Bí mật của Nicholas Flamel bất tử (Phần 3) - Chương 26 - 27

Chương hai mươi sáu

Tiến sĩ John Dee sợ chết khiếp.

Đứng trước hắn, Bastet thở gắt và
rùng mình, và Dee nhận ra rằng bà ta cũng đang rất sợ hãi. Và thậm chí như vậy
còn khiến hắn hãi hùng hơn.

Trước đây Dee từng biết cảm giác
khiếp sợ thế này và hắn luôn luôn đón nhận điều đó. Nỗi sợ hãi đã giữ cho hắn
còn sống đến nay, đã thúc đẩy hắn biết bỏ chạy khi những người khác đứng lại
chiến đấu và đi đến cái chết. Nhưng đây là một nỗi khiếp đảm không bình thường
chút nào; một nỗi kinh tởm sâu tận trong xương, khuấy tung dạ dày, làm sởn gai ốc
khiến mồ hôi lạnh của hắn toát ra như tắm. Phần phân tích lạnh lùng trong tâm
trí hắn nhận ra rằng đây không phải là nỗi sợ hãi dựa trên lý trí, đây là một
thứ mạnh hơn, một thứ nguyên sơ và cổ xưa, một nỗi khủng khiếp nằm sâu trong bờ
rìa của hệ thần kinh, phần cổ xưa nhất trong não con người. Đó là sự khiếp sợ
đã có ngay từ thời khai tiheen lập địa.

Trong suốt cuộc đời đằng đẵng của
mình Dee đã chạm trán với một vài nhân vật kinh tởm nhất trong các Elder, những
sinh vật rùng rợn thậm chí không tìm thấy nét gì ang áng gần giống với con người.
Việc nghiên cứu cùng các cuộc du hành đây đó của hắn đã dẫn hắn vào một số
Vương quốc Bóng tối u ám nhất. Những nơi mà các sinh vật khủng khiếp kinh hoàng
lơ lửng bềnh bồng trong những bầu trời màu xanh ngọc lục bảo hoặc những thứ ghê
rợn có xúc tu quằn quại trong những vùng biển đỏ quánh như máu. Nhưng hắn chưa
bao giờ thấy sợ thế này. Khóe mắt hắn nổ đom đóm và hắn nhận ra mình đang thở rất
khó nhọc như thể đang mắc chứng thở quá nhanh. Rất muốn làm hơi thở mình thêm
êm ả trở lại, hắn tập trung vào căn nguyên của nỗi sợ hãi này - đó là sinh vật
đang sải bước xuống giữa đường phố trống trải của vùng Bắc London.

Hầu như các ngọn đèn đường đều tắt
ngấm, và số rất ít còn sáng kia không tỏa thứ ánh sáng rùng rợn lên sinh vật
đó, mà phết lên nó những gam màu vàng và đen. Nó đứng cao dễ đến gần hai mét rưỡi,
cánh tay lực lưỡng đồ sộ và ở mút đầu cẳng chân là mấy cái móng guốc như móng
dê. Những nhánh gạc như một cái giá khổng lồ chĩa ra làm sau uốn quăn ngược ra
phía sau của khung xương sọ, bổ sung vào chiều cao của nó thêm ít nhất là một
mét rưỡi nữa. Khắp mình nó phủ những mảng da không chút tương xứng của những
con thú đã tuyệt chủng lâu đời, vì vậy Dee thấy thật khó để xác định đâu là nơi
kết thúc của những mảng da và đâu là nơi lớp thịt lông lá của sinh vật ấy bắt đầu.
Nằm trên vai trái của nó là một cây gậy dài khoảng một mét tám được đẽo gọt từ
xương hàm của một con khủng long, bên hông còn lởm chởm một hàm răng nhọn hoắt.

Đây là Cernunnos, Thần Sừng.

Mười lăm ngàn năm trước, một nghệ
sĩ thuộc thời đồ đá cũ trong cơn hoảng sợ đã vẽ vội vàng lên một bức tường hang
động ở miền tây nước Pháp một hình ảnh của sinh vật này, một hình ảnh không phải
người cũng không phải thú, nhưng có cái gì đó lai tạo giữa hai bên. Dee nhận ra
rằng có thể hắn đang trải nghiệm cùng một cảm xúc mà người nghệ sĩ cổ xưa kia
đã cảm nhận được. Chỉ mới nhìn thấy thôi đã khiến hắn cảm thấy mình nhỏ bé, tầm
thường, yếu ớt đáng thương làm sao.

