Việt Sử Giai Thoại (Tập 1) - Chương 25 - 26
25 - CHÂN DUNG NGÔ QUYỀN
Ngô
Quyền sinh năm Mậu Ngọ (898), mất năm Giáp Thìn (944), hưởng thọ 46 tuổi. Ông
là một trong những nhân vật lừng danh vào hàng bậc nhất của lịch sử nước nhà.
Chân
dung Ngô Quyền được sáchĐại Việt sử kí toàn thư(ngoại kỉ,
quyển 5) mô tả đại lược như sau:
“Vua
là người mưu sâu, đánh giỏi, công tái tạo thật đáng đứng đầu các vua. Vua họ
Ngô, húy là Quyền, người Đường Lâm (nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây), con
nhà đời đời là quý tộc. Cha của vua là Ngô Mân, làm chức Châu mục châu Đường
Lâm. Khi vua chào đời, trong nhà vua bỗng có ánh sáng lạ tràn ngập. Vua có dung
mạo khác thường, lưng có ba nốt ruồi. Các thầy tướng cho là lạ, ông có thể làm
chủ cả một phương, nhân đó (Ngô Mân) mới đặt cho vua tên húy là Quyền. Khi vua
lớn lên, tướng mạo khôi ngô mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, trí
dũng hơn người, sức có thể nâng được vạc. Sau, (Vua) từng làm nha tướng cho
Dương Đình Nghệ, được Dương Đình Nghệ gả con gái cho, lại cho được quyền quản
lĩnh Ái Châu (nay thuộc Thanh Hóa)” (tờ 20-b).
“Mùa
xuân, tháng 3 (năm Đinh Dậu, 937), nha tướng của Dương Đình Nghệ là Kiều Công
Tiễn (Kiều Công Tiễn cũng là con nuôi của Dương Đình Nghệ) đã giết chết Dương
Đình Nghệ để đoạt chức.
Mùa
đông, tháng chạp, nha tướng của Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền từ Ái Châu đem
quân ra hỏi tội Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn sợ, bèn sai sứ sang đút lót để
cầu cứu quân Nam Hán. Vua Nam Hán lúc bấy giờ là (Lưu) Cung muốn nhân nước ta
có loạn mà đem quân đánh chết, bèn sai con là Vạn Thắng Vương Hoằng Thao, lĩnh
chức Tỉnh hải quân Tiết độ sứ, nhận tước Giao Vương, đem quân đi cứu Kiều Công
Tiễn. Vua Nam Hán tự làm tướng, đóng quân tại Hải Môn (Trung Quốc) làm thanh
viện. Tại đây, vua Nam Hán hỏi kế của quan giữ chức Sùng Văn Sứ là Tiêu Ích.
Tiêu Ích nói:
-
Nay, trời mưa dầm tính đã mấy tuần, đường biển thì xa xôi và nguy hiểm, đã thế,
Ngô Quyền là người kiệt hiệt, ta không thểcoi thường được. Đại
quân nên tiến thật thận trọng, dùng nhiều người dẫn đường, hỏi kĩ rồi mới nên tiến.
Vua
Nam Hán không nghe, sai Hoằng Thao đem thật nhiều các loại thuyền chiến, theo
sông Bạch Đằng mà tiến vào nước ta để gấp đánh Ngô Quyền, nhưng trước đó, Ngô
Quyền đã giết chết bọn Kiều Công Tiễn rồi.
Nghe
tin Hoằng Thao sắp đến, Ngô Quyền nói với các tướng của mình rằng:
-
Hoằng Thao bất quá chỉ là đứa trẻ dại khờ, phải đem quân từ xa tới, đã mỏi mệt
lại nghe tin Kiều Công Tiễn bị giết chết rồi, hắn mất kẻ nội ứng thì tất nhiên
hồn vía chẳng còn nữa. Ta lấy sức đang khỏe để địch với quân mỏi mệt, tất sẽ
phá được. Nhưng, bọn chúng hơn ta ở chỗ nhiều thuyền, nếu ta không phòng bị cẩn
thận trước thì thế được thua chưa thể nói ngay được. Nay, nếu ta sai người đem
cọc lớn vạt nhọn, đầu thì bịt sắt, ngầm đóng xuống trước ở cửa biển, dụ cho
thuyền của chúng theo nước triều lên mà vào phía trong của hàng cọc thì ta hoàn
toàn có thể chế ngự chúng, quyết không cho chiếc nào tẩu thoát.
