Xác Ấm - Phần I - Chương 03
“Perry này,” Julie nói.
“Gì cơ.”
Chúng tôi đang ở chỗ bí mật của mình trên mái sân vận động. Chúng tôi nằm
ngửa ra trên một tấm chăn đỏ trải trên những tấm sắt trắng, nheo mắt ngắm bầu
trời xanh ngăn ngắt.
“Em nhớ máy bay,” nàng nói.
Tôi gật đầu. “Anh cũng thế.”
“Không phải là em nhớ cảm giác được đi máy bay đâu. Dù sao thì vì bố như
thế nên em cũng chưa được đi máy bay bao giờ. Em chỉ nhớ máy bay thôi.
Tiếng ì ầm ở đằng xa, những tia khói trắng... cách chúng lao qua bầu trời và
vạch nên những đường nét ấy mà? Mẹ em hay nói trông nó giống như một tấm bảng
vẽ ấy. Đẹp lắm.”
Tôi mỉm cười trước ý nghĩ ấy. Nàng nói đúng. Máy bay rất đẹp. Pháo hoa cũng
vậy. Cả hoa nữa. Các buổi ca nhạc. Diều. Những điều xa xỉ nho nhỏ mà chúng tôi
không còn nữa.
“Anh thích cách em nhớ đến mọi thứ,” tôi nói.
Nàng nhìn tôi. “Thì chúng ta phải nhớ chứ. Chúng ta phải nhớ tất cả mọi
thứ. Nếu không thì đến khi chúng ta lớn, tất cả sẽ biến mất vĩnh viễn.”
Tôi nhắm mắt lại để cho ánh sáng chói lọi chiếu đỏ ngầu qua mí mắt mình.
Tôi để nó ngấm vào não mình. Tôi quay đầu lại và hôn Julie. Chúng tôi đã ân ái
trên tấm chăn ấy trên mái sân vận động, cách mặt đất hai trăm bốn mươi mét. Mặt
trời trông chừng cho chúng tôi, dịu dàng mỉm cười như một người hộ tống tốt
bụng.
***
“Này!”
Mắt tôi bật mở. M đang nhìn tôi trừng trừng. Anh thò tay định chộp mẩu óc
trên tay tôi, nhưng tôi giật đi.
“Không,” tôi gầm gừ.
Tôi đoán M là bạn tôi, nhưng tôi thà giết anh còn hơn là để anh nếm được
cái này. Nghĩ đến cảnh những ngón tay nhếch nhác của anh chọc ngoáy, mò mẫm vào
những ký ức này, tôi chỉ muốn xé toạc lồng ngực anh và bóp chặt tim anh trong
tay mình, giẫm nát óc anh cho đến kho anh không còn tồn tại nữa. Nó là của
tôi.
M nhìn tôi. Anh nhận ra sự cảnh báo trong mắt tôi, nghe thấy tiếng còi hụ
báo động như khi có máy bay ném bom. Anh buông tay xuống. Anh nhìn tôi một hồi
lâu, vẻ khó chịu và bối rối. “Ki... bo,” anh lầm bầm, và khóa cửa tự nhốt mình
vào một buồng vệ sinh.
Tôi rời khỏi nhà vệ sinh với bước chân quyết đoán khác thường. Tôi chui qua
cửa chiếc 747 và đứng đó trong khuôn cửa ô van mờ sáng. Julie đang nằm trên một
chiếc ghế ngả về sau, khe khẽ ngáy. Tôi gõ nhẹ lên thân máy bay, và nàng ngồi
bật dậy, tỉnh ngay lập tức. Nàng nghi ngại nhìn tôi trong khi tôi lại gần. Mắt
tôi lại cay sè. Tôi nhặt cái túi của nàng từ dưới sàn lên và lục tìm bên trong.
Tôi lôi ra ví của nàng, tìm thấy trong đó một tấm ảnh. Chân dung một chàng
trai. Tôi giơ tấm ảnh lên ngang tầm mắt nàng.
“Tôi... xin lỗi,” tôi cất tiếng khàn khàn.
