Việt Sử Giai Thoại (Tập 2) - Chương 26 - 27 - 28
26 - TỪ VĂN THÔNG ĂN HỐI LỘ
SáchĐại Việt sử kí
toàn thư(bản kỉ, quyển 3, tờ 41 - b và tờ 42 - a) có chép một mẩu
chuyện xẩy ra vào tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138), khi vua Lý Thần Tông đang hấp hối
như sau:
“Trước kia, Vua đã lập Thiên
Lộc làm con nối ngôi. Đến đây Vua đau nặng, ba phu nhân là Cảm Thánh, Nhật
Phụng và Phụng Thánh muốn đổi lập Thái tử khác, mới sai người đem của đút cho
tham tri chính sự Từ Văn Thông, nói rằng có vâng mệnh để thảo di chiếu thì chớ
bỏ lời của ba phu nhân. Văn Thông nhận lời. Đến khi Vua đau nặng, sai soạn di
chiếu, Văn Thông tuy vâng mệnh Vua nhưng nhớ lời của ba phu nhân nên cứ cầm bút
mà không viết. Lát sau, ba phu nhân đến, khóc lóc thảm thiết thà nói rằng:
- Bọn thiếp nghe rằng, đời xưa lập con nối
ngôi thì lập con đích chứ không lập con thứ. Thiên Lộc là con của người thiếp
được vua yêu, nếu cho nối ngôi thì người mẹ tất sẽ tiếm lấn, sinh lòng ghen ghét
làm hại, như thế thì mẹ con bọn thiếp tránh sao cho khỏi nạn.
Vua vì thế xuống chiếu rằng:
- Hoàng tử Thiên Tộ tuy tuổi còn thơ ấu, nhưng
là con đích, thiên hạ đều biết, nên cho nối nghiệp của trẫm, còn Thái tử Thiên
Lộc thì phong làm Minh Đạo Vương.”
Lời bàn: Phàm người quang minh chính
đại, hễ thấy điều gì hợp với đạo nghĩa là làm, không qụy lụy van xin bất cứ ai.
Cảm Thánh, Nhật Phụng và Phụng Thánh đem vàng hối lộ Từ Văn Thông, ắt hẳn là
muốn dùng vàng để che khuất chỗ bất chính của họ. Nước mắt của ba phu nhân là
nước mắt thương xót người sắp lìa đời chăng? Tất không phải. Chẳng qua, đó chỉ
là chút đưa đẩy cuối cùng, cốt lung lạc cho bằng được Nhà vua đang lúc hấp hối
mà thôi. Từ Văn Thông sao lại phải chần chờ? Của đút đã làm vỡ nghiên cong bút mất
rồi, bảo viết ngay làm sao được. Cả đời Thần Tông hầu như chẳng quyết đoán được
việc gì, huống chi là lúc sức tàn lực kiệt.
Ôi, vua nhu nhược ấy, bề tôi
gian tà ấy, hoàng tộc chia bè kết cánh ấy… gặp nhau là phải lắm. Rốt cuộc là
tất cả họ, nào có ai mất gì, chỉ có nước nhà là mất thời thịnh trị mà thôi.
27 - LÝ CÔNG BÌNH MẤT CÔNG TRẠNG
Đầu năm Mậu Thân (1128),
nghĩa là ngay khi vua Lý Thần Tông vừa mới lên ngôi, nước ta bị Chân Lạp, đem
quân đến quấy phá. SáchĐại Việt sử kí toàn thư(bản kỉ, quyển
3, tờ 30 a - b) cho biết rằng, ngày Giáp Dần (tức ngày 29 tháng 1), hơn hai vạn
quân Chân Lạp tiến vào đánh phá ở bến Ba Đầu của châu Nghệ An. Vua Lý Thần Tông
sai quan Nhập nội Thái phó là Lý Công Bình cầm quân di đánh giặc. Ngày Quý Hợi
(tức ngày 3 tháng 2), Lý Công Bình đã đánh bại quân Chân Lạp ở bến Ba Đầu, bắt
được cả chủ tướng của chúng và rất nhiều quân lính. Thắng trận xong, Lý Công
Bình lập tức cho người đưa thư về triều báo tin. Cũng sách nói trên (tờ 31 - a)
chép rằng:
“Thư báo tin thắng trận của
Lý Công Bình đến kinh sư. Ngày Mậu Thìn (tức ngày 15 tháng 2 - ND), Vua ngự đến
hai cung Thái Thanh và Cảnh Linh cùng các chùa quán trong thành để làm lễ tạ ơn
Phật và Đạo đã ngầm giúp cho Công Bình đánh được người Chân Lạp.
