng lăn đi
xa hơn để làm tiêu tan sự đe dọa.
Vì muốn trích từ quỹ Caritas
ra số tiền cho chúng tôi, Heinrich lại gặp phiền hà với cha xứ. Lúc đó tôi phải
đến cầu cứu Edgar Wieneken, anh ta kiếm cho tôi một ít tiền trích ra từ quỹ
tương tế thợ thuyền, và Léo gửi đến cho chúng tôi chiếc đồng hồ của nó để mang
đến nhà cầm đồ, do đó chúng tôi ít nhất có thể trả được tiền thuốc, xe taxi và
một nửa tiền thù lao thầy thuốc.
Tôi nghĩ đến Marie, đến bà
sơ hiền hậu lần tràng hạt, đến từ “đường chéo”, đến con chó, đến các tấm áp
phích bầu cử, đến nghĩa địa xe hơi... và đến đôi tay còn lạnh buốt của tôi sau
khi giặt tấm khăn trải giường. Tuy nhiên tôi không dám tin chắc tất cả những
cái đó là thực. Tôi cũng không dám khẳng định là cái ông ở tu viện đã để lộ ra
với tôi việc ông ta gọi telephon cho nha khí tượng ở Berlin chỉ vì cái thú muốn
làm tổn hại đến lợi ích của nhà thờ; tuy rằng tôi nghe ông ta nói chẳng khác
nào như tôi nghe ông ta nuốt bánh pú-đinh caramen.