Nàng nhìn tôi, mặt không biểu cảm.
Tôi chỉ vào miệng mình. Tôi ôm bụng. Tôi chỉ vào miệng nàng. Tôi chạm vào
bụng nàng. Rồi tôi chỉ ra ngoài cửa sổ, chỉ bầu trời đen không một gợn mây, đầy
những ngôi sao tàn nhẫn. Đó là lời bào chữa kém cỏi nhất trên đời cho tội sát
nhân, nhưng tôi chỉ có thế. Tôi nghiến răng và nhắm nghiền mắt, cố làm dịu cảm
giác cay xé.
Môi dưới của Julie đanh lại. Mắt nàng đỏ hoe, ướt lệ. “Ai trong số các anh
đã làm thế?” Nàng nói, giọng như sắp vỡ òa. “Có phải là tên to con ấy không?
Cái tên béo ị đã suýt nữa bắt được tôi ấy?”
Tôi nhìn nàng trân trân hồi lâu, không hiểu các câu hỏi của nàng. Rồi tôi
chợt hiểu ra, và mắt tôi mở to.
Nàng không biết kẻ đó chính là tôi.
Căn phòng ấy rất tối và tôi đã tấn công từ phía sau. Nàng không nhìn thấy
tôi. Nàng không biết. Cặp mắt sắc sảo của nàng nhìn nhận tôi là một sinh vật
xứng đáng được nhìn nhận chứ không hề biết tôi mới giết người yêu của nàng,
nuốt trọn sự sống của gã, tiêu hóa linh hồn gã, và ngay lúc này đây trong túi
quần tôi vẫn còn một mẩu óc ngon lành của gã. Tôi có thể cảm thấy nó đốt cháy quần
tôi như một cục than hồng tội lỗi, và tôi lùi lại theo phản xạ, không thể hiểu
nổi sự may mắn quái gở này.
“Tại sao lại là tôi?” Nàng hỏi, chớp mắt ứa ra một
giọt lệ giận dữ. “Tại sao anh lại cứu tôi?” Nàng quay lưng lại với
tôi và co rúm trên ghế, vòng hai tay ôm lấy vai. “Trong tất cả mọi người...”
Nàng vùi mặt vào đệm ghế mà nói. “Tại sao lại là tôi.”
Đó là những câu hỏi đầu tiên của nàng. Không phải
là những câu liên quan đến sự an toàn của bản thân nàng, cũng không phải là
điều bí hiểm tại sao tôi lại biết tên nàng cũng như cái viễn cảnh khủng khiếp
về những gì tôi định làm với nàng; nàng không vội thỏa mãn những sự hiếu kỳ đó.
Câu hỏi đầu tiên của nàng là dành cho những người khác. Bạn của nàng, người yêu
của nàng, tự hỏi tại sao nàng không thể thế chỗ họ.
Tôi là đồ hèn hạ nhất trên đời. Tôi đang ở đáy cùng
vũ trụ.
Tôi thả rơi bức ảnh lên ghế và nhìn xuống sàn.
“Tôi... xin lỗi,” tôi nhắc lại, và rời máy bay.
Khi tôi ra khỏi đường hầm lên máy bay, có mấy Người
Chết đang đứng ở gần cửa. Họ nhìn tôi vô cảm. Chúng tôi im lặng đứng đó bất
động như những pho tượng. Rồi tôi đi qua họ lang thang vào trong dãy hành lang
tăm tối.
MẶT ĐƯỜNG RẠN NỨT kêu lọc xọc dưới bánh xe tải
của chúng tôi. Nó làm tình làm tội bộ giảm xóc kẽo kẹt của chiếc xe Ford cũ kỹ,
khiến cái xe rít lên như một tiếng gầm gừ tức giận bị nén lại. Tôi đưa mắt nhìn
bố. Trông ông già hơn so với trong trí nhớ của tôi. Yếu ớt hơn. Ông nắm chặt vô
lăng. Các đốt ngón tay của ông trắng bệch ra.
“Bố ơi?” Tôi gọi.
“Gì, Perry.”