Lê Văn Hưu
nói: 'Phàm việc trù tính ở trong màn trướng đều là công của người tướng giỏi
cầm quân làm nên. Thái phó Lý Công Bình phá được quân Chân Lạp vào cướp ở châu
Nghệ An và sai người báo tin thắng trận, Thần Tông đáng lẽ phải làm lễ cáo
thắng ở Thái Miếu rồi xét công ở triều đình để thưởng cho bọn Công Bình về công
đánh giặc, đàng này lại quy công cho Phật và Đạo đi các chùa quán để lạy tạ,
như thể không phải là cách để ủy lạo kẻ có công và cổ vũ chí khí của quân sĩ.”
Lời bàn:Lý Công Bình vui nhận
mệnh vua mà đem tướng sĩ đi đánh giặc, cũng có thể nói là trung thần Công Bình
xuất quân chỉ mới được mấy ngày đã có tin thắng trận báo về, cũng có thể nói
rằng ông là người có tài làm tướng. Thưởng người có công, trị người có tội là
lệ thường của mọi thời. Tiếc thay, Lý Công Bình chẳng được hưởng sự công bình,
bởi vua u mê, cái gì cũng cho là trời Phật làm nên chứ chẳng phải sức người.
Sau, đến năm Đinh Tị (1137), ông lại phải thêm một phen cầm quân đi đánh Chân
Lạp ở Nghệ An, nhưng cũng chẳng thấy sử chép Nhà vua thưởng gì cho ông, Lý Thần
Tông mất năm 1138, thọ hai mươi hai tuổi. Diễn đạt theo cách nghĩ của chính Nhà
vua lúc sinh thời, thì cũng có thể coi đó là điềm lành cho xã tắc vậy.
28 – VỤ ÁN ĐỖ ANH VŨ
Đỗ Anh Vũlà quan thái
úy phụ chính thời Lý Anh Tông. Vua Anh Tông lên ngôi năm 1138, lúc chỉ mới được
hai tuổi, chính sự trong nước vì thế mà gần như đều doĐỗ Anh
Vũquyết đoán cả. Phụ hoàng của Lý Anh Tông là Lý Thần Tông mất lúc mới hai
mươi hai tuổi, bởi thế, các hoàng hậu và phi tần phải chịu cảnh góa bụa lúc còn
quá trẻ.Đỗ Anh Vũmuốn nhân cơ hội đó tư thông với các bà hoàng, gây
chuyện dâm loạn trong cung đình. Vì việc này mà một vụ án lớn đã xẩy ra vào năm
Canh Ngọ (1150). Năm ấy, vua Lý AnhTông mười bốn tuổi.
SáchĐại Việt sử kí toàn thư(bản kỉ, quyển 4, tờ 7 a - b) đã
chép về vụ án này như sau:
“Trước đó, Vua còn trẻ thơ,
mọi việc chính sự lớn nhỏ đều ủy thác choĐỗ Anh Vũcả. Anh Vũ sai vợ
là Tô thị ra vào cung cấm hầu hạ Đỗ Thái hậu, nhân đó mà tư thông với Lê Thái
hậu (mẫu hậu của Anh Tông), và vì thế mà càng kiêu rông, ở triều đình thì khoát
tay lớn tiếng, sai bảo quan lại thì hất hàm ra hiệu, mọi người liếc nhau chứ
không ai dám nói. Quan Điện tiền đô chỉ huy sứ là Vũ (Cát) Đái, chức Hỏa đầu đô
Quảng Vũ là Lương Thượng Cá, chức Hỏa đầu đô Ngọc Giai là Đồng Lợi, chức Nội
thị là Đỗ Ất, cùng với bọn Trí Minh Vương, Bảo Ninh Hầu, Phò mã lang Dương Tự
Minh... cùng hợp mưu bắt giam Anh Vũ. Bàn tính xong, bọn Đái đem quân lính đến
ngoài cửa Việt Thành hô to lên rằng:
- Anh Vũ ra vào cấm đình, làm nhiều điều ô uế,
tiếng xấu đồn ra ngoài, không tội gì to bằng. Bọn thần xin sớm trừ đi, khỏi để
mối lo về sau.