Hắn cứ tưởng Thần Sừng chỉ là một
kiểu Elder khác mà thôi - có lẽ thậm chí là một trong các Elder Vĩ đại - nhưng
mới hồi sớm, Mars Ultor đã chẳng để lộ ra một cái gì đó như nỗi bàng hoàng, một
cái gì xem ra khá kinh hãi đó sao. Còn Thần Sừng không phải là Elder. Đó là một
thứ cổ hơn, cổ xưa hơn rất nhiều, một sinh vật đã tồn tại chính nơi những bờ
rìa của truyện thần thoại.

Cernunnos là một trong các quan
nhiếp chính huyền thoại, giống loài đã cai trị hành tinh này từ quá khứ xa xăm,
xa đến mức không tưởng tượng nổi. Lần đầu tiên khi Thần Sừng đi vào thế giới
này, Yggdrasill chỉ là một hạt gióng, Nidhogg và họ hàng xa gần của nó chỉ là một
ổ trứng mới nở, và đến tận mấy trăm thiên niên kỷ sau này này thì loài người
nguyên thủy mới xuất hiện.

Thần Sừng tiến thắng đến phía trước
và ánh sáng quét ngang khuôn mặt lão.

Dee cảm thấy như thể hắn bị dấm
vào dạ dày. Hắn chuẩn bị nhìn thấy một cái mặt nạ hẳn phải kinh khiếp lắm,
nhưng không, sinh vật này thật xinh đẹp. Một vẻ đẹp không tự nhiên, khiến người
ta phải bàng hoàng. Làn da trên mặt lão màu đồng thẫm, nhưng trơn mướt và không
hề có vết nhăn, như thể được tạc từ đá, đôi mắt hình bầu dục có màu hổ phách
sáng lấp lánh trong hai hốc mắt thụt sâu. Khi lão nói, cái miệng với đôi môi đầy
đặn hé mở vừa đủ trong khi phần cổ họng thon dài của lão vẫn giữ yên.

“Một Elder và một con người, một
con mèo và chủ nhân của nó, và ta tự hỏi không biết cái nào nguy hiểm hơn đây?”
Giọng nói của lão khẽ khàng đến ngạc nhiên, gần như là êm dịu, dù hoàn toàn vô
cảm, và dù nghe lão nói tiếng Anh, nhưng Dee chắc chắn là hắn nghe được trong đầu
hắn tiếng vo vo rì rào của hàng trăm thứ ngôn ngữ khác rầm rập cất lên cùng một
lời. Cernunnos tiến đến gần hơn và rồi uốn cong người xuống đến đầu gối, thoạt
tiên nhìn chăm bẳm vào Bastet rồi sau đó mới nhìn xuống Dee. Tay Pháp sư nhìn
vào đôi mắt của Thần Sừng: đôi đồng tử là hai khe hở màu đen, nhưng, không như
của loài rắn, đàng này chúng nằm ngang, hệt như hai đường thẳng dẹt đen thui.
“Vậy ra ông là Dee.” Những tiếng nói rì rầm xoáy trong đầu Dee.

Tay Pháp sư cúi chào thật sâu, không
muốn nhìn vào đôi mắt màu hổ phách ấy nữa, cố gắng kiểm soát nỗi sợ hãi của
mình một cách tuyệt vọng. Một mùi ẩm mốc kỳ dị khác thường bao phủ Quan nhiếp
chính, thứ mùi của những cánh rừng hoang dã và trái cây hư thối. Dee bị ấn tượng
bởi mùi hương ấy và nhận ra rằng có thể có cái gì đó liên quan đến cảm xúc mà hắn
đang cảm nhận được. Hắn từng trông thấy những sinh vật tồi tệ hơn, những sinh vật
chắc chắn gây bàng hoàng hơn nhiều, vậy thì cái gì nơi Thần Sừng này làm hắn chết
khiếp đến vậy chứ? Hắn tập trung vào cây gậy trông thật hiểm ác mà sinh vật cổ
xưa này đang khoác bắt chéo trên vai. Trông giống như xương hàm của loài
sarcosuchus, một giống cá sấu supercroc xuất xứ từ Kỷ Phấn Trắng, và hắn bắt gặp
chính mình đang kinh ngạc sa mà Quan nhiếp chính này già đến thế.

