Trân Châu cảng - Phần I - Chương 06 - 07 - 08
Chương 6
Cũng ở sân ga đó, sáng
hôm sau, Rafe và Danny đứng trong cái lạnh thấu xương. Mặt trời tỏa ánh sáng
vàng nhạt xuyên qua làn sương mù dày đặc như sữa trải dài trên những đường ray
vắng ngắt. Sân ga hầu như không có một bóng người. Những quân nhân khác được
lệnh điều động và sẽ rời đi vào buổi chiều. Tuy nhiên, không một ai trong số họ
đi lên phương Bắc cả. Chỉ có mình Rafe là sẽ tớiCanadanhập đội với
không lực hoàng gia. Sau đó, họ sẽ bay qua biển Bắc Đại Tây Dương đến nước Anh.
Ngoài Danny ra, Rafe
không nói với bất cứ ai trong đội rằng mình sẽ đi. Giải thích với những người
khác trong đội sẽ giúp Danny hiểu hơn quyết định của Rafe. Tuy nhiên, chẳng
phải Rafe cố tình muốn thế, chỉ vì anh rất ghét phải chia tay với những người
bạn đã thân thiết từ lâu. Anh cũng không muốn nói rằng mình chẳng thích cuộc
chia tay này cho lắm, rằng anh chỉ muốn được ở chung với họ, cùng chiến đấu
trong những ngày tháng tới, trong những ngày còn đang trong quân ngũ.
Tất nhiên đối với Evelyn
thì khác hẳn. Gần nàng, anh muốn sống hết mình. Anh muốn những niềm tin, ý tưởng
của mình được củng cố hơn. Trong đám mây mù, những ý nghĩ mơ hồ mãi từ khi anh
bỏ nàng lại trước cửa khách sạn, Rafe vẫn thầm khinh miệt mình đã không ở lại
dù chỉ để nắm tay nàng và ngồi với nàng cho đến sáng. Trong thâm tâm, anh tự
nhủ: Evelyn có là đồ ngốc mới đi quan tâm đến những gã chỉ biết sống với những
lý tưởng hão huyền, không có dính dáng gì đến thế giới thực tại.
Tất cả đồ dùng của Rafe,
những hành trang cá nhân của anh đi cùng với anh đối mặt với cuộc chiến mới đều
gói gọn trong cái ba lô đang đặt dưới chân. Tiếng người lái tàu sang sảng:
- Lên tàu hết đi!
Anh khoác túi lên vai,
mắt nhìn ra ngoài cửa ga bồn chồn chờ đợi. Danny thấy vậy hỏi:
- Cậu không bảo với
Evelyn rằng cô ấy đừng có đến đấy chứ?
- Mình trót nói với nàng
ấy thế rồi. - Rafe thú nhận.
- Thế tại sao cậu còn
chờ?
- Chỉ thử lòng của Evelyn
thôi mà! Nếu mình bảo đừng đến mà cô ấy cứ đến thì mình sẽ biết nàng yêu mình.
Người lái tàu lại la lên:
- Lên tàu hết đi thôi!
Danny bảo:
- Cậu biết không: cậu
chẳng khác gì một đứa trẻ con.
- Phải! Mình là thằng khờ
mà. Nhưng mà Danny này, nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra với mình, thì tớ muốn
cậu là người đầu tiên thông báo với Evelyn.
- Không được! Cậu phải
tin chắc rằng cậu sẽ không sao chứ!
- Cậu cũng thế nhé! Nhớ
bảo trọng đấy.
Rafe vỗ vai bạn. Danny
hất tay bạn ra, ôm chầm lấy Rafe. Đoàn tàu im lặng đợi họ. Trên tàu chẳng có ai
và có vẻ như rất lạnh lẽo. Rafe bước lên tìm một chỗ ngồi bên cạnh cửa sổ đối
diện với Danny đang đứng trên sân ga. Nhân viên hỏa xa đóng cửa lại và con tàu
lầm lũi tiến về phía trước. Chiếc tàu nhẫn nại kéo các toa phía sau mất hút sau
làn sương mù dầy đặc. Vậy mà Danny vẫn cố chạy theo đoàn tàu, vừa chạy vừa vẫy.