“Mình đi đâu bây giờ?”
“Đến chỗ an toàn.”
Tôi nhìn ông chăm chú. “Có còn chỗ nào an toàn không?”
Ông ngập ngừng, ngập ngừng quá lâu. “Đâu đó an toàn hơn.”
Sau lưng chúng tôi, trong thung lũng nơi chúng tôi thường đi bơi và hái
dâu, ăn pizza và đi xem phim, thung lũng nơi tôi đã ra đời và lớn lên và khám
phá ra tất cả những điều có trong tôi lúc này, khói đang cuồn cuộn bốc lên. Cây
xăng nơi tôi mua Coca ướp lạnh đang bốc cháy. Cửa sổ trường cấp một của tôi đã
vỡ vụn. Đám trẻ con trong bể bơi công cộng lúc này không bơi.
“Bố ơi?” Tôi gọi.
“Gì.”
“Mẹ có sống lại không?”
Bố tôi cuối cùng cũng quay sang nhìn tôi, nhưng không nói gì.
“Sống lại như một trong số bọn chúng ấy?”
Ông quay lại nhìn đường. “Không.”
“Nhưng con tưởng là mẹ sống lại. Con tưởng giờ ai cũng sống lại.”
“Perry,” bố tôi nói, lời hầm hè gần như không thốt ra khỏi họng. “Bố đã
giải quyết chuyện đó rồi. Vì thế mẹ sẽ không sống lại.”
Những nếp nhăn hằn sâu trên mặt ông vừa mê hoặc tôi vừa khiến tôi ghê sợ.
Giọng tôi nghẹn lại. “Tại sao hả bố?”
“Vì mẹ con đã chết rồi. Không ai sống lại cả. Không hẳn. Con có hiểu
không?”
Những bụi cây lè tè và những ngọn đồi trọc trước mặt bắt đầu nhòe đi trong
mắt tôi. Tôi cố tập trung nhìn vào kính chắn gió, nhìn những con bọ nát bấy và
những vết rạn nhỏ xíu. Nhưng cả những thứ đó cũng nhòe đi.
“Hãy nhớ về mẹ,” Bố tôi nói. “Nhớ hết những điều con có thể, nhớ được lâu
chừng nào hay chừng đấy. Mẹ sẽ sống lại như thế. Chúng ta khiến
mẹ sống mãi. Chứ không phải là một lời nguyền oái ăm nào hết.”
Tôi nhìn mặt bố, cố dò đọc sự thật trong cặp mắt nheo lại của ông. Tôi chưa
bao giờ nghe ông nói như vậy.
“Thân xác chỉ là thịt thà thôi,” ông nói. “Cái phần đáng kể nhất của mẹ...
chúng ta được giữ nó.”
***
“Julie.”
“Gì cơ?”
“Lại đây. Nhìn xem.”
Gió thổi lật phật qua những tấm kính vỡ bao quanh bệnh viện nơi chúng tôi
đang tìm kiếm đồ đạc. Julie bước đến bên mép cửa sổ với tôi và nhìn xuống.
“Nó đang làm gì thế?”
“Anh không biết.”
Trên con phố phủ tuyết bên dưới, một Xác Sống đơn độc đang đi thành vòng
tròn. Nó va vào một chiếc ô tô, loạng choạng, rồi chậm rãi lùi về phía một bức
tường, và quay lưng đi theo hướng khác. Nó không kêu lên một tiếng nào và có vẻ
như không nhìn ngó gì cả. Julie và tôi nhìn nó một lát.
“Em không thích thế này,” nàng nói.
“ừ.”
“Nhìn... buồn quá.”
“ừ.”
“Nó bị sao thế nhỉ?”
“Chịu.”
Xác Sống đó đứng lại ở giữa phố, người lảo đảo. Mặt nó không có chút biểu
hiện nào. Chỉ là một lớp da phủ lên hộp sọ.
“Em không biết cảm giác đó như thế nào,” nàng nói.
“Cái gì cơ?”
“Khi biến thành chúng ấy.”