“Chúng tôi vui mừng vì sự hiện diện
của ông,” Bastet rít lớn lên. Dee nghĩ hắn nghe được thoáng chấn động trong giọng
nói của bà ta.

“Ta không nghĩ vậy đâu,”
Cernunnos nói thẳng thừng.

“Chúng tôi...” Bastet mở lời,
nhưng thình lình một cây gậy khổng lồ vung lên đâu đó khiến bà ta nín bặt, hàm
răng nhô lên khỏi khung xương sọ họ nhà mèo của bà ta.

“Sinh vật kia: đừng nói với ta kiểu
đó nữa. Ta không có mặt ở đây vì quyền lựa chọn của ta. Ông đó.” Cernunnos xoay
đôi mắt màu hổ phách sang Dee. “Các chủ nhân Elder của ông đã lần giở ngược trở
lại từ thưở ban đầu của thời gian và viện đến một món nợ cổ xưa phát sinh giữa
ta với họ. Nếu ta hỗ trợ các người, thì món nợ của ta với họ được xóa sạch. Đó
là lý do duy nhất ta có mặt ở đây. Các người cần gì?”

Dee hít một hơi thật sâu. Hắn lại
cúi chào, và rồi tự cắn vào phía trong má để ngăn không cho hắn mỉm cười. Một vị
Quan nhiếp chính tự đặt mình dưới mệnh lệnh của hắn. Khi nói, hắn vừa ý khi thấy
giọng nói mình vững vàng và được kiểm soát. “Ông được bảo phải làm gì?” Hắn mở
lời.

“Ta là Cernunnos. Ý tưởng và ký ức
của ông là những thứ ta đọc được đấy, Pháp sư ạ. Ta biết ông biết gì; ta biết
ông từng là gì; ta biết bây giờ ông đang là gì. Nhà Giả kim, Flamel, và bọn trẻ
con đang ở với Hiệp sĩ Saracen và Đại thi hào đằng sau pháo đài bằng kim loại tự
chế của bọn chúng. Ông muốn ta và bọn Wild Hunt phá một lối vào cho ông chứ gì.”
Mặt dầu gương mặt của Quan nhiếp chính vẫn giữ nguyên là một chiếc mặt nạ không
vết nhăn, nhưng Dee tưởng tượng có lẽ hắn nghe được chút gì có vẻ cham biếm
trong giọng nói của Thần Sừng.

Tay Pháp sư lại cúi người một lần
nữa, cố kiểm soát ý tưởng một lần nữa của mình. “Đúng vậy.”

Quan nhiếp chính quay cái đàu khổng
lồ của lão nhìn vào những bức tường kim loại của bãi để xe cũ. “Phải hứa cái gì
với ta,” lão nói như quát. “Bọn nô lệ. Thịt tươi sống.”

Dee nói vội vàng. “Tất nhiên. Ông
có thể giữ Flamel, và bất cứ ai khác mà ông muốn. Tôi chỉ cần bọn trẻ và hai
trang cuối trong cuốn Codex tới giờ
này vẫn còn thuộc sở hữu của Flamel thôi.” Dee lại cúi gập người. Với sức mạnh
của Thần Sừng và đạo quân Wild Hunt mà lão chỉ huy, hắn không thể thất bại được.

“Ta được chỉ thị phải báo với ông
điều này,” Cernunnos vừa nói khẽ, vừa hơi nhúc nhích cái đầu, nhìn xuống tay
Pháp sư, đôi mắt màu hổ phách lóe sáng trên khuôn mặt tăm tối: “rằng nếu ông thất
bại, các chủ nhân Elder của ông sẽ tặng ông cho ta. Một món quà, một báo đáp nhỏ
vì đã đánh thức ta khỏi giấc ngủ của mình.” Cái đầu có sừng khổng lồ nghiêng
nghiêng, và đôi con ngươi nở rộng biến đôi mắt lão thành màu đen và không thấy
đáy. “Ta không có một con thú cưng nào trong nhiều thiên niên kỷ nay. Chúng có
khuynh hướng chưa kéo dài được bao lâu thì đã bị biến đổi.”

“Biến đổi ư?” Dee nuốt nước bọt rất
khó nhọc.