Rafe vẫy lại anh, Danny thì thầm: Nhớ đánh cho bọn nó tan tác vào nghe Rafe.
Và thế là Rafe ra đi.
*
Evelyn chạy dọc theo hành
lang của sân ga chính. Mắt nàng dõi theo từng hàng số trên cửa dẫn ra sân ga
chằng chịt như mê cung ngoài kia. Nàng đã tự bảo mình đừng đến. Rafe cũng
khuyên nàng đừng đến. Có lẽ anh ấy thực sự muốn nàng không tiễn. Tối qua, trước
khi lên giường, nàng không thèm đặt chuông đồng hồ, hi vọng mình ngủ dậy thì đã
quá giờ tàu chạy lâu rồi, có muốn đổi ý cũng không được. Mà nào nàng đâu có
ngủ, suốt đêm nàng trằn trọc, rồi nàng lại ngồi dậy đặt chuông đồng hồ, tự bảo
mình như thế thì sẽ yên tâm ngủ ngon hơn. Thế mà mắt vẫn chong chong. Cuối cùng
nàng đành tắt chuông đồng hồ đi khi chỉ còn nửa tiếng nữa là đến giờ tàu chạy.
Lúc ấy nàng vẫn tự nhủ
rằng mình không nên đi tiễn Rafe. Họ đã nói chia tay ngày hôm qua rồi. Tại sao
lại còn muốn tình thế lại trở nên khó xử cho cả hai nữa. Rồi không hiểu tại sao nàng lại quyết định
ngược lại. Đột nhiên nàng đứng dậy, vơ vội áo khoác, lao đến sân ga. Bây giờ
nàng không tìm được tàu của anh đậu ở hàng ga nào. Những hàng số này hình như
bị người ta đánh lộn thì phải, chẳng theo thứ tự gì cả. Khi chạy qua trước mặt
một người đang lau hành lang và xém chút nữa va vào người phu khuân vác, nàng
dừng lại hỏi thăm bằng một giọng hổn hển:
- Làm ơn! Đây có phải là
cửa ga cho chuyến tàu chuyển bánh lúc 6:20 không?
- Phải rồi đó, thưa cô.
Nhưng tàu đã đi rồi!
Nàng nhào vào sân ga qua
hai cánh cửa khép kín mà không nhìn thấy Danny đang đi qua mặt nàng. Bước qua
hai cánh cửa, đi về phía hành lang ra phía ngoài, Evelyn đứng trên thềm bêtông.
Quần áo, tóc tai nàng ướt đẫm sương sớm. Nàng nhìn theo những toa cuối cùng của
đoàn tàu mờ dần trên đường ray rồi mất hút. Chưa bao giờ Evelyn thấy cô đơn đến
thế.
Bốn ngày sau, Rafe đứng
trên một tàu chở hàng củaCanada, chất đầy những bột mì, nhiên liệu, vòng
bi, sắt thép, dụng cụ sản xuất súng. Anh, một phi công Mỹ chuẩn bị ra nhập đội
Đại Bàng, là món hàng cuối cùng trên chuyến tàu hôm ấy. Rafe bước ra ngoài
boong tàu. Cố chống trả cảm giác say sóng và sự ngột ngạt trong khoang tàu.
Đứng trên boong tàu lộng gió, anh thấy hết ngột ngạt rồi. Nhưng còn cái bao tử
đang lộn tùng phèo vì say sóng vẫn không để anh yên.
Đứng đây, anh có thể nhìn
thấy năm chiếc tàu khác cũng đang đi vào vệt sóng của tàu chở hàng này, theo
nó. Và anh cũng biết có mười hai chiếc tàu nhỏ đi bên cạnh để hộ tống cho đoàn
tàu này.
Trước mặt đoàn tàu đang
rẽ sóng ra khơi là một bầu trời đen bầm với những đám mây chứa đầy giận dữ.
Rafe đang làm một chuyến hải hành xuyên qua cơn bão.
Rafe nhắm mắt lại nhớ về
Evelyn.
Khi Rafe đi về hướng Đông
thì Evelyn đi về hướng Tây.