Tôi quan sát Xác Sống nọ. Nó bắt đầu lảo đảo mạnh hơn, rồi gục xuống. Nó
nằm nghiêng ở đó, mắt nhìn vỉa hè phủ băng, và không hề cử động.
“Nó đang...?” Julie lên tiếng, rồi ngưng lại. Nàng mở to mắt nhìn tôi, rồi
quay lại nhìn cái xác rúm ró nằm kia. “Có phải nó vừa chết không?”
Chúng tôi im lặng chờ đợi. Cái xác không nhúc nhích. Tôi thấy một cảm giác
run rẩy đâu đó trong sâu thẳm, như có những vật nhỏ xíu đang bò dọc cột sống.
“Đi thôi,” Julie nói và quay đi. Tôi theo nàng vào trong bệnh viện. Suốt
chặng đường về nhà chúng tôi không nghĩ ra điều gì để nói.
***
Dừng lại.
Hãy hít những hơi thở vô ích ấy đi. Hãy vứt bỏ cái mẩu sự sống mi đang đưa
lên miệng đây. Mi đang ở đâu? Mi đã ở đây bao lâu rồi? Dừng lại ngay. Mi phải
dừng lại.
Nhắm nghiền đôi mắt cay sè của mi lại, và hãy cắn một miếng nữa.
SÁNG HÔM SAU, vợ tôi tìm thấy tôi ngồi gục bên một trong những ô cửa sổ
cao từ sàn đến trần nhìn ra đường băng. Mắt tôi mở to, đầu bám bụi. Đầu tôi
ngoẹo sang một bên. Ít khi tôi để cho mình trông giống xác chết thế này.
Có gì đó không ổn với tôi. Trong bụng tôi có cảm giác trống rỗng nôn nao,
cảm giác pha trộn giữa cơn đói xé ruột xé gan và cơn say chuếnh choáng. Vợ tôi
túm lấy tay tôi kéo tôi đứng dậy. Cô ta bước đi, lôi theo tôi phía sau như một
cái va li kéo. Tôi cảm thấy cơm giận nóng rực tràn qua người, và tôi cất tiếng
nói với cô ta. “Tên,” tôi nói, gườm gườm nhìn tai cô ta. “Tên?”
Cô ta ném cho tôi một cái nhìn lạnh lùng và tiếp tục bước.
“Việc làm? Trường?” Giọng tôi chuyển từ tra hỏi sang chất vấn. “Phim? Bài
hát?” Những câu hỏi trào ra khỏi miệng tôi như dầu trào ra khỏi một ống dẫn bị
vỡ. “Sách?” Tôi quát lên. “Tranh? Thức ăn? Nhà? Tên?”
Vợ tôi quay lại và nhổ vào tôi. Nhổ vào áo tôi thực sự, gầm gừ như một con
thú. Nhưng ánh mắt cô ta khiến cơn giận của tôi nguội lạnh ngay tức khắc. Cô ta
đang... sợ. Môi cô ta run lên. Tôi đang làm gì thế này?
Tôi nhìn xuống sàn. Chúng tôi đứng im lặng mấy phút. Rồi cô ta đi tiếp, và
tôi đi theo, cố rũ bỏ đám mây đen kỳ lạ đã bao trùm lấy tôi.
***
Vợ tôi dẫn tôi đến một quầy hàng lưu niệm trống trơn đã bị thiêu trụi và
rên lên một tiếng to. Hai đứa con chúng tôi bước ra từ sau một giá sách bị
đổ, đầy những cuốn sách bán chạy nhất sẽ không được ai đọc. Mỗi đứa đang gặm
một cánh tay người, đã hơi ngả màu nâu ở đầu, không còn tươi nữa.
“Lấy... ở đâu?” Tôi hỏi chúng. Chúng nhún vai. Tôi quay sang bảo vợ tôi.
“Cần thứ... tốt hơn.”