Một làn sóng thối tha nào là lông,
móng, răng và mắt bị ánh đèn làm cho thành vàng khè tràn xuống đường phố, sục
sôi tuôn ra khỏi những ngôi nhà, nhảy xuyên qua cửa sổ, đè bẹp riến mấy cái
hàng rào, nhô người lên từ mấy đám cống rãnh. Những sinh vật có mùi kinh tởm bẩn
thỉu im lặng tụ tập tành một nửa vòng tròn khổng lồ ngay đằng sau Quan nhiếp
chính. Chúng có thân hình đồ sộ của những con sói xám... nhưng hết thảy chúng đều
có gương mặt người.

“Biến đổi chứ sao,” Cernunnos
nói. Không hề động đậy thân người, cái đầu lão xoay theo một góc vừa đủ để xem
xét đoàn quân im phăng phắc phía sau mình, và rồi lão nhìn trở lại Dee. “Ông mạnh
lắm. Ông sẽ kéo dài được ít nhất một năm rồi mới phải trở nên thành phần của đạo
quân Wild Hunt.”

Chương hai mươi bảy

Palamedes đi vòng quanh Nhà Giả
kim. “Xem ông đã làm gì kìa!” Cơn giận đã khiến trọng tâm của anh ta không rõ
ràng, làm cho lời anh ta nói hầu như không thể hiểu được. Flamel không quan tâm
đến anh ta. Ông quay sang Shakespeare. “Có đường thoát nào không?” Ông điềm
nhiên hỏi.

Đại thi hào gật đầu. “Tất nhiên.
Có một đường hầm ngay dưới căn nhà chòi này. Nó dẫn lên mặt đất vào một nhà hát
không còn sử dụng cách đây khoảng hơn một cây số rưỡi.” Ông ta mỉm cười vặn vẹo.
“Tôi tự chọn địa điểm này đó.”

Flamel quay sang Sophie và Josh.
“Lấy đồ đạc của tụi cháu. Mình đi; chúng ta có thể thoát được trước khi Thần Sừng
đến được đây.” Chưa ai trong nhóm kịp phản đối, Nhà Giả kim đã nắm cánh tay hai
đứa nhỏ sinh đôi và chúng lùi về phía căn nhà chòi. Josh giận dữ giũ tay ra khỏi
người bất tử, còn Sophie giật mạnh cánh tay thoát ra. Nhà Giả kim định cự lại
thì ông chợt nhận ra rằng Palamedes không hề nhúc nhích mà Shakespeare cũng
không. Ông quay nhìn người đàn ông thấp bé hơn. “Nhanh đi; ông biết Thần Sừng
có khả năng gì mà, và một khi đạo quan Wild Hunt nếm được máu, thậm chí lão ta
còn khó kiểm soát được chúng nữa là.”

“Ông cứ đi đi,” Shakespeare nói.
“Tôi sẽ ở lại đây. Tôi có thể giữ chân chúng và ông có đủ thời giờ để trốn
thoát.”

Nicholas lắc đầu. “Điên khùng,”
ông nói trong tuyệt vọng. “Ông sẽ không thoát nổi đâu. Cernunnos sẽ tiêu diệt
ông mất.”

“Chỉ có thể tiêu diệt được thân
xác tôi thôi,” Shakespeare mỉm cười. “Nhưng tên tôi đang và sẽ luôn bất tử. Những
lời tôi viết ra không bao giờ bị lãng quên bao lâu loài người còn tồn tại.”

“Và nếu các Elder Đen tối quay trở
lại, thì có lẽ sự tồn tại đó chấm dứt sớm hơn ông tưởng đó,” Flamel cáu kỉnh.
“Đi với chúng tôi đi,” ông nói, và rồi ông nói thêm rất dịu dàng, “Làm ơn đi
mà.”

Nhưng Đại thi hào lắc đầu. Luồng
điện của ông ấy nổ ra luồng hơi ấm và nhàn nhạt quanh người, không khí đầy mùi
hương chanh. Bộ áo giáp hiện đại nhấp nháy biến thành bộ áo giáp bằng kim loại
dát miếng và mắc xích rồi cuối cùng mới ổn định thành bộ giáp chạm khắc công phu
và dền dàng thời Trung cổ. Ông ta hoàn toàn bị bao bọc trong lớp kim loại màu
vàng sáng ngời, trơn láng và uốn cong, được thiết kế để làm chệch hướng mọi cú
đấm, cú đâm làm chúng trượt ra khỏi đầu gối và cùi chõ. Ông ta đẩy tấm che mặt
trên chiếc mũ bảo hiểm bao sát đầu trở về chỗ cũ, đôi mắt xanh nhạt lóe sáng, mở
to đằng sau cặp kính ông ta vẫn thường đeo. “Tôi sẽ ở lại và sát cánh chiến đấu
bên nhóm Gabriel Hounds. Họ đã trung thành với tôi hàng mấy thế kỷ rồi; bây giờ
tôi sẽ trung thành với họ.” Ông mỉm cười với hàm răng mọc hỗn độn xấu xí trong
miệng.