Nàng và các y tá khác
trong đoàn quân y của hải quân nhận lệnh lên tàu lửa băng qua sông
Mississippicủa thành phố St.Louis. Ở đây, họ sẽ xuyên qua đồng bằng,
xuyên qua những bang thuộc sa mạc của vùngRockiMountainvà đến
San Diega. Ở miền cực Tây của nước Mỹ này, bên bờ Thái Bình Dương, họ sẽ lên
một con tàu đi đến biển Thái Bình Dương, quanh năm nước xanh ngắt với những
buổi hoàng hôn như dát
vàng trên mặt biển, về phía Nam hòn đảo có cảnh đẹp tựa thiên đường, đó là
Hawaii.
Còn Danny và tám người còn
lại trong đội của anh sẽ không lên con tàu nào hết. Họ cưỡi những máy bay chiến
đấu đến những căn cứ mà ở đó, những chiếc cần cẩu cẩu máy bay lên trên những
hàng không mẫu hạm. Cả máy bay lẫn người phi công sẽ đến một điểm đến sau cùng.
Một nơi xa những cơn bão của biển Đại Tây Dương hàng ngàn dặm, xa cuộc chiến
tranh đẫm máu đang diễn ra ở châu Âu. Khoảng cách xa xôi đó không dễ gì có ai
có thể hình dung ra. Vùng đất lạ lùng ấy nằm ở phía bên kia của quả địa cầu, nó
có tên là Trân Châu cảng.
Chương 7
Những quần đảo nước Anh
đắm chìm trong một bóng tối mờ mờ vĩnh cửu. Những vật thể từ tự nhiên cho đến
máy móc, cho đến con người trông đều lạnh lẽo xám xịt màu của sương, màu của
nước. Hầu như chỗ nào cũng thấy mưa, mưa mọi lúc mọi nơi. Mưa không chỉ đến từ những
đám mây, mà nó có mặt trong từng phân tử của không khí ở đây. Thế nên, không
khí lúc nào cũng đẫm nước, độ ẩm bão hòa sẵn sàng chụp tấm chăn ẩm ướt lạnh lẽo
lên bất cứ thứ gì tồn tại trên mặt đất.
Đường băng ở sân bay quân
sự Bassingborne ướt nhẹp, chẳng khác mặt đất đen tối xung quanh nó là mấy. Gần
khu đất ấy, những chiếc máy bay chiến đấu của Anh nằm trong những nhà chứa máy
bay cổ lỗ sĩ, những máy bay này còn có tên là máy bay Spitfire và Cơn Bão. Đám
thợ máy ngồi quanh những chiếc máy bay tháo thân máy bay bị đạn bắn thủng lỗ
chỗ ra và chúi đầu vào bên trong kiểm tra máy của phi cơ. Rafe bước dọc theo
đường băng trải nhựa, vai anh vẫn còn khoác chiếc ba lô đựng hành trang. Anh
tiến đến sau một sĩ quan Anh có nước da xanh tái, cao, gầy. Tên ông là Peter
Richard Tubbs, tư lệnh trưởng binh chủng không quân. Lúc này ông ta cũng đang
cúi xuống xem xét những
hư hỏng của máy móc trong chiếc máy bay Spitfire. Rafe đợi cho đến khi viên sĩ
quan kia đứng thẳng người lên rồi mới nói:
- Thưa ngài, tôi, trung
úy McCawley có mặt.
Cho đến lúc đó Rafe mới
nhận ra tư lệnh Tubbs bị cụt cánh ta phải. Tubbs bảo:
- Rồi chúng tôi sẽ đưa
anh đi xem một vòng. Sau đó giới thiệu loại máy bay anh sẽ lái.
- Nếu ông còn phải có mặt
ở đây ra lệnh cho những người này vá víu những lỗ đạn thủng trên thân máy bay
ngay trên đường băng thế này thì có thể chúng ta bỏ qua công đoạn giới thiệu
nơi ở mới mà đến thẳng chỗ những chiếc máy bay chiến đấu.