Vợ tôi nhíu mày và chỉ vào tôi. Cô ta gừ gừ vẻ bực bội, và mặt tôi xịu
xuống vì bị mắng một cách chính đáng. Đúng là tôi đã không tỏ ra là một ông bố
giàu trách nhiệm. Liệu ta có thể mắc phải chứng khủng hoảng tuổi trung niên
không, khi mà ta không biết mình bao nhiêu tuổi? Tôi có thể khoảng ba mươi
tuổi, hoặc mười tám mười chín. Có khi tôi trẻ hơn Julie cũng nên.
Vợ tôi hực lên một tiếng với bọn trẻ và chỉ về phía hành lang. Chúng
gục đầu xuống và phát ra một tiếng than thở khò khè, nhưng vẫn đi theo chúng
tôi. Chúng tôi đang đưa chúng đến trường lần đầu tiên.
***
Một số người trong chúng tôi, có lẽ cũng chính là những Người Chết chăm chỉ
đã xây nên cái nhà thờ bằng bậc thang của đám Xương Khô, đã dựng cả một “phòng
học” trong khu ăn uống bằng cách xếp các va li nặng thành những bức tường cao.
Khi tôi và vợ con lại gần, chúng tôi nghe thấy những tiếng rên rỉ và kêu la
phát ra từ trong đấu trường ấy. Trước cửa ra vào là một đám trẻ con đứng xếp
hàng chờ tới lượt. Vợ chồng tôi dẫn hai đứa con đến cuối hàng rồi đứng xem bài
học đang diễn ra.
Năm đứa bé Người Chết đang vây quanh một Người Sống gầy còm, tuổi cỡ trung
niên. Ông ta lùi về phía đống hành lý, luống cuống nhìn phải nhìn trái, hai bàn
tay trống không cuộn lại thành nắm đấm. Hai đứa bé xông vào cố túm tay ông ta
kéo xuống, nhưng ông ta đẩy chúng ra. Đứa thứ ba cắn một mẩu ở vai ông ta và
người đàn ông thét lên như bị một vết thương chí tử, bởi vì quả thực là như
vậy. Từ bị Xác Sống cắn, cho tới chết đói, cho tới tuổi già và bệnh tật thông
thường, có rất nhiều cách để chết trong thế giới mới này. Có rất nhiều cách
khiến Người Sống gục ngã. Nhưng ngoại trừ một số người bị ăn hết hoặc mất não,
tất cả mọi con đường đều dẫn đến chúng tôi, những Người Chết, và
cuộc sống bất tử chẳng lấy gì làm huy hoàng của chúng tôi.
Sự biến đổi sắp tới khiến người đàn ông kia như đờ đẫn cả đi. Một đứa bé
cắn ngập răng vào đùi ông ta, nhưng ông ta còn chẳng thèm giật mình nữa, mà chỉ
cúi xuống và đập đầu nó bằng cả hai nắm tay cho tới khi sọ nó sụp xuống và cổ
nó gãy đánh đốp một tiếng. Nó loạng choạng lùi ra, mặt cau có, đầu vẹo sang một
bên.
“Sai!” Thầy giáo của chúng quát. “Cắn... cổ!”
Bọn trẻ lùi lại và cảnh giác quan sát người đàn ông.
“Cổ!” Thầy giáo nhắc lại. Rồi thầy và viên trợ giảng lê bước vào đấu
trường, chồm lên người đàn ông, dúi ông ta xuống đất. Thầy giáo giết người đàn
ông và đứng dậy, máu chảy ròng ròng xuống cằm. “Cổ,” thầy lại nói, đưa tay chỉ
cái xác.
Năm đứa trẻ ngượng ngùng đi ra, và năm đứa tiếp theo được đẩy vào phòng.
Hai đứa con tôi ngước lên nhìn tôi vẻ lo lắng. Tôi vỗ đầu chúng.
Chúng tôi nhìn người chết bị kéo ra để ăn, và người tiếp theo bị lôi vào
phòng học. Người này đã già, tóc đã bạc, nhưng rất to con, có lẽ trước kia từng
là nhân viên an ninh. Phải đến ba người đàn ông mới có thể lôi ông ta vào đấu
trường một cách an toàn. Họ ném ông ta vào một góc rồi đứng canh ở cửa ra vào.