Định
đoạt mưu kế xong, (Ngô) Quyền bèn sai đem cọc đóng xuống ở hai bên bờ cửa sông.
Khi nước triều lên, (Ngô) Quyền sai quân đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến rồi giả
thua để dụ địch đuổi theo. Quả nhiên, Hoằng Thao trúng kế. Khi binh thuyền của
chúng lọt vào vùng cắm cọc, đợi nước triều rút, cọc nhô dần lên, (Ngô) Quyền
bèn tung quân, liều chết mà đánh. Hoằng Thao bị rối loạn quân ngũ, nước triều
lại xuống gấp, thuyền vướng cọc mà lật úp, binh sĩ chết đến quá nửa. (Ngô)
Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt và giết Hoằng Thao. Vua Nam Hán được tin,
thương khóc mãi rồi thu nhặt tàn quân (của Hoằng Thao) còn sót lại rồi rút về.
Từ đó, vua Nam Hán cho rằng, tên húy là Cung (vua Nam Hán họ Lưu, tên là Cung)
thật đáng ghét lắm” (tờ 19a-b).
Về
Ngô Quyền, hai sử gia lỗi lạc của dân tộc ta là Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên đã có
hai lời bàn. Sách trên đã trân trọng ghi lại cả hai lời bàn ấy. Xin giới thiệu
lại như sau:
-
Lời bàn của Lê Văn Hưu: “Tiền Ngô Vương (chỉ Ngô Quyền) có thể lấy quân mới
nhóm họp của nước Việt ta mà đánh tan được cả trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao,
mở nước và xưng vương, khiến cho người phương Bắc không dám bén mảng đến nữa,
cho nên, có thể nói là một lần nổi giận mà khiến cho dân được yên, mưu sâu đánh
giỏi lắm vậy. Tuy (Ngô Quyền) chỉ mới xưng Vương chứ chưa lên ngôi Hoàng đế,
cũng chưa đặt niên hiệu, nhưng, quốc thống của nước nhà chừng như đã nối lại
được rồi vậy” (tờ 21-a).
-
Lời bàn của Ngô Sĩ Liên: “Lưu Cung tham đất của người, muốn mở rộng bờ cõi,
nhưng đất đai chưa lấy được mà đã tự làm hại mất đứa con của mình, lại hại cả
dân nước mình. Mạnh Tử nói, đem cái không yêu mà hại cái mình yêu, đại để là
như thế này chăng? (tờ 20-a).
26 - LOẠN DƯƠNG TAM KHA
Dương
Tam Kha là con của Dương Đình Nghệ. Có sách nói Dương Tam Kha là anh, nhưng
cũng có sách nói Dương Tam Kha là em vợ của Ngô Quyền. Lí lịch Dương Tam Kha
còn có nhiều chỗ chưa rõ, nhưng loạn Dương Tam Kha thì ai cũng tỏ tường.
Chuyện
chẳng hay này được sáchĐại Việt sử kí toàn thư. (ngoại kỉ, quyển
5, từ tờ 21-b đến tờ 23-a) chép lại như sau:
“Trước,
Tiền Ngô Vương (chỉ Ngô Quyền) bị bệnh nặng nên có lời di chúc, giao cho
(Dương) Tam Kha việc giúp con mình nối ngôi. Đến khi Vương (chỉ Ngô Quyền) mất,
(Dương) Tam Kha cướp ngôi con trưởng của Vương là Ngô Xương Ngập. Ngô Xương
Ngập sợ, chạy lánh về Nam Sách Giang (vùng đất nay thuộc hai huyện Chí Linh và
Nam Sách của tỉnh Hải Dương), trú ngụ trong nhà của Phạm Lệnh Công, người ở Trà
Hương.(Chỗ này hơi tối nghĩa, vì Trà Hương thuộc vùng Kinh Môn, tỉnh Hải Dương
ngày nay). Dương Tam Kha bèn nhận con thứ của Vương là (Ngô) Xương Văn làm con
mình. Những người con khác của Vương như Nam Hưng và Càn Hưng thì còn bé nên
đều theo về ở với Quốc Mẫu (chỉ vợ Ngô Quyền, con gái của Dương Đình Nghệ). Ít
lâu sau, Dương Tam Kha sai các tướng là Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đem quân
đến nhà (Phạm) Lệnh Công đòi bắt (Ngô) Xương Ngập, nhưng cả ba lần đi đều về
không. Phạm Lệnh Công lo sợ, bèn đem Ngô Xương Ngập giấu vào trong động núi.