Tubbs quay người dẫn Rafe
đi ngang qua mặt đường băng trải nhựa đường. Mặc dù đã mất một cánh tay, nhưng
bước đi của ông vẫn rất vững chãi và quả quyết như một người bình thường. Ông
có nghị lực của một người chỉ huy, và Rafe chắc chắn viên tư lệnh trưởng này
vẫn tiếp tục những buổi tập thể lực sức khỏe giữ cho thể hình cân đối mặc dù
không còn cánh tay bên phải. Rõ ràng ông ta là một người cứng rắn, mạnh mẽ, một
chỉ huy đích thực.
Nhưng ông ta không phải là mẫu người giống như Doolittle, một mẫu chỉ huy người
Mỹ tiêu biểu, luôn hòa đồng với cấp dưới. Tubbs là một sĩ quan người Anh. Ông
ta mang vẻ cao ngạo thường thấy của một xã hội có phân chia giai cấp rất rõ
ràng.
Đi được nửa đường, ông
bảo Rafe:
- Có phải người Mỹ nào
cũng nôn nóng được chém giết như cậu không hả chung úy?
Ông ta không nói là Trung
úy là nói là Chung úy. Lần đầu tiên Rafe nghe có ai đó phát âm từ ấy như vậy
nên anh cảm thấy rất lạ tai.
- Không phải chúng tôi
nóng lòng xông vào chỗ chết đâu ngài chỉ huy, mà chúng tôi chỉ muốn nóng lòng
bắt tay vào việc ngay.
Tubbs bĩu môi gật đầu,
mắt không thèm nhìn Rafe. Họ đi vòng qua một vài nhà mái vòm để máy bay. Cái
thứ đầu tiên mà Rafe nhìn thấy là chiếc đuôi của một chiếc máy bay Spitfire có
sơn biểu tượng của đội Đại Bàng, một con chim hung dữ, có thể chiến đấu rất tốt
trong những trận không chiến. Đuôi máy bay này trông còn khá mới. Nhưng khi cái
máy bay kia càng lúc càng hiện ra rõ hơn trong tầm nhìn của anh thì ấn tượng về
nó đã thay đổi. Một hàng lỗ đạn đen ngòm chạy dọc thân máy bay. Một vài vết đạn
khác xé toạc cánh của máy bay này. Nhưng cái thứ khiến người ta phải lạnh cả
xương sống chính là buồng lái. Máu khô văng đầy bên trong, từ ghế cho đến bàn
điều khiển. Tubbs bảo:
- Phi công trước từng lái
chiếc máy bay này dũng cảm lắm! Mãi cho đến khi hạ cánh xuống đất an toàn và
tắt động cơ đi thì anh ta mới chịu chết.
Tubbs dừng lại một lát,
để Rafe có thể định thần lại.
- Hoan nghênh cậu đến
tham chiến, chung úy ạ!
Tubbs quay lưng bước đi,
để mặc Rafe nhìn những vết máu đỏ văng đầy trong buồng lái của chiếc máy bay
chiến đầu rách tả tơi.
Chương 8
Đại úy Jessi Thurman là
sĩ quan của tình báo hải quân Mỹ. Mái tóc dày của ông thật rậm và lượn sóng che đi cái đầu to
quá cỡ. Nón của ông đội to cỡ 78, khi đồng nghiệp của ông ở Lầu Năm Góc biết
được ông đội cỡ nón khổng lồ như thế thì họ chép miệng: Trông mặt mà bắt hình
dong thật cấm có sai bao giờ. Họ chỉ nói được có thế mỗi khi buộc phải công
nhận rằng ông luôn luôn thông minh hơn họ.
Lúc nào người ta cũng
phải tìm ra một cái cớ gì đó. Bởi vì nếu không, họ cảm thấy rất khổ sở trước
một sự thật rằng ông luôn đưa ra những giải pháp cho các tình thế khó khăn
nhanh nhẹn hơn họ. Ông cũng sáng tạo ra cách mới để giải quyết những vấn đề cũ.