Năm đứa bé trong phòng có vẻ lo ngại, nhưng thầy giáo quát lên ra lệnh cho
chúng, và chúng bắt đầu tấn công. Khi đến gần, cả năm đứa xông vào cùng một
lúc, hai đứa giữ hai tay người đàn ông, còn đứa thứ năm cắn cổ. Nhưng ông già
khỏe đến không ngờ. Ông ta xoay người ném mạnh hai đứa về phía bức tường xây
bằng va li. Cú va đập khiến bức tường rung lên, và một chiếc va li kim loại
nặng đổ từ trên xuống. Người đàn ông cầm chiếc va li, giơ nó lên cao, rồi đập
mạnh xuống đầu một đứa trẻ. Sọ nó vỡ nát, não bắn ra ngoài. Nó không hề kêu hay
co giật hay run rẩy, nó chỉ co rúm lại thành một đám chân tay sõng soài trên
mặt đất như thể nó đã chết từ nhiều tháng nay rồi. Rốt cuộc thì cái chết cũng
đã bắt được nó với sự chấm hết muộn màng.
Cả lớp im phăng phắc. Bốn đứa trẻ còn lại lùi ra khỏi đấu trường. Không ai
để ý đến mấy người lớn chạy vào trong để xử lý ông già kia. Tất cả chúng tôi
đều nhìn cái xác rúm ró của đứa bé với vẻ rầu rĩ cam chịu. Chúng tôi không thể
biết ai trong số những người lớn đang tập hợp ở đây là bố mẹ nó, vì vẻ mặt
chúng tôi ai cũng như nhau. Cho dù họ là ai thì họ cũng sẽ sớm quên nỗi mất mát
này thôi. Chỉ đến mai là đám Xương Khô sẽ xuất hiện với một đứa trẻ khác để
thay thế đứa này. Chúng tôi lúng túng im lặng mấy giây để tưởng niệm đứa bé mới
bị giết, rồi lớp học lại tiếp tục. Mấy bậc phụ huynh đưa mắt nhìn nhau, tự hỏi
không biết cái vòng tròn cuộc sống méo mó đảo lộn này có nghĩa là gì. Hoặc có
khi chỉ là tôi tưởng tượng ra thế thôi.
Sắp đến lượt hai đứa con tôi. Chúng chăm chú theo dõi bài học, thỉnh thoảng
còn rướn chân lên để nhìn, nhưng chúng không tỏ vẻ sợ hãi. Chúng bé hơn những
đứa khác, và có lẽ sẽ chỉ phải đối mặt với một người đã quá yếu không còn chống
cự nổi nữa, nhưng chúng không biết điều này, và đó cũng không phải là lý do
chúng không thấy sợ. Khi cả thế giới được dựng nên bởi cái chết và sự kinh
hoàng, khi cuộc sống chỉ là một tình trạng hoảng loạn không bao giờ ngừng, thì
ta khó có thể lo lắng chỉ vì một điều duy nhất. Những nỗi sợ cụ thể đã chẳng
còn quan trọng gì. Chúng tôi đã thay thế chúng bằng một tấm chăn bóp nghẹt
khủng khiếp hơn nhiều.
***
Tôi đi đi lại lại cả giờ đồng hồ trước đường hầm dẫn vào chiếc 747 rồi mới
bước vào. Tôi khe khẽ mở cửa máy bay ra. Julie đang nằm cuộn tròn trên ghế
ở khoang hạng thương gia, ngủ say. Nàng đã quấn mình trong một chiếc chăn chắp
vá từ những mảnh vải quần bò mà tôi đem về làm kỷ niệm mấy tuần trước. Ánh
mặt trời chiếu lên mái tóc óng vàng của nàng như vầng hào quang quanh đầu một
vị thánh.
“Julie,” tôi thì thào.
Mắt nàng hé mở. Lần này nàng không ngồi bật dậy hay tránh ra khỏi tôi nữa.
Nàng chỉ nhìn tôi bằng cặp mắt sưng húp, mệt mỏi. “Cái gì,” nàng lầm bầm.