“William...,” Flamel vừa thì thầm,
vừa lắc đầu.

“Nhà Giả kim, tôi không đến nỗi
hoàn toàn vô tích sự đâu. Tôi đã không thể sống được lâu thế này mà không biết
cut ít pháp thuật. Hãy nhớ lại đi, ở giữa lòng của mọi ma thuật là khả năng tưởng
tượng... và chưa từng có ai có khả năng tưởng tượng hơn tôi đâu nhé.”

“Đừng mang cái tôi lớn thế chứ,”
Palamedes xen vào. “Này Will, đây là một trận đánh mà chúng ta không thể thắng.
Chúng ta nên đi, gầy dựng lại nhóm và chiến đấu trong một ngày khác. Đi với
chúng tôi đi.” Gần như thoáng chút nài xin vương trong giọng nói của Hiệp sĩ
Saracen.

Đại thi hào bất tử lắc đầu kiên định.
“Tôi sẽ ở lại. Tôi biết mình không thể thắng. Nhưng tôi có thể cầm chân bọn
chúng ở đây vài giờ... có lẽ thậm chí đến tận lúc rạng đông. Bọn Wild Hunt
không thể chạy ra ngoài trong suốt mấy tiếng đồng hồ dưới ánh mặt trời được.”
Ông ta nhìn Nhà Giả kim. “Đây là việc tôi phải làm. Tôi đã phản bội ông một lần
rồi; bây giờ hãy cho tôi cơ hội sửa sai.”

Nicholas bước tới siết chặt cánh
tay che kín trong bộ giáp với một lực đủ mạnh để làm luồng điện của hai người bừng
sáng và kêu xèo xèo. “Shakespeare: thấm thía với những điều hôm nay tôi được biết,
tôi vinh dự được đứng lên chiến đấu cùng ông. Nhưng chúng ta hãy làm như Palamedes
nói: hãy để chúng tôi chọn trận chiến của chúng tôi. Ông không việc gì phải làm
thế này vì tôi đâu.”

“Ồ, nhưng tôi làm việc này không
chỉ vì mình ông,” Shakespeare nói. Ông ta hơi quay đầu, liếc xéo hai đứa nhỏ
sinh đôi nãy giờ đứng im lặng. “Tôi làm việc này vì bọn trẻ.” Trong bộ giáp kêu
rin rít cọt cà cọt kẹt, ông ta bước tới gần Sophie và Josh hơn, rồi nhìn vào mặt
từng đứa. Bây giờ ông ta đậm mùi hương chanh, hăng hắc và sạch, và hai đứa có
thể nhìn thấy chính chúng phản chiếu trên bộ giáp sáng ngời. “Tôi đã chứng kiến
sức mạnh của hai đứa nhỏ này. Đây là cặp song sinh huyền thoại, về chuyện này
tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Những người trung thành với các Elder đều có bổn
phận phải huấn luyện cặp song sinh này, nuôi dưỡng chúng. Sắp tới đây sẽ có lúc
bọn trẻ cần dùng đến năng lượng... quả thật, khi đó chính thế giới này sẽ cần đến
chúng.” Bước lùi lại, ông ta lắc đầu, đôi mắt to ướt đẫm ẩn sau cặp kính. “Và
tôi cũng sẽ làm như vậy đối với Hamlet, con trai yêu dấu đã ra đi của tôi. Đứa
con trai sinh đôi. Con bé chị nó đã không bao giờ còn được sống như trước kia kể
từ sau cái chết của nó, dù con bé còn sống nhiều năm sau đó. Tôi không có mặt ở
đó vào thời điểm ấy để giúp nó, nhưng tôi có thể giúp hai đứa nhỏ này.”

“Ông có thể giúp chúng tôi bằng
cách đi khỏi đây với chúng tôi,” Sophie nói nhẹ nhàng. “Tôi biết chuyện gì đang
đến.” Cô bé rùng mình khi những hình ảnh lộn xộn tối tăm xuất hiện nơi bờ rìa
tâm thức mình.