Trong khi những người khác còn đang bàn tới bàn lui, vặn vẹo nhau về vấn đề
logic cũng như những khả năng có thể xảy ra thì ông đã tìm được cách giải quyết
từ lúc nào. Thurman không có học vị cao như hầu hết đồng nghiệp của mình, ông
cũng không phải là dân thành thị. Mẹ của Thurman là người làm nghề gõ đầu trẻ ở
một vùng nông thôn xa xôi miền trung tây nước Mỹ. Tám năm đầu thời học sinh của
ông, một tay bà chịu trách nhiệm dạy dỗ ông. Ông rất thích đọc, thích đến nhà
thờ, và lúc này ông đã có một bà vợ rất xinh đẹp và dịu dàng. Một phụ nữ đầu
tiên trong đời ông gặp là cưới liền, và họ đã có hai đứa con còn nhỏ. Hầu hết
người ta đều quý mến ông. Cho tới khi họ bị ông qua mặt, không muốn chấp nhận
những giải pháp quá sáng suốt, quá bất ngờ do ông đưa ra và những lúc ấy ông
mất hết cả kiên nhẫn. Ông trở nên nóng nảy và hay châm chọc chua cay. Những
người có tính tình như thế ít khi thăng tiến nhanh trong quân đội.
Tài làm chính trị của đại
úy Thurman cũng rất nổi bật. Ông không còn cha. Thân sinh ông qua đời khi ông
mới đỏ hỏn. Một trong những người chú của ông đã có lần nói với ông rằng, một
người muốn leo cao lên các bậc thang trong xã hội phải ghi nhớ điều này: Khi thành
công, không nên nhìn xuống mà ngạo mạn, mà phải nhìn lên để làm cho mình ngày
càng hoàn thiện hơn. Và Thurman hiểu lời khuyên ấy. Những vị tư lệnh khác,
quyền cao chức trọng hơn ông trong Lầu Năm Góc nhanh chóng nhận ra, nếu họ càng
tỏ ra sâu sắc và trân trọng thì họ càng có dịp thường xuyên trò chuyện với viên
chỉ huy có bản tính trầm lặng, người thường hí hoáy làm việc trong văn phòng
nơi góc hành lang bên cạnh phòng tác chiến.
Nhưng chưa bao giờ đồng
nghiệp của ông đưa ông đến Nhà Trắng. Chưa bao giờ ông đến đó cho tới tận ngày
hôm nay.
Thurman ngồi tít trong
đầu bàn phía bên kia. Mặt bàn bóng lộn như gương soi rõ những sao những vạch
trên bộ đồng phục của các vị tướng ngồi quanh bàn. Những thành viên trong nội
các của tổng thống có quân phục riêng của họ. Áo trắng hồ bột phẳng phiu, nơ
đen cài cổ, khuy áo ở manchette tay bóng lộn. Thurman thấy mình như người thừa
ở đây, tuy nhiên ông thấy không có gì là khó chịu. Ông biết những người đưa ông
đến đây là muốn ông đừng nói gì cả. Ông cũng hiểu ông được mời đến đây bởi vì
những cấp trên trong binh chủng hải quân nhận ra những cuộc họp trong Nhà Trắng
như thế này rất khó chịu đối với họ. Và nếu không có vây cánh ngồi ở xung quanh
thì họ cảm thấy như mình đang bị đặt trong vòng nguy hiểm.
Chỉ huy trưởng Thurman
không có nhiều thời giờ để suy nghĩ về bầu không khí quanh bàn họp. Khi vị cố
vấn đầu tiên an tọa thì những then cửa ở hai cánh cửa vị tướng đối diện với căn
phòng lạch cạch mở. Cửa mở rộng, một người da đen cao, vai rộng bước vào. Đó là
George, người hầu chuyên đi theo tổng thống Franklin Delano Roosevelt như hình
với bóng.