“Cô... thế...?”
“Anh nghĩ là tôi thế nào.” Nàng xoay lưng lại với tôi và kéo chăn lên vai.
Tôi đứng nhìn nàng hồi lâu. Dáng nằm của nàng đúng là một bức tường gạch.
Tôi cúi đầu xuống và quay lưng đi. Nhưng khi tôi bước qua ngưỡng cửa, nàng nói,
“Đợi đã.”
Tôi quay lại. Nàng đã ngồi lên, tấm chăn cuộn tròn trong lòng. “Tôi đói,”
nàng nói.
Tôi trố mắt nhìn nàng. Đói ấy à? Nàng muốn một cánh tay hay một cái chân ư?
Máu nóng hôi hổi, thịt tươi và sự sống ư? Nàng là Người Sống... nàng muốn ăn
chính mình sao? Rồi tôi nhớ ra trước kia đói nghĩa là gì. Tôi nhớ ra thịt bò
bít tết và bánh kếp, cơm và hoa quả và rau, cái kim tự tháp ngồ ngộ về
hình các nhóm thức ăn. Đôi khi tôi cũng thèm được thưởng thức mùi vị, thay vì
chỉ ngốn ngấu nuốt năng lượng, nhưng tôi cố không nghĩ nhiều đến nó. Những thứ
thức ăn cũ không thể làm dịu cơn đói của chúng tôi nữa. Ngay cả thịt tươi roi
rói từ một con thỏ hay hươu mới bị giết cũng không xứng với tiêu chuẩn ăn uống
của chúng tôi; năng lượng đồ ăn kiểu ấy cung cấp không hợp với chúng tôi, cũng
giống như là chạy máy vi tính bằng dầu diesel vậy. Chúng tôi không có cách giải
quyết dễ dàng nào khác, không có sự thay thế nhân đạo nào khác dành cho những
kẻ có lương tâm theo thời. Cơn đói mới đòi hỏi sự hy sinh. Nó đòi hỏi nỗi đau
đớn của con người để đổi lấy khoái lạc của chúng tôi, cho dù những khoái lạc ấy
có ít ỏi và rẻ rúng đến thế nào.
“Thức ăn ấy mà?” Julie nhắc tôi. Nàng làm bộ cắn một miếng. “Bánh mì kẹp?
Pizza? Cái gì không liên quan đến giết người ấy?”
Tôi gật đầu. “Tôi sẽ... lấy.”
Tôi quay đi nhưng nàng giữ tôi lại.
“Hãy thả cho tôi đi,” nàng nói. “Anh đang làm cái
gì vậy? Tại sao anh lại nhốt tôi ở đây?”
Tôi nghĩ một lát. Tôi đến bên cửa sổ chỗ nàng ngồi và chỉ lên đường băng
bên dưới. Nàng nhìn, và thấy lễ nhà thờ đang tiến hành. Thấy đám Người Chết,
người lảo đảo, miệng rên rỉ. Thấy những bộ xương khô kêu lắc rắc không lời
nhưng lại đầy sức hấp dẫn khó hiểu, hàm răng nứt rạn của chúng nghiến kèn kẹt.
Dưới đó có đến hàng chục người tụ họp lại.
“Bảo vệ cô... an toàn.”
Từ ghế ngồi, nàng ngước lên nhìn tôi bằng ánh mắt tôi không đọc nổi. Mắt
nàng nheo lại và môi nàng mím chặt, nhưng không hẳn là vì giận dữ. “Sao anh
biết tên tôi?” Nàng gặng hỏi.
Thế đấy. Tôi biết kiểu gì nó cũng phải đến mà.
“Trong tòa nhà ấy. Anh đã gọi tên tôi, tôi còn nhớ. Làm thế quái nào
mà anh lại biết tên tôi?”
Tôi không tìm cách trả lời. Không có cách nào để giải thích những điều tôi
biết và làm sao tôi lại biết được chúng, nhất là với vốn từ như trẻ mẫu giáo và
kiểu phát âm thiểu năng của tôi. Vì vậy tôi lùi lại, ra khỏi máy bay và đi xuôi
theo đường hầm, trong lòng cảm thấy rõ rệt hơn bao giờ hết sự kém cỏi ở bản
chất của mình.