(Vua) bèn xuống chiếu sai
cấm quân đến bắt Anh Vũ, trói giam ở hành lang Tả Hưng Thánh và giao cho đình
úy xét việc. Thái hậu sai người mang cơm rượu cho Anh Vũ, ngầm để vàng vào đồ
đựng thức ăn để đút cho Vũ Đái và các người canh giữ. Hỏa đầu đô Tả Hưng Thánh
là Nguyễn Dương nói:
- Các ông tham của đút, tôi với các ông tất
không thoát khỏi tay Anh Vũ đâu, chi bằng cứ giết trước đi cho khỏi tai họa về
sau.
Nói rồi, cầm giáo định đâm.
Đô Tả Hưng (Thánh) là Đàm Dĩ Mông ôm Dương, cướp lấy giáo, nói ngăn rằng:
- Điện tiền bảo Anh Vũ tội đáng chết nhưng còn
phải đợi mệnh vua, không nên tự tiện.
(Nguyễn) Dương giận, chửi
rằng:
- Điện tiền Vũ Cứt Đái chứ chẳng phải Vũ Cát
Đái (hai chữCát Đáiđọc theo âm chữ Nôm làCứt Đái).
Hắn sao mà tham của đút đến quên cả mạng mình!
Nói xong, tự biết không khỏi
chết, bèn nhảy xuống giếng tự tử.
Bấy giờ, Vua xử án Anh Vũ,
đày Anh Vũ làm Cảo điền nhi (tức là đày đi là người cày ruộng cho nhà nước ở vùng
Cảo Xã, nay thuộc đất Từ Liêm, Hà Nội). Thái hậu lo buồn, cố nghĩ cách để phục
hồi chức tước cho Anh Vũ, bèn mở hội lớn nhiều lần để Vua ân xá cho tội nhân,
mong rằng Anh Vũ cũng được dự vào đấy. Anh Vũ sau nhiều lần được ân xá tội lại
giữ chức thái úy như cũ, càng được yêu dùng hơn, do vậy càng làm oai làm phúc,
sát hại mọi người, lúc nào sự thù hằn cũng lộ rõ ra ngoài. (Hắn) còn sợ bọn
lính đi bắt bớ thi hành lệnh không được như ý, mới dâng vua hơn một trăm thủ
hạ, lập làm đô Phụng Quốc Vệ, hễ ai phạm tội cũng giao cho lính ở đô Phụng Quốc
Vệ đi bắt. Anh Vũ tâu Vua rằng:
- Trước kia bọn Vũ (Cát) Đái tự tiện đem cấm
quân xông vào tận cung đình, tội ấy không gì to bằng, nếu không sớm trừng trị,
sợ một ngày kia sinh biến, không thể lường trước được.
Vua chẳng biết gì cả, bèn y
lời tâu. Anh Vũ sai đô Phụng Quốc Vệ đi bắt bọn Vũ Đái giam vào ngục để trị
tội. (Vua) xuống chiếu giáng Trí Minh Vương làm tước hầu, Bảo Ninh Hầu làm tước
Minh tự, Bảo Thắng hầu làm Phụng chức, nội thị là bọn Đỗ Ất gồm 4 người bị “cưỡi
ngựa gỗ” (đem đóng đinh lên ván, bêu ở chợ rồi sau mới tùng xẻo da thịt), bọn
Hỏa đầu đô Ngọc Giai là Đồng Lợi gồm 8 người bị chém ở chợ Tây Giai, bọn Điện
tiền đô chỉ huy Vũ (Cát) Đái gồm 20 người bị chém bêu đầu ở các bến sông, bọn
Phò mã lang Dương Tự Minh gồm 30 người bị tội lưu ở nơi xa độc, những người dự
mưu đều bị tội đồ làm điền hoành,khao giáp... quả y như lời nói
của (Nguyễn) Dương.”
Lời bàn:Vũ Cát Đái và những
người đồng mưu bắtĐỗ Anh Vũchẳng qua chỉ vì muốn giành những gì béo
bở mà địa vị củaĐỗ Anh Vũcó thôi. Có thế họ mới thản nhiên ăn của
đút, bất chấp cả sự giận dữ của Nguyễn Dương. Ôi, vua nhỏ tuổi, thái hậu dâm
loạn, quyền thần gian tà thi nhau lũng đoạn, phép nước chẳng còn ai lưu tâm tới
nữa... nước chẳng có giặc mà thực là như đang có giặc, nguy lắm thay!