Dương Tam Kha hay tin, lại đến đòi bắt như trước nhưng không được”.
...
“Năm 950, Dương Tam Kha sai (Ngô) Xương Văn cùng hai tướng họ Dương (chỉ Dương
Cát Lợi) và họ Đỗ (chỉ Đỗ Cảnh Thạc) đem quân đi đánh hai làng là Đường và
Nguyễn ở Thái Bình( vùng đất nay nằm tiếp giáp giữa Hà Tây và Vĩnh Phúc). Khi
quân đến Từ Liêm, (Ngô) Xương Văn nói với hai tướng rằng:
-
Đức lớn của Tiên vương ta đã thấm vào tận lòng dân, cho nên, chính lệnh ban ra,
không ai là không thuận nghe theo. Nay, không may Tiên vương đã lìa bỏ quần
thần, Bình Vương (đây chỉ Dương Tam Kha) làm việc bất nghĩa, cướp ngôi của anh
ta, tội thật không có gì lớn bằng. Giờ đây, Bình Vương lại sai chúng ta đi đánh
hai làng vô tội. Nếu may mà thắng được thì chẳng nói làm gì, còn như họ không
chịu hàng phục thì ta biết làm sao được?
Hai
tướng cùng nói:
-
Chúng tôi xin theo lệnh của ông.
Ngô
Xương Văn lại nói:
-
Ta muốn đem quân quay lại đánh úp Bình Vương để khôi phục cơ nghiệp của Tiên
Vương ta, như thế có nên chăng?
Hai
tướng cùng cho là hay, bèn quay về đánh úp Dương Tam Kha. Mọi người muốn giết
Dương Tam Kha đi, nhưng Ngô Xương Văn nói:
-
Bình Vương đối với ta có ơn (chỉ việc Dương Tam Kha đã nhận Ngô Xương Văn làm
con nuôi), tại sao lại nỡ giết?
Nói
rồi, bèn giáng Dương Tam Kha làm Chương Dương Công, ban cho đất làm thực ấp
(nay là bến Chương Dương)”.
Lời bàn:Thời
ấy, ngôi chí tôn là ngôi cha truyền con nối và Ngô Quyền cũng đã nói rõ quyết
định truyền ngôi cho con trai trưởng của mình là Ngô Xương Ngập. Vậy thì việc
làm của Dương Tam Kha, cho dẫu là vì bất cứ lí do khó nói nào đi nữa, cũng đều
bị coi là trái với đại đạo ở đời. Lòng ghét bỏ Dương Tam Kha nào phải chỉ có
riêng một thuở, bởi vì kẻ tranh đoạt chức quyền của người khác, xưa nay đâu dễ
được ai rộng lượng dung tha. Việc làm của Dương Tam Kha, trước là hại cho thân
danh, sau là nguy cho xã tắc, giận thay!
Sử
gia Lê Văn Hưu đã có lời bàn về sự kiện này, nguyên văn như sau: “Đuổi con vua
để tự lập làm vua, đó là tội lớn đối với nước, còn như việc nhận con của vua
làm con nuôi của mình và ban cho cả thực ấp nữa, thì đấy chỉ là ơn riêng đối
với một nhà. Dương Tam Kha dám đuổi Ngô Xương Ngập để tranh đoạt ngôi vua, đó
là bề tôi phản nghịch, theo nghĩa thì quyết không thể tha tội chết. Vậy mà, Hậu
Ngô Vương (chỉ Ngô Xương Văn, em của Ngô Xương Ngập) không trị tội, còn ban ơn
riêng để nuôi dưỡng chứ không nỡ gia hình, lại ban cho cả thực ấp nữa, thế thì
há chẳng phải là lầm to rồi hay sao?” (Tờ 23-a).
Đọc
lời trên, hậu sinh dẫu có chỗ nghĩ khác hơn, vẫn gật gù gõ cán bút xuống bàn mà
nói rằng: Chí lí thay!