Khi tôi đứng ở Cổng số 12 tự hỏi không biết nên đi đâu, tôi thấy có ai đó
chạm vào vai mình. Julie đang đứng sau lưng tôi. Nàng nhét tay vào chiếc quần
bò bó màu đen nàng đang mặc, vẻ phân vân. “Cứ để tôi ra ngoài, đi lại một chút
thôi cũng được,” nàng nói. “Ở trong cái máy bay ấy tôi phát điên lên rồi.”
Tôi không trả lời. Tôi nhìn quanh những dãy hành lang.
“Thôi nào,” nàng nói. “Tôi đã đi vào đây mà không ai ăn
tôi cả. Cho tôi đi cùng anh tìm thức ăn đi. Anh không biết tôi thích ăn gì
đâu.”
Cũng... không hoàn toàn đúng thế. Tôi biết nàng thích mì xào Thái. Tôi biết
nàng thèm sushi. Tôi biết nàng không thể cầm lòng trước bánh burger kẹp pho mát
béo ngậy, bất chấp lề lối ăn uống giữ dáng nghiêm ngặt ở sân vận động. Nhưng
tôi không thể dùng những hiểu biết đó. Chúng là những điều tôi đánh cắp được.
Tôi chậm rãi gật đầu và chỉ vào nàng. “Chết,” tôi nói rõ ràng. Tôi nghiến
răng và lê chân bước kiểu Xác Sống thật cường điệu.
“Được thôi,” nàng nói.
Tôi lê đi thành một vòng tròn, bước chân lề rề, run rẩy, thỉnh thoảng lại
rên lên một tiếng.
“Hiểu rồi.”
Tôi nắm lấy cổ tay nàng và dẫn nàng vào hành lang. Tôi chỉ về hai phía
cho nàng thấy hai nhóm Xác Sống đang lang thang trong bóng mờ buổi sáng. Tôi
nhìn thẳng vào mắt nàng. “Đừng... chạy.”
Nàng vạch chéo lên ngực trái. “Tôi hứa.”
Khi đứng gần nàng như thế, tôi lại ngửi thấy mùi của nàng. Nàng đã chùi gần
sạch hết thứ máu đen trên da, và qua những chỗ hở đó tôi có thể loáng thoáng
nhận ra mùi sự sống của nàng. Nó sủi tăm lóc nóc như rượu champagne, làm tôi
thấy giần giật sâu tít tận trong xoang mũi. Vẫn không rời mắt nàng, tôi xoa tay
lên một vết đứt mới trên cánh tay, và mặc dù vết đứt đã gần khô, tôi vẫn lấy
được một ít máu. Tôi chậm rãi bôi thứ mực này lên mặt và cổ nàng. Nàng rùng
mình, nhưng không lùi ra. Chưa kể đến tất cả những điều khác, nàng quả là một
cô gái thông minh.
“Được chứ?” Tôi nhướng mày hỏi.
Nàng nhắm mắt, hít một hơi dài, nhăn mặt lại vì mùi máu của tôi, rồi gật
đầu. “Được.”
Tôi bước đi và nàng theo sau, người lảo đảo, cứ khoảng ba bốn bước lại rên
lên một tiếng. Nàng đang lộ liễu quá, phô trương như trong một vở kịch
Shakespeare diễn ở trường cấp ba vậy, nhưng cũng tạm được. Chúng tôi đi qua
những đám đông Người Chết đang lê bước hai bên, và không ai đưa mắt nhìn chúng
tôi cả. Tôi kinh ngạc khi thấy chúng tôi càng đi xa thì nỗi sợ của Julie dường
như càng giảm bớt, bất kể mối nguy trước mắt. Có lúc tôi còn thấy
nàng cố nhịn cười sau khi rên lên một tiếng thật kêu. Tôi cũng cười, nhưng
không để nàng nhìn thấy mình.
Chuyện này thật... mới lạ.