“Cernunnos và đạo quân Wild
Hunt.” Shakespeare gật đầu, và rồi ông ta nhìn quanh tìm nhóm Gabriel Hounds,
vài con vẫn còn trong hình dạng chó, dù hầu hết giờ đã mang lốt người rồi. “Người
sói đánh nhau với người chó. Sẽ là một trận chiến thú vị đây.”

“Chúng tôi cần ông,” Josh năn nỉ.

“Cần tôi á?” Shakespeare trông có
vẻ ngạc nhiên. “Tại sao mới được chứ?”

“Ông biết quá nhiều. Ông có thể dạy
chúng tôi,” cậu nói nhanh.

Đại thi hào lắc đầu, bộ giáp lấp
lánh. Ông ta hạ thấp giọng và nói thẳng với Josh và Sophie. “Nhà Giả kim biết
còn nhiều hơn - hơn rất nhiều - những gì tôi biết ấy chứ. Và Sophie đã thâm nhập
vào được kiến thức của hàng bao nhiêu năm; cô ấy biết nhiều hơn mình tưởng đấy.
Cậu không cần đến tôi đâu. Tôi không thể dạy cậu các pháp thuật cơ bản. Đó là
ưu tiên số một của các bạn: nếu các bạn có cơ hội sống sót trong những ngày sắp
tới, các bạn cần phải nắm vững được năm ma thuật thuần khiết.”

“Năm lận ư?” Josh trông có vẻ hoảng
hốt. “Tôi tưởng chỉ có bốn yếu tố cơ bản thôi.” Cậu nhìn Sophie. “Không khí và
Lửa, rồi đến Nước và Đất.”

“Bốn yếu tố cơ bản thôi sao?”
Shakespeare mỉm cười. “Cậu bỏ sót mất Điện từ rồi, pháp thuật thứ năm. Bí ẩn nhất,
mạnh mẽ nhất trong hết thảy. Nhưng để nắm vững được nó, trước tiên cậu phải kiểm
soát được bốn thứ kia.” Ông ta ngẩng đầu, quay sang Nhà Giả kim và cất cao giọng.
“Giờ thì đi đi thôi. Hãy mang bọn trẻ đến với Vua Gilgamesh. Và Nicholas,” ông
ta nói thêm với vẻ nghiêm trọng, “hãy cẩn thận. Ông biết ông ấy như thế nào rồi
đó.”

“Ông ấy như thế nào ạ?” Josh hỏ
ngay, chợt thấy lo lắng.

Đại thi hào hướng đôi mắt màu
xanh lơ nhàn nhạt về phía Flamel. “Ông chưa nói gì với bọn trẻ sao?” Ông ta
nhìn hai đứa song sinh và rồi thả tấm che mặt xuống, hoàn tất chiếc mặt nạ trên
mặt ông ta. Khi nói tiếp, giọng ông ta nghe như vang vọng từ nơi xa xôi. “Đầu
óc cao tượng của ông Vua này đã bị hư hại mất rồi. Ông ấy điên lắm. Hết sức, hết
sức điên khùng.”

Josh nhào đến Nhà Giả kim. “Chú
chưa bao giờ nói...”

Và rồi một âm thanh ấp kín màn
đêm. Chính là tiếng kêu rống của một con hươu đực: cổ xưa và nguyên sơ, âm
thanh cất lên đầy thú tính dội ra khỏi mấy bức tường kim loại và làm rung chuyển
khắp mặt đất, khiến những vũng nước cũng phải rúng động rung rung.

Phản ứng lại, luồng điện của
Sophie tự nhiên xuất hiện quanh người cô bé, tự động đúc thành một bộ giáp bảo
vệ; luồng điện của Josh nhấp nháy hiện ra như một gợn vàng ánh kim yếu ớt bao
phủ đầu và hai bàn tay.

Mùi dầu máy ẩm ướt của chiếc xe
hơi gỉ sét và bộ lông ướt nhẹp của nhóm Gabriel Hounds thình lình bị che lấp bởi
một mùi hôi thối vô cùng kinh tởm. Ngay lập tức cặp song sinh nhận ra thứ mùi từ
một kỳ nghỉ kết hợp với làm việc mà chúng đã trải qua ở Peru: đó là mùi mục nát
của rừng, nặng nề với mùi hương phát ngấy của sự thối rữa và ẩm thấp, của cây cối
đang hư nát và những bông hoa độc chết người.

Và rồi Cernunnos cùng với đạo
quân Wild Hunt rùng rùng mở cuộc tấn công.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3