Tổng thống ngồi trên xe
lăn, đầu ông ngẩng cao, hàm đưa ra phía trước, vai ông rộng như người đầy tớ da
đen của ông vậy. Nó rộng hơn cả cái ghế tựa bằng mây trên xe lăn. Chiếc áo sơmi
trắng ông mặc trên người được hồ bột trắng bóng, đeo cà vạt bằng lụa. Mái tóc
bóng loáng được chải hất ra phía đằng sau. Hai bàn tay thả lỏng trên thành ghế
của chiếc xe lăn trông rất mạnh mẽ. Thurman đã nghe rất nhiều những giai thoại
về kĩ năng tập thể
thao củaRoosevelt trước khi ông bị mắc bệnh bại liệt. Người ta nói sau
một ngày dài bơi lội và chạy chơi đùa cùng các con thì hai mươi tư tiếng đồng
hồ sau đó, bệnh bại liệt đã chiếm lấy người ông từ thắt lưng trở xuống. Bây giờ
người ta đang xì xào ở Washingtonrất nhiều rằngRoosevelt vẫn còn tiếp tục luyện tập
nửa người phía trên để giúp cho vẻ ngoài của mình trông luôn cường tráng. Nhìn
những cơ bắp cuồn cuộn ở hai vai và cánh tay được bộ đồ được may đo vừa khít
người, Thurman biết lời đồn là thật. Ông cũng nhìn thấy cả đôi bàn chân của
tổng thống teo tóp dưới lớp vải của chiếc quần soọc nhuyễn. Nó được cột chặt
với những vòng sắt gần gần chiếc giầy của ông. Người hầu của tổng thống nắm lấy
tay cầm ở đằng sau xe, đẩyRooseveltvào
trong phòng.
Mọi người đều tôn kính
đứng lên chào.
Nhưng khi xe lăn của ông
được đẩy ra phía đầu bàn, George quay lưng ra khỏi phòng, đóng cửa lại lặng lẽ
cũng hệt như khi anh ta đến. Xong xuôi, tổng thống nói:
- Mời ngồi! - Họ chưa kịp
ngồi xuống, Rooseveltđã nói tiếp:
- Tôi e rằng lúc này tâm
trạng của tôi không được vui vẻ gì cho lắm. Churchill và Stalin hỏi tôi những
câu hỏi mà tôi sắp sửa hỏi các ông đây. Cho tới chừng nào thì nước Mỹ hết muốn
nhắm mắt làm ngơ trước một thế giới đầy binh biến?
Tướng George C. Marshall
là một cố vấn quân sự đáng tin cậy nhất của tổng thống. Người ta chuyền tai
nhau những chuyện nói rằng: tổng thốngRooseveltnổi tiếng là người
bắt cấp dưới phải phục tùng những mệnh lệnh của mình ngay lập tức. Tổng thống
đã để ý đến Marshall lần đầu tiên, mang ông vào Nhà Trắng để ông cung cấp cho
tổng thống những tin tức mà tổng thống đòi hỏi phải đáp ứng ngay vào một buổi
họp, không giống như những người hiện đang ngồi đây, Roosevelt đưa ra một kế
hoạch và tất cả mọi người ngồi tại bàn đều tán thành. Ngoại trừ Marshall, ông
ta đằng hắng và đứng lên nói giọng chắc nịch:
- Thưa tổng thống, tôi
tin rằng ý tưởng của ông sai lầm kinh khủng.
Cũng theo như người ta
kể, Roosevelt lúc đó đã nhìn thẳng vào mặtMarshalltrong một sự im
lặng rợn người trong khi những người khác ngồi bên bàn mặt tái mét xanh như tàu
lá. Không biết chuyện này đến đâu, nhưng có một điều là Thurman biết chắc là
một khi Roosevelt tìm một người mới ngồi vào chiếc ghế tổng tư lệnh bộ tổng
tham mưu thì ông ta đã bỏ qua hàng loạt các tướng tá có bề dày thành tích mà
chọn ra Marshallgiữ chức vụ quan trọng này.
Bây giờ
tướngMarshallđã nói xong, ông kết thúc:
- Chúng ta tiếp tục cung
cấp ngày nhiều hơn thực phẩm và dầu lửa cho họ, thưa ngài tổng thống.
Rooseveltngắt lời:
- Tất cả những thứ họ thực
sự cần là máy bay, phi cơ, đạn dược và bom, và cả những người lính thiện chiến
nữa.
- Nhưng dân Mỹ nghĩ
Hitler và bọn côn đồ phát xít của hắn không phải mối quan tâm của chúng ta. Vấn
đề là dân châu Âu phải giải quyết lấy.
Rooseveltlắc đầu.
Nhìn môi tổng thống, Thurman biết ngay ông đang tỏ vẻ coi thường. Và ông cũng
biết một khi tổng thống đã cắt lời tướngMarshallrồi thì ai có muốn
nói thêm điều gì cũng chỉ là vô ích mà thôi. Có đôi lúc ông chủ của Nhà Trắng
chỉ muốn nghe tiếng nói nội tâm. Thurman hiểu điều đó, bởi vì chính ông cũng đã
trải qua những giờ phút như thế trong đời. Rooseveltnói:
- Tiếp tục đợt viện trợ
mới đi thôi. Gửi đến Anh và Nga thêm nhiều tàu chiến và vũ khí dùng trong máy
bay chiến đấu nữa đi!
Một viên tổng tư lệnh
hỏi:
- Như vậy là tiếp tục lấy
vũ khí, khí tài của chúng ta ở những hạm đội Thái Bình Dương để tiếp ứng cho họ
hay sao?
Rooseveltquay mặt
nhìn qua cửa sổ. Cặp mắt kính của ông phản chiếu ánh chiều xám xịt của buổi
hoàng hôn mùa đông, ông tự nhủ: thế thôi chứ biết làm gì hơn nữa bây giờ. Trong
khi dân Mỹ sản xuất tủ lạnh thì kẻ thù của họ ra sức sản xuất bom đạn với công
suất chóng mặt.
Khi chỉ huy trưởng
Thurman rời khỏi Nhà Trắng lặng lẽ một mình, các đồng nghiệp khác lờ ông như
ông không từng có mặt ở đó. Thurman nghĩ những lời đồn
vềRoosevelthình như là thật.
Ông cũng tự nhắc nhở mình
rằng một sĩ quan tình báo mà lại đi tin lời đồn thì người đó không còn là một
nhân viên tình báo nữa.
Ở nửa bên kia của quả địa
cầu, cách WashingtonDChàng ngàn dặm, cũng gần như ngay lúc đó, tư
lệnh Yusoroku Yamamoto bước vào một căn phòng không có cửa sổ ở thành phố
Tokyo, hội đồng tác chiến của Nhật lúc ấy đã có mặt đầy đủ. Họ cũng ngồi quanh
một cái bàn, nhưng cái bàn này chỉ cao chưa quá nửa mét. Còn họ thì ngồi trên
những cái gối đặt dưới nền nhà, Yamamoto gỡ mũ ra và cúi đầu chào khi ông ta
bước vào. Đầu ông cúi thấp đủ để tỏ lòng kính trọng, nhưng không quá thấp để có
thể chứng tỏ rằng ông đang sợ hãi những chiến binh rất hung hãn, những người đã
từng chinh chiến nhiều năm để đến bây giờ được phục vụ dưới trướng của Nhật
hoàng. Yamamoto ngồi xuống chờ cho trà được bưng lên như một dấu hiệu chấp nhận
sự có mặt của người mới đến, sau đó ông mới hít một hơi thật sâu, thật chậm
dãi, bầu không khí trong lành làm căng hai lá phổi. Ông có thể ngửi thấy mùi mồ
hôi, những người này ngồi xuống quanh bàn đang trợn trừng mắt lên nhìn ông và
đều tỏ ra tức giận, nôn nóng. Họ cố tỏ ra cho người khác thấy quyền lực của
mình, bởi vì họ sợ thiếu quyền lực thì họ chẳng còn gì nữa. Yamamoto hiểu những
con người này rất nguy hiểm.
Ông cũng biết họ cần ông,
sợ ông nữa, bởi vì ông biết rất nhiều. Yamamoto đã từng du học ở Mỹ tại trường
đại học danh tiếng Harvard. Ông biết từng nỗi thăng trầm của nền quân đội nước
này như thể một quân nhân xuất sắc nhất của Mỹ vậy. Không ai ưa gì người Nhật.
Những kế hoạch thôn tính các nước khác đều diễn ra hoàn hảo. Một cách tàn nhẫn,
nước Nhật đã xâm chiếm hầu hết các nước châu Á, chiếm nhiều hòn đảo của Nga, đe
dọa Trung Quốc lục địa và đã ăn tươi nuốt sống toàn lãnh thổ Đông Dương. Những
thành công của họ càng làm cho họ tin tưởng rằng người Nhật là dân thượng đẳng
ở châu Á. Yamamoto biết ý tưởng này khiến nhiều tướng Nhật ngây ngất, ông đã cố
gắng nhắc nhở họ rằng không có một quốc gia nào, đặc biệt là một quốc gia thiếu
những nguyên liệu thô chủ yếu như Nhật Bản lại có thể tồn tại được lâu dài mà
thiếu những chiến lược ngoại giao đúng đắn. Nhưng những vị chỉ huy chiến binh
có mặt ngày hôm nay cho rằng điều đình là cần thiết, nhưng trong nghệ thuật
chinh chiến thì hòa hoãn và điều đình là những tối kiến nhất, rất nhiều thành
viên trong hội đồng tác chiến này có ý kiến cho rằng những lời chỉ bảo phải cẩn
thận của Yamamoto chẳng qua chỉ là kết quả của một đầu óc hèn nhát và một vài
người bạn hiếm hoi của Yamamoto trong cái hội đồng tác chiến ấy đã từng cảnh
báo ông phải cẩn thận trước nguy cơ sẽ bị ám sát bất cứ lúc nào.
Mặc dù được du học ở Mỹ
nhiều năm nhưng Yamamoto không thiếu tinh thần dân tộc như bất cứ người Nhật
nào. Ông không phải là người sợ chết, nhưng ông cũng là một người có đầu óc
thực tế, ông biết những ước vọng, suy đoán, mơ mộng chỉ phù hợp với những khi
dạo chơi trong vườn nhà. Ngoài những lúc đó ra phải biết đối mặt với sự thật,
về mặt này ông rất giống một thủ lãnh quân sự người Mỹ, người mà ông hết sức
thán phục đó là Robert E.Lee. Ông này luôn có một mơ ước cháy bỏng là làm sao
tránh được chiến tranh. Chỉ chủ chiến trong những trường hợp không thể đừng và
nếu đã bị đẩy vào tình thế bắt buộc phải tham chiến thì phải chiến đấu hết sức
khôn ngoan và chiến đấu tới cùng.
Yamamoto đi thẳng vào đề:
- Chiến tranh là không
tránh khỏi, và ẩn sau ý nghĩ của từ này là chết chóc. Chúng ta đưa quân đội đến
Trung Quốc thì người Mỹ sẽ cắt đi nguồn dầu lửa, chặn đứng huyết quản của chúng
ta. Chúng ta không còn lựa chọn nào khác, chỉ còn cách đánh mà thôi.
Yamamoto cho thính giả
của mình có thời gian tiêu hóa lượng thông tin ông vừa đưa ra. Ông xác nhận kế
hoạch hiếu chiến là tất cả những gì những người đang ngồi bên bàn kia cần.
Nhưng rất tiếc, nó lại không được chấp thuận. Yamamoto nói tiếp:
- Và nếu chúng ta buộc
phải chiến đấu với người Mỹ thì chỉ có một con đường duy nhất là tấn công hàng
loạt và bất ngờ trước khi họ kịp chuẩn bị trở tay. Phải giáng cho họ một đòn mà
khiến cho họ phải què quặt đến hàng ngàn năm sau. Trong thời gian chờ nước Mỹ
phục hồi, thì cũng là lúc chúng ta thôn tính khắp vùng Thái Bình Dương, và thế
là người Mỹ sẽ bắt buộc phải nhượng bộ chúng ta để có hòa bình.
Trong hội đồng tác chiến,
Misikura là thành viên duy nhất và cũng là bạn thân của Yamamoto, đã cảnh báo
sự nguy cơ có thể Yamamoto có thể sẽ bị giết. Ông nói:
- Ngài cho rằng chúng ta
có khả năng giáng một đòn mạnh đến thế sao?
- Chính người Mỹ đã cho
chúng ta sức mạnh ấy, chúng ta sẽ hủy diệt họ chỉ bằng một trận tấn công duy
nhất tại Trân Châu cảng. Hãy nhìn đây! Để tôi trình bày với ông kế hoạch này.
Ông ta gạt ấm trà và ly
tách sang một bên để lộ tấm bản đồ của Thái Bình Dương được phủ một lớp sơn mài
bóng loáng trên mặt